Friday, July 31, 2015

Ngáy


So sánh đường thở bình thường và đường thở của bệnh nhân ngáy và ngưng thở khi ngủ.
 
 
Người ta ước lượng có đến phân nửa nhân loại người lớn ngáy. Chúng ta ngáy khi luồng không khí hít vào đi qua cổ họng đang mềm giãn tối đa khiến phần này rung lên tạo ra âm thanh ngáy. Ngáy gây ra nhiều hậu quả khá nghiêm trọng, kể cả làm tan vỡ những cuộc tình. Người ta ít khi kể triệu chứng khó nói này với bác sĩ nhưng thực ra, cần nói với bác sĩ về chuyện này bởi vì có nhiều phương pháp chữa sau khi nguyên nhân của chứng bệnh được tìm ra.
Triệu chứng

Tùy theo nguyên nhân, những triệu chứng có thể gồm:

-Tiếng động phát ra khi ngủ

-Buồn ngủ vào ban ngày

-Khó tập trung suy nghĩ

-Đau cổ họng

-Ngủ không yên giấc

-Thở hắt hay ngộp thở ban đêm

-Cao huyết áp

-Đau ngực ban đêm

Nên gặp bác sĩ khi bạn ngáy quá to đến nỗi làm người bên cạnh mất ngủ hay bạn thức giấc vì bị thở hắt hay ngộp thở. Những triệu chứng này có thể cho thấy là bạn bị một bệnh nào đó nghiêm trọng, thí dụ như “ngưng thở ban đêm” (sleep apnea). Nếu trẻ em ngáy, nên hỏi bác sĩ của bé vì trẻ em cũng có thể bị bệnh này. Các em còn có thể bị vấn đề ở mũi và cổ họng thí dụ như cục thịt dư cổ họng quá lớn, hay mập phì khiến gây ra bệnh ngưng thở vì bị nghẹt do khí quản bị hẹp lại.
Nguyên nhân chứng ngáy

Khi chúng ta rơi vào giấc ngủ, từ ngủ sẽ cho tới ngủ sâu, các bắp thịt ở nóc miệng, lưỡi và cổ họng sẽ giãn ra. Các mô tế bào của cổ họng có thể giãn nở ra đủ để làm nghẹt một phần đường thở và rung lên. Đường thở càng hẹp thì luồng khí vào sẽ càng phải đi mạnh hơn, làm tăng rung khiến càng ngáy to thêm.
Những tình trạng dưới đây có thể ảnh hưởng đến đường thở và gây ra ngáy:

-Cấu trúc cơ thể của miệng: Người có nóc miệng phía sau (soft palate) thấp và dầy thì có thể bị hẹp đường thở. Người mập phì có thể có dư mô tế bào ở phía sau của cổ họng khiến hẹp đường thở. Cũng vậy nếu miếng tiểu thiệt (uvula) tức miếng thịt thòng từ nóc vọng xuống giữa cổ họng quá dài, luồng không khí hít vào có thể bị tắc và sự rung tăng lên khiến gây ra ngáy.



Đường thở của bệnh nhân ngáy và ngưng thở bị tắc nghẽn vì lưỡi và vòm họng giãn ra và thụng xuống.


Máy CPAP (continuos positive airway pressure)





-Uống rượu quá nhiều trước giờ ngủ sẽ làm tăng ngáy vì rượu làm giãn bắp thịt cổ họng và giảm sự đề kháng tự nhiên của cơ thể để chống lại nghẹt thở.

-Mũi có vấn đề: Nghẹt mũi kinh niên hay màng ngăn giữa mũi bị vẹo có thể gây ngáy

-Ngưng thở khi ngủ (sleep apnea): Ngáy có thể liên hệ với chứng ngưng thở khi ngủ. Bệnh nhân bị nghẹt thở khi ngủ vì mô tế bào ở cổ họng bít chặt toàn phần hay một phần đường thở. “Sleep apnea” thường có thể được nhận ra khi bệnh nhân xen kẽ những quãng ngáy thật to với những quãng im lặng. Lúc họ im lặng là lúc họ ngưng thở. Sau cùng, quãng ngưng thở này sẽ làm họ thức giấc với một tiếng khịt to hay tiếng thở hắt ra trước khi họ ngủ lại. Vòng luẩn quẩn này cứ tiếp diễn ít nhất là 5 lần mỗi giờ khiến bệnh nhân ngủ không yên giấc, gây ra chứng buồn ngủ ban ngày.

-Đàn ông dễ bị ngáy hơn đàn bà. Người cân nặng quá khổ hay mập phì dễ bị ngáy hay ngưng thở khi ngủ hơn. Chứng ngáy cũng xẩy ra cho nhiều người trong cùng gia đình hơn.
Biến chứng

Chứng ngáy tự nó đã là một sự khó chịu cho người bệnh và người chung quanh. Không những vậy, nó còn có thể đưa tới những biến chứng khác như:

-Buồn ngủ ban ngày

-Thường khó chịu hay giận dữ

-Khó tập trung suy nghĩ

-Dễ bị cao huyết áp, bị bệnh tim hay tai biến mạch máu não

-Dễ gây gổ với người khác hoặc có vấn đề trong chuyện học hành

-Dễ gây tai nạn xe cộ vì buồn ngủ trong khi lái xe
Định bệnh

Sau khi hỏi về triệu chứng và khám người bệnh, bác sĩ có thể phải cho làm nhiều thử nghiệm để tìm ra nguyên nhân chứng ngáy của bạn. Ngoài những thử nghiệm thường nghe nói đến như chụp quang tuyến X, MRI, CT scan..., bác sĩ có thể cho làm một thử nghiệm đặc biệt là thử nghiệm giấc ngủ (sleep study). Thử nghiệm này thường được thực hiện tại một nơi đặc biệt gọi là sleep center, là nơi bệnh nhân nằm ngủ và được nối liền với nhiều máy móc đo nhịp thở, nhịp tim, sóng não, mức oxygen trong máu, chuyển động của mắt và chân. Từ những thông tin này, bác sĩ có thể tìm ra nguyên nhân chứng ngáy và tùy theo đó để chữa.
Chữa bệnh

Để chữa dứt chứng ngáy, bác sĩ thường khuyên bệnh nhân phải thay đổi lối sống như cố gắng giảm cân, ngưng uống rượu trước khi đi ngủ hoặc đổi thế nằm ngủ. Nếu không hiệu quả hoặc bệnh nhân không làm theo, bác sĩ có thể dùng những cách sau:

-Miếng để vào miệng giúp đưa lưỡi và tiểu thiệt (uvula) ra trước để bớt nghẹt đường thở. Cần phải đến nha sĩ để lấy mẫu làm miếng này vừa với miệng, sau đó cần gặp nha sĩ mỗi 6 tháng để xem miếng này còn vừa không và tình trạng ngáy có đỡ hơn không. Đeo miếng này có thể bị ra nước miếng nhiều, khô miệng, đau hàm và khó chịu nơi mặt.

-CPAP: là một mặt nạ có áp suất cao từ một máy bơm, giúp đẩy không khí vào đường thở khiến đường thở mở hơn. CPAP làm dứt ngáy và chữa bệnh ngưng thở khi ngủ. Đây là cách chữa hiệu nghiệm nhất nhưng nhiều người thấy khó chịu vì vướng víu và tiếng ồn của máy.

-Ngoài ra còn vài cách chữa khác như giải phẫu cắt bớt những mô nơi cổ họng hoặc cách chích vào vòm hầu phía sau làm nó cứng hơn. Những cách này còn đang được nghiên cứu.
Tự giúp

Theo những phương cách dưới đây có thể giúp bớt ngáy:

-Giảm cân nếu bạn bị cân nặng quá khổ hay mập phì

-Nằm ngủ nghiêng một bên, không nằm ngửa

-Nằm giường đầu cao khoảng 4 in (10cm)

-Dùng “nasal strips” mua tự do ở các nhà thuốc dán lên mũi để giúp thông hơn. Nasal strips không chữa ngưng thở khi ngủ được.

-Chữa cho hết bệnh nghẹt mũi, có thể do dị ứng hay vẹo miếng ngăn giữa mũi. Không nên dùng thuốc uống hay xịt trị nghẹt mũi bán tự do quá vài ngày vì dùng lâu ngày có thể bị hiệu ứng ngược khiến bị nghẹt nhiều hơn. Nên xin toa mua thuốc xịt mũi steroid.

-Tránh uống rượu hay thuốc ngủ

-Hát mỗi ngày 20 phút hay hơn cũng làm các bắp thịt vùng cổ họng mạnh hơn, giúp bớt ngáy.

Chứng đau gót chân

Không ít người đã từng bị chứng đau gót chân hành hạ. Một buổi sáng đẹp trời, bạn vừa thức giấc và đặt chân xuống sàn nhà thì bị đau thốn ở gót chân, đôi khi có thể đau đến không đi được, và mỗi lần bàn chân chạm đất là mỗi lần bị đau. Vậy là bạn đã bị chứng đau gót chân mà nguyên nhân thông thường nhất là viêm dây gân ở lòng bàn chân (plantar fascia). Dây gân này chạy dọc lòng bàn chân của bạn, nối xương gót với các ngón chân.
Sưng dây gân lòng bàn chân (plantar fasciitis) sẽ làm gót chân bạn đau như bị dao đâm, thường xảy ra với những bước chân đầu tiên vào buổi sáng. Khi thả lỏng bàn chân, bạn thấy bớt đau, nhưng cái đau có thể trở lại khi bạn đứng lâu hoặc đứng lên sau khi ngồi lâu.

Chứng này rất thường thấy nơi những người hay chạy (runners). Ngoài ra, những người cân nặng quá khổ, phụ nữ đang mang thai và những người hay mang giày không chắc chắn cũng dễ bị chứng đau này.
Triệu chứng
Trong hầu hết các trường hợp, bệnh nhân có những triệu chứng sau:

-Đau ngày càng tăng

-Chỉ đau một chân, mặc dù bệnh có thể xảy ra ở cả hai chân cùng một lúc

-Đau xẩy ra với các bước đầu tiên sau khi thức dậy, mặc dù cũng có thể xẩy ra khi đứng lâu hoặc đứng lên từ tư thế ngồi.

-Gót chân đau như bị đâm
Nguyên nhân
Thông thường, dây gân lòng bàn chân hoạt động như một dây cung hấp thụ chấn động, hỗ trợ vòm cong của bàn chân. Nếu dây cung này bị căng quá độ, nó có thể bị các vết xước nhỏ. Nếu cứ bị căng và xước nhiều lần như vậy, dây gân sẽ bị viêm, sưng.
Ai dễ bị sưng dây gân?
Những yếu tố có thể làm tăng nguy cơ bị sưng dây gân bao gồm:
-Tuổi: Người trong độ tuổi từ 40 và 60 dễ bị nhất

-Phái tính: Phụ nữ bị nhiều hơn

-Cách tập thể dục: Những hoạt động đặt nhiều sức căng trên gót chân và những mô kèm theo- chẳng hạn như chạy đường dài, múa ballet và nhảy aerobics - có thể góp phần gây ra sưng dây gân.

-Cấu tạo bàn chân có “vấn đề”: Bàn chân phẳng (flat foot), vòm chân quá cong hoặc tướng đi bất thường có thể ảnh hưởng đến cách trọng lượng phân phối khi bạn đứng và tạo thêm căng thẳng trên dây gân.

-Béo phì: Trọng lượng thân thể quá nặng tạo thêm sức đè và căng thẳng trên dây gân bạn.

-Nghề nghiệp: Công nhân nhà máy, giáo viên và những người phải đi bộ hoặc đứng trên các bề mặt cứng trong thời gian dài khi làm việc có thể gây thương tích cho dây gân của họ.

-Mang giày thiết kế không đúng cách: Nên tránh giày lỏng lẻo, có đế mỏng, cũng như những đôi giày không có phần hỗ trợ cho vòm cong của bàn chân hoặc không có phần lót đầy đủ để hấp thụ sốc. Nếu bạn thường xuyên mang giày cao gót, dây gân gót chân (Achilles tendon) của bạn có thể co rút và bị ngắn lại, làm những mô xung quanh gót chân bị căng và dễ tổn thương.
Biến chứng
Bỏ qua không chữa bệnh sưng dây gân có thể đưa đến đau gót chân kinh niên gây cản trở cho những hoạt động thường xuyên của bạn. Bạn cũng có thể bị đau chân, đầu gối, hông hoặc lưng vì sưng dây gân khiến bạn thay đổi cách đi của mình. Nên hỏi ý kiến bác sĩ gia đình và bác sĩ có thể giới thiệu bạn đến một bác sĩ chuyên khoa bàn chân hay y khoa thể thao.
Phương pháp điều trị và thuốc
Khoảng 90% những người bị sưng dây gân bàn chân hết bệnh với các phương pháp điều trị thông thường trong một vài tháng.

Thuốc: Các loại thuốc để giảm bớt các triệu chứng:

-Thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs): Ibuprofen (Advil, Motrin, những hiệu khác) và naproxen (Aleve), có thể làm giảm đau và viêm, mặc dù không điều trị tận gốc.

-Corticosteroid: Bác sĩ có thể dùng phương pháp Iontophoresis: dán thuốc trên chỗ đau và cho một dòng điện không đau chạy qua để giúp hấp thu thuốc. Hoặc bác sĩ có thể chích thẳng thuốc vào chỗ đau. Không nên chích nhiều lần vì có thể làm suy yếu dây gân hoặc dây gân bị vỡ, hay phần chất béo bao quanh xương gót chân bị nhỏ lại.

Phương pháp điều trị khác

Stretching, các bài tập làm tăng sức mạnh hoặc dùng những dụng cụ đặc biệt có thể làm giảm bớt triệu chứng.

-Thể lý trị liệu: Các bài tập căng dây gân lòng bàn chân, dây gân Achilles và làm mạnh các cơ cẳng chân khiến ổn định mắt cá và gót chân của bạn. Dùng băng dán đúng cách cũng có thể giúp hỗ trợ lòng bàn chân của bạn.

-Đeo nẹp ban đêm: Bác sĩ có thể khuyên bạn đeo một thanh nẹp trải dài bắp chân và vòm cung bàn chân trong khi ngủ. Nẹp giữ dây gân lòng bàn chân và gân Achilles thẳng trong một thời gian dài, giúp căng những dây gân này.

-Dụng cụ chỉnh hình: Bác sĩ có thể kê toa cho mua dụng cụ hỗ trợ vòm bàn chân để giúp phân phối áp lực trên chân đồng đều hơn.
Nếu tất cả các phương pháp thông thường trên không có kết quả, có thể phải giải phẫu để chữa bệnh, nhưng điều này ít khi xảy ra.
Những phương pháp khác
-Châm cứu được cho là có thể giúp chữa bệnh sưng dây gân lòng bàn chân rất hữu hiệu

-Những dụng cụ hổ trợ vòm bàn chân có chứa nam châm được quảng cáo là hữu hiệu nhưng không có chứng cớ gì cho thấy điều này đúng.
Tự giúp
Nên theo những cách sau để làm giảm đau và khó chịu ở bàn chân của bạn:

-Nghỉ không đi lại một vài ngày khi bị đau nhiều

-Chườm đá: Chườm túi đá lên vùng đau trong 15 đến 20 phút, ba hoặc bốn lần một ngày hoặc sau khi hoạt động. Hoặc thử xoa bóp bằng nước đá. Lăn một ly giấy chứa đầy nước đá trên chỗ đau trong khoảng 5-7 phút. Thường xuyên xoa bóp bằng nước đá có thể giúp giảm đau và viêm.

-Bớt đi bộ hay chạy cho đến khi khỏi đau

-Tập thể dục bằng những môn có tác động thấp (low impact): Thay vì đi bộ hoặc chạy bộ thì nên đổi qua đi xe đạp hay bơi lội. Bạn sẽ có thể trở lại hoạt động trước kia nếu giảm bớt đau gót chân. Tuy nhiên, một số người thấy rằng cách duy nhất để tránh đau trở lại là ngưng tập những môn có tác động cao (high impact), chẳng hạn như chạy bộ và nhảy.

-Đeo thêm dụng cụ hỗ trợ vòm bàn chân trong đôi giày của bạn.

-Tập những động tác làm căng vòm bàn chân.
Phòng ngừa
Bạn có thể theo những cách sau đây để ngừa bệnh đau giót chân

-Giữ cân nặng vừa phải khiến giảm thiểu sự căng thẳng trên dây gân.

-Chọn giày tốt: Tránh đi giày cao gót. Mua giày thấp hoặc cao trung bình, có phần hỗ trợ vòm lòng bàn chân tốt và hút sốc. Đừng đi chân đất, đặc biệt là trên các bề mặt cứng.

-Đừng mang giày thể thao đã mòn. Nên mua giày mới sau khi đã sử dụng khoảng 500 dặm.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Những câu hỏi về bệnh suyễn

Bệnh suyễn hiện nay rất thông thường. Hầu như trẻ em nào cũng có thời kỳ bị ho lâu ngày, khò khè, khó thở. Do đó, cha mẹ hay người chăm sóc trẻ cần phải hiểu về bệnh suyễn hầu có thể giúp con em mình tránh bị ho, khò khè... quanh năm, nhất là về mùa đông. Sau đây là một số câu hỏi thông thường về bệnh suyễn.
Hỏi: Con tôi bị suyễn. Tôi có nên thay thế thảm trong nhà bằng sàn gỗ hay nhựa?

Đáp: Một trong những cách để phòng ngừa bị lên cơn suyễn là làm giảm bớt những nhân tố kích động cơn suyễn. Thảm trong nhà là nơi chứa nhiều thứ có thể kích động cơn suyễn vì chúng gây ra dị ứng. Đặc biệt, thảm trong phòng ngủ là chỗ dễ gây bệnh hơn cà vì chúng ta ngủ cả 7-8 giờ trong phòng và hít bụi từ thảm trong suốt thời gian đó. Những loại sàn cứng như gỗ, nhựa, gạch... thì dễ giữ sạch, bớt có con bọ bụi, phấn hoa, lông chó mèo và những chất gây dị ứng khác.

Thường xuyên giặt thảm có thể giúp bớt bọ bụi và những chất gây dị ứng. Nếu đã giặt và giữ sạch thảm thường xuyên mà con bà vẫn bị lên cơn suyễn nhiều lần thì có lẽ bà nên thay thảm bằng sàn cứng. Tuy nhiên nên nhớ rằng tất cả những vật liệu sàn hóa học đều tiết ra chất hơi gọi là volatile organic compounds (VOCs) trong thời gian đầu. Chất này có thể kích động cơn suyễn. Sau một thời gian nhiều ngày thì mới hết chất này. Có một số sàn tiết ra VOC nhiều hơn, bà nên tìm xem loại sàn nào ít tiết ra chất VOC nhất.

Nếu cháu tiếp tục lên cơn, bà nên cho cháu đi khám bệnh ở bác sĩ chuyên về dị ứng để làm thử nghiệm da tìm xem cháu bị dị ứng với chất gì. Một khi biết được những chất gây dị ứng cho cháu, bà sẽ dễ dàng tìm cách loại bỏ chất ấy.
Hỏi: Dị ứng thức ăn có liên quan gì với bệnh suyễn không? Tôi bị cả hai thứ từ rất nhiều năm và cảm thấy hình như chúng liên quan với nhau.

Đáp: Vâng, rất thường thấy người bị dị ứng thức ăn cũng bị suyễn. Tuy nhiên, sự liên hệ giữa hai tình trạng này chưa được hiểu rõ lắm.

Dị ứng thức ăn và dị ứng đường hô hấp rất gần gụi. Thí dụ, bị dị ứng với những chất đạm (proteins) trong phấn hoa có thể trùng hợp với phản ứng dị ứng với trái cây và rau có cùng chất đạm ấy.

Một vài chất gây phản ứng dị ứng có thể kích động gây cơn suyễn. Những chất gây dị ứng có thể là chất ta hít vào như bụi, nhưng cũng có thể là thức ăn, thí dụ như sò hến.

Một nghiên cứu trên các trẻ em sống trong thành phố cho thấy 24% các em bị suyễn có ít nhất là một loại dị ứng thức ăn. Trẻ em vừa bị suyễn vừa bị một loại dị ứng thức ăn thường bị những cơn suyễn nặng hơn và dễ bị cho vô nhà thương hơn. Trẻ bị dị ứng với nhiều loại thức ăn thì càng bị suyễn nặng hơn.
Hỏi: Con tôi 11 tháng, gần đây bị nhiều cơn khò khè. Như vậy là cháu bị bệnh suyễn phải không?

Đáp: Cũng không hẳn. Không phải em bé nào bị khò khè cũng trở thành bị suyễn. Và ngược lại, không phải em bé suyễn nào cũng khò khè.

Khò khè là tiếng không khí chuyển động khi đi qua một ống thở hẹp. Vì ống thở của trẻ em rất nhỏ và hẹp nên bất cứ một sự nhiễm trùng nào nơi đường hô hấp cũng có thể gây ra khò khè. Đôi khi , một cơn nghẹn cũng có thể làm bệnh nhân khò khè. Hoặc đường thở bị cấu tạo bất thường hay dây âm thanh có vấn đề cũng có thể gây ra khò khè. Do đó, có rất nhiều nguyên nhân gây ra tiếng khò khè.

Nhưng khò khè là triệu chứng ‘cổ điển’ nhất của bệnh suyễn. Ngoài khò khè ra, bệnh nhân còn có thể có những triệu chứng sau:

-Thường bị khó thở
-Thường bị nghẹt trong ngực
-Thường bị ho
-Ho tăng lên nếu chạy chơi nhiều hoặc khi khí hậu thay đổi.

Em bé nào đã bị một tình trạng dị ứng thí dụ như bệnh da khô hay dị ứng với thức ăn, hoặc trong gia đình có người bị suyễn hay dị ứng, thì thường dễ bị thêm suyễn.

Nếu con bà có vẻ bị khó thở, nên đem em đi khám bệnh. Tả rõ cơn hò khè của em, khi nào khò khè xẩy ra, khò khè tiếng ra sao... Càng nhiều chi tiết được ghi nhận thì càng giúp bác sĩ định bệnh cho em.
Hỏi: Làm sao để tránh những chất kích động cơn suyễn?

Đáp: Muốn tránh những chất kích động cơn suyễn, cần phải biết những chất ấy là gì đối với con bà vì mỗi người dị ứng với một số yếu tố khác nhau. Các em có thể được thử nghiệm để biết rõ dị ứng với chất gì và sau đó, tìm cách tránh các chất ấy càng nhiều càng tốt.

Những yếu tố thường gây ra cơn suyễn gồm có:

-Phấn hoa
-Bọ bụi
-Dán
-Lông thú nuôi
-Mốc trong nhà
-Khói từ gỗ hay thuốc lá
-Chất ô nhiễm không khí
-Khí lạnh
-Siêu vi trùng
-Hoạt động thể chất
-Chất hóa học volatile organic compounds (VOC's) có trong sơn, đồ làm sàn nhà, và những sản phẩm dùng trong nhà.
-Stress hay những cảm xúc tiêu cực

Ngoài chuyện tìm hiểu con mình bị dị ứng với chất gì, nên ghi nhận những hoạt động và triệu chứng của em vào một cuốn sổ để có thể nhận ra những môi trường hay hoạt động thể chất gây ra cơn suyễn của em.

Cách tránh những chất gây ra cơn suyễn:

Nếu phấn hoa, bọ bụi và lông thú nuôi gây ra cơn suyễn, nên

-Dùng máy lạnh và máy thổi khô để giữ cho độ ẩm thấp
-Dùng máy lọc không khí để giúp không khí trong nhà sạch
-Giặt mền gối bằng nước thật nóng thường xuyên
-Lau bụi và hút bụi thường xuyên
-Giặt thảm nhà thường xuyên. Nếu được, thay thảm bằng sàn gỗ hay nhựa, chọn loại có VOC thấp
-Tắm chó mèo thường xuyên và không cho chúng vào chỗ con bà chơi thường
-Tránh khói thuốc lá và các loại khói khác
-Thay đỏi hay giải quyết những yếu tố môi trường, hoạt động hay cảm xúc để trở nên tốt hơn.

Nếu một số hoạt động hay cảm xúc nào đó gây ra cơn suyễn, nên:

-Giúp cháu bé nhận ra những tình huống thường kích động lên cơn
-Hỏi bác sĩ về những thuốc dùng trước khi có những hoạt động thể chất dễ gây suyễn
-Tránh chạy chơi nhiều ở những nơi bị ô nhiễm hoặc khi có phấn hoa nhiều.
-Bịt mũi và miệng của cháu bằng khăn quàng vào những ngày quá lạnh hay gió nhiều.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Thursday, July 30, 2015

Chứng Ù Tai

Tiếng vang kêu hoài không ngớt, nghe khó chịu quá. Tưởng tượng đó không phải là tiếng động từ bên ngoài mà là tiếng vang từ... bên trong tai bạn! Điều này còn khó chịu gấp bội. Và khổ hơn nữa là bạn không có cách nào làm mất đi tiếng vang ấy ngay lập tức theo ý muốn. Khi nào “nó” muốn dứt là dứt, có khi nó không bao giờ dứt, làm bệnh nhân có thể điên lên được. Ngoài tiếng reng như trên , người ta còn có thể nghe những tiếng động khác như tiếng sóng vỗ, tiếng chim hót, tiếng đập trống, tiếng âm ư...

Đây là chứng ù tai, một “bệnh” khá thông thường. Người ta ước tính có tới vài triệu người Mỹ mắc chứng ù tai tới mức ảnh hưởng tới cuộc sống của họ. Chứng ù tai không phải là một bệnh mà là một triệu chứng có thể gây ra bởi nhiều bệnh khác nhau, thí dụ như bệnh giảm thính lực của tuổi già hay do chấn thương tai. Ù tai cũng có thể là triệu chứng của bệnh về hệ tuần hoàn.

Thế nào là ù tai?
Nếu chưa bao giờ bị ù tai, các bạn sẽ khó tưởng tượng được ù tai là như thế nào. Những bệnh nhân ù tai “nghe” thấy trong tai mình có những tiếng động bên ngoài không hề có mà chính họ đôi khi tưởng là có. Triệu chứng ù tai gồm có:

-Tiếng động trong tai như tiếng reng, tiếng “zừ”, tiếng gầm, tiếng huýt sáo hay tiếng “xì”..

-Mất thính giác

Những tiếng động nghe được có thể lớn hay nhỏ, cao hay thấp và có thể nghe trong một hay hai tai. Trong vài trường hợp, tiếng ù tai lớn đến nỗi bệnh nhân không nghe được những tiếng động thực sự bên ngoài.

Ráy tai quá nhiều cũng có thể làm bạn ù tai nhiều hơn. Ráy tai nhiều khiến bệnh nhân không nghe tiếng động thực sự bên ngoài và làm tiếng động “bên trong” lớn hơn.
Nguyên nhân của chứng ù tai
Nơi tai trong (inner ear), chúng ta có hằng ngàn những tế bào thính giác có chứa điện. Trên mặt của những tế bào thính giác là những sợi lông rất nhỏ. Nếu chúng ở tình trạng “mạnh khỏe”, những sợi lông này sẽ chuyển động theo sức ép của những làn sóng âm thanh từ ngoài vào. Sự chuyển động này khiến cho những tế bào thính giác phát ra một luồng điện tới sợi thần kinh thính giác và rồi những tín hiệu này được gửi lên óc. Óc chúng ta nhận ra đây là những âm thanh.

Nếu những sợi lông mỏng manh này bị hư hại, uốn cong, chúng sẽ chuyển động rối loạn không theo một chiều hướng nào cả. Do đó, những tế bào thính giác sẽ gửi lên óc những “tín hiệu” bất thường khiến óc bạn “nghe” được âm thanh không hề có.
Các tế bào thính giác có thể bị hư hại do những nguyên nhân sau:
-Giảm thính lực do tuổi già: bệnh này thường bắt đầu vào khoảng 60 tuổi.

-Chấn thương gây hư hại tai trong: những tiếng động quá lớn, nghe từ ngày này qua ngày khác như tiếng nhạc rock, xe kéo hạng nặng, cưa máy, khí giới...có thể làm giảm thính lực nhiều.

-Dùng một vài thứ thuốc quá lâu ngày thí dụ như thuốc aspirin hay một vài loại kháng sinh. Khi ngưng dùng thuốc, có thể bạn sẽ nghe trở lại.

-Thay đổi của chuỗi xương nhỏ trong tai: những xương này có thể bị cứng lại khiến không vận chuyển âm thanh được vào tai trong.

-Chấn thương ở cổ hay đầu có thể làm hư hại tai trong.
Một vài bệnh về hệ tuần hoàn cũng có thể gây ra chứng ù tai từ bên trong:
-Xơ động mạch: Với tuổi già và sự tích tụ của chất cholesterol cũng như vài loại chất mỡ khác, những mạch máu lớn gần tai giữa và tai trong của bạn sẽ bị mất tính đàn hồi tức khả năng co giãn với mỗi nhịp bóp của tim. Sự giảm tính đàn hồi này làm máu chẩy mạnh và xoáy hơn khiến tai ta có thể nghe được.

-Cao huyết áp: cao huyết áp và những yếu tố khác như stress, rượu và cà phê có thể làm cho âm thanh ù tai rõ hơn. Thường, ta có thể làm âm thanh biến mất khi thay đổi vị trí đầu.

-Luồng máu chẩy bị xoáy: khi động mạch hay tĩnh mạch ngay cổ bị hẹp hay bị gập lại, luồng máu chẩy bị xoáy khiến làm ra tiếng động.

-Những vi quản bị dị dạng: một tình trạng gọi là dị dạng chỗ nối giữa động mạch và tĩnh mạch có thể gây ra tiếng động làm ù tai.

-Bướu ở vùng đầu và cổ: ù tai có thể là một triệu chứng của bệnh này.
Khi nào nên đi khám bệnh?
Đa số chứng ù tai không làm hại gì cả. Tuy nhiên, nếu càng ngày càng bị ù tai nhiều, hoặc kèm theo mất thính lực và chóng mặt, bạn nên đi khám bệnh. Bác sĩ có thể giúp bạn làm giảm bớt tiếng động ù tai và cách để làm quen với tiếng động này. Nếu chứng ù tai của bạn không phải là do bệnh mất thính lực vì tuổi già, và ù tai xuất hiện cùng lúc với mất thính lực trong cùng một bên tai, có thể là bạn đã bị hư hại dây thần kinh nơi tai trong do một chấn thương nào đó, bạn cần phải được khám bệnh.
Chữa bệnh
Cách chữa bệnh ù tai là tùy theo nguyên nhân.

Nếu nguyên nhân là chứng mất thính lực do tuổi già hoặc tai bị hư hại do nghe tiếng động quá to lâu ngày, không có cách nào làm giảm tiếng động này cả. Bác sĩ có thể chỉ cách cho bạn làm quen với những tiếng động này.

Nếu ù tai là do một nguyên nhân khác, thí dụ như do quá nhiều ráy tai, bác sĩ có thể lấy ráy ra để giúp bạn nghe rõ hơn và bớt ù tai. Nếu là do bệnh mạch máu, cách chữa phải hướng về những bệnh này. Nếu do thuốc uống, có thể bạn phải ngưng uống hoặc đổi qua một thứ thuốc khác. Do đó, bạn cần đi khám bệnh để tìm ra nguyên nhân.
Ngoài ra bạn còn có thể theo những cách sau đây để làm giảm thiểu sự khó chịu khi phải “nghe” tiếng động ù tai:
-Tránh những chất kích thích: ù tai có thể tăng lên do tiếng động quá lớn, chất nicotine trong thuốc lá, chất caffeine, nước khoáng có chứa chất quinine, rượu và aspirin. Chất nicotine và caffeine làm mạch máu co lại và tăng tốc độ luồng máu chẩy qua động mạch và tĩnh mạch. Rượu làm cho trương nở mạch máu khiến lượng máu chẩy qua lớn hơn, nhất là vùng tai trong, do đó, bạn bị ù tai nhiều hơn.

-Lấp bớt tiếng động: khi trong phòng yên lặng, nên cho quạt chạy, mở nhạc êm dịu và nhỏ có thể làm giảm bớt tiếng ù tai. Người ta cũng có thể đeo một thứ máy phát ra tiếng động êm tai để che bớt tiếng ù tai .

-Mang máy nghe: nếu ù tai đi theo với mất thính lực, đeo máy nghe để nghe rõ hơn có thể làm giảm bớt tiếng ù.

-Giảm bớt căng thẳng: có thể dùng những cách như tập thư giãn, biofeedback hay tập thể dục để giúp giảm ù tai.

Những điều cần biết về thuốc aspirin

Aspirin là môt tên thuốc rất quen thuộc với đa số chúng ta, một thứ thuốc làm giảm đau và sốt được sử dụng rất thường. Nhưng từ khoảng 35 năm trở lại đây, Aspirin bớt thông dụng vì các tác dụng phụ tai hại như làm chảy máu đường ruột hay gây ra Reye’s syndrome. Sau khi các thuốc giảm đau khác như acetaminophen, ibuprofen dần thay thế nó, aspririn được khám phá là có thể giúp chống những cơn đột quị tim và tai biến mạch máu não nếu uống hằng ngày. Tuy nhiên việc dùng aspirin thường ngày như vậy không phải bao giờ cũng là điều tốt vì aspirin có nhiều tác dụng phụ tai hại.
Aspirin ngăn ngừa đột quị tim và stroke bằng cách nào?

Aspirin làm ngăn trở cơ chế đông máu. Khi chúng ta chảy máu, những tiểu cầu (platelets) có trong máu sẽ đóng cục ngay chỗ mạch máu bị đứt làm máu ngưng chảy. Nhưng cục tiểu cầu này có thể được thành lập ngay trong những mạch máu chạy đến nuôi tim và óc. Những mạch máu này có thể đã bị hẹp lại do những mảnh mỡ đóng trong thành mạch máu. Khi những mảnh mỡ này vỡ ra, tiều cầu sẽ đóng cục ngay tại đó làm mạch máu tắc, máu không chảy đến tim hay óc được gây ra đột quị tim hay stroke. Thuốc aspirin có thể ngăn chận các tiểu cầu đóng cục lại, nhờ thế ngăn được heart attack và stroke.
Tác dụng của aspirin đối với đàn ông và đàn bà khác nhau

-Nơi đàn ông mọi lứa tuổi, aspirin có thể ngăn ngừa cơn đột quị tim đầu tiên và thứ nhì, giảm nguy cơ bị bệnh tim.

-Nơi đàn bà 65 tuổi hay lớn tuổi hơn, aspirin có thể ngăn ngừa cơn đột quị tim đầu tiên và thứ nhì, giảm nguy cơ bị bệnh tim và ngăn ngừa cơn stroke đầu tiên.

-Nơi đàn bà dưới 65 tuổi, aspirin có thể ngăn ngừa cơn đột quị tim thứ nhì, giảm nguy cơ bị bệnh tim và ngăn ngừa cơn stroke đầu tiên.
*Tuy nhiên nguy cơ bị chảy máu khi uống aspirin hằng ngày thì giống nhau cho cả hai phái. Như vậy có nên uống aspirin mỗi ngày không?

Điều này tùy thuộc vào nguy cơ bệnh tim và srtoke của bạn có cao không. Những yếu tố dễ gây ra nguy cơ bệnh tim và stroke gồm có:

-Hút thuốc
-Huyết áp cao trên 140/90
-Mực cholesterol là 240 mg/dl hay cao hơn
-Mực cholesterol xấu LDL 130mg/dl hay cao hơn
-Không tập thể thao thường xuyên
-Bị bệnh tiểu đường
-Bị stress nhiều
-Uống rượu nhiều, đàn ông trên 2 ly mỗi ngày, đàn bà trên 1 ly mỗi ngày
-Trong gia đình có người bị stroke hay heart attack
Nếu bạn đã từng bị heart attack hay stroke, phần nhiều là bác sĩ đã có nói với bạn về chuyện uống thuốc aspirin để ngăn ngừa cơn bệnh thứ hai.

Nếu bạn có những yếu tố dễ gây bệnh nhưng chưa từng bị heart attack hay stroke, bạn cũng có thể uống aspirin để tránh chúng. Tuy nhiên, bạn nên nói chuyện với với bác sĩ để xem mình có những yếu tố gây nguy cơ chảy máu nguy hiểm không.
Nếu có bệnh dễ gây chảy máu thì có uống aspirin được không?

Bạn không nên uống aspirin nếu bạn bị những bệnh có thể gây ra chảy máu như sau:

-Bệnh về đông máu khiến bạn bị chảy máu dễ dàng
-Bệnh suyễn
-Bệnh loét bao tử
-Bệnh suy tim

Cũng rất quan trọng là bạn nên nói cho BS biết tất cả những thuốc bạn đang uống kể cả thuốc bổ (supplements) hay thuốc mua tự do. Uống aspirin chung với thuốc ibuprofen (Advil, Motrin) làm giảm lợi ích của aspirin. Uống aspirin chung với thuốc chống đông máu như warfarin (Coumadin) có thể làm tăng cao nguy cơ chảy máu.
Nên uống lượng aspirin nào?

Không có một liều lượng nhất định cho tất cả mọi người. Bạn và BS của bạn sẽ phải quyết định liều lượng. Liều thật thấp là 81mg/ ngày có thể cũng hiệu nghiệm. Bác sĩ có thể cho uống từ 81 tới 325mg/ ngày.
Chuyện gì xảy ra khi bạn ngưng uống thuốc?

Có thể bạn không ngờ rằng hành động giản dị là ngưng uống thuốc aspirin lại có thể gây ra hậu quả tai hại. Nhưng điều này có thể và đã xẩy ra: ngưng uống aspirin đột ngột sẽ có thể đưa tới tác dụng ngược là làm máu dễ đông khiến xẩy ra heart attack và stroke. Nếu bạn muốn ngừng uống aspirin, cần bàn với BS của bạn.
Bạn đang uống ibuprofen để chữa một bệnh khác, vậy bạn có thể uống aspirin không?

Aspirin và ibuprofen đều có tác dụng ngăn tiểu cầu làm việc. Uống cả hai thứ có thể làm tăng nguy cơ chảy máu bên trong. Nếu bạn chỉ cần uống ibuprofen 1 lần trong ngày, nên uống nó 8 tiếng đồng hồ trước hay 30 phút sau khi uống aspirin. Nếu bạn cần uống ibuprofin nhiều lần hơn, nên nói chuyện với bác sĩ để tìm ra một thuốc thích hợp nhất
Những tác dụng phụ của aspirin

Gồm có:

-Stroke do chảy máu (hemorrhagic stroke): aspirin giúp tránh stroke do máu đông nhưng lại có thể gây ra stroke do chảy máu.

-Chảy máu đường ruột: uống aspirin mỗi ngày có thể làm bạn dễ bị loét bao tử. Nếu bạn đang chảy máy vì loét bao tử, uống aspirin sẽ làm bạn chảy máu nhiều hơn và có thể nguy đến tính mạng.

-Dị ứng: nếu bạn dị ứng với aspirin, dù uống rất ít bạn cũng có thể bị phản ứng rất nặng nguy đến tính mạng.

-Ù tai và lãng tai: uống nhiều có thể gây ra ù tai và lãng tai nơi một số người.

Nếu bạn đang uống aspirin và cần phải đi mổ hay làm răng, bạn nên cho bác sĩ mổ hay nha sĩ biết điều này hầu có thể đối phó. Nếu không, bạn có thể bị chảy máu nhiều khi đang mổ hay làm răng.

FDA cũng khuyên bệnh nhân đang uống aspirin nên uống giảm bớt rượu vì rượu cũng có tác dụng loãng máu và loét bao tử. Nếu bạn đang uống aspirin mỗi ngày, bạn chỉ nên uống không quá 2 ly mỗi ngày nếu là đàn ông và không quá 1 ly mỗi ngày nếu là đàn bà.
Tác dụng của thuốc khác khi uống chung với aspirin

Nếu bạn đang uống thuốc chống đông máu như warfarin (Coumadin) để chữa một bệnh khác, uống thêm aspirin sẽ làm bạn dễ chảy máu nặng nhiều hơn. Nếu có bệnh như thay van tim nhân tạo ngăn ngừa cơn stroke thứ nhì, bệnh nhân có thể được cho uống cả 2 thứ, tuy nhiên, cần sự theo dõi sát của bác sĩ.

Những thuốc sau có thể làm tăng nguy cơ chảy máy nếu uống chung với aspirin:

-Warfarin (Coumadin)
-Heparin
- Ibuprofen uống thường xuyên
-Corticosteroids
-Thuốc chống trầm cảm như clomipramine, paroxetine
Những thuốc bổ mua tự do (supplements) sau có thể làm tăng nguy cơ chảy máu:
-Danshen
-Dong quai
-Evening primrose oil
-Ginkgo
-Omega-3 fatty acid (dầu cá)
-Policosanol
-Willow bark
Nếu đang uống aspirin mỗi ngày, có nên uống thêm khi đang bị heart attack?

Một số lớn các bệnh nhân đang bị heart attack thường được khuyên nên nhai 1 viên aspirin người lớn hay 2 tới 4 viên aspirin con nít. Bệnh nhân vẫn cần phải theo lời khuyên này dù đang uống aspirin hằng ngày. Nhai viên thuốc giúp thuốc được hấp thụ vào máu nhanh hơn. Tuy nhiên nếu bạn bị bệnh loãng máu, không nên uống aspirin khi đang bị heart attack. Không nên uống aspirin nếu nghĩ rằng bạn đang bị stroke vì không phải stroke nào cũng gây ra do cục máu đông mà có thể do một mạch máu vỡ ra làm chảy máu. Uống thêm aspirin vô sẽ làm stroke nặng hơn.
Có nên uống thuốc aspirin có vỏ bọc ngoài?

Thuốc aspirin có vỏ bọc có mục đích đi qua bao tử nguyên vẹn và chỉ tan ra khi tới ruột. Thuốc này dễ chịu cho bao tử hơn và có thể thích hợp cho những người đang uống aspirin thường ngày, nhất là những người từng bị loét bao tử. Tuy nhiên, nó cũng không giúp tránh chảy máu trong bao tử và ruột, lại lâu được hấp thụ vào máu hơn.
Superaspirin là gì?

Đây là một loại thuốc mới có thể dùng thay thế hoặc dùng thêm với aspirin. Chúng được gọi là thuốc cản tiểu cầu đóng cục và làm giảm nguy cơ đông máu. Chúng có tác dụng giống aspirin nhưng hành động cách khác. Các loại thuốc này gồm có Plavix, Integrilin và các tên khác. Chúng có thể được dùng như sau:

-Kèm chung với aspirin để ngăn ngừa cơn heart attack hay stroke thứ nhì
-Trong 1úc bị heart attack hay stroke do đông máu
-Trước và sau khi thông tim và đặt ống trong mạch máu tim
-Chữa bệnh nghẽn động mạch trong tay và chân

Bạn có thể được cho uống superaspirin nếu cơ thể bạn chống tác dụng của aspirin khiến nó không hiệu quả, bị dị ứng với aspirin hay không chịu được những phản ứng phụ.

Plavix và aspirin dùng chung chỉ dành cho những người bị những bệnh tim và van tim đặc biệt. Nếu bạn đang dùng Plavix và aspirin nhưng chưa từng bị heart attack hay stroke, không nên ngưng uống bất thình lình mà phải hỏi ý kiến bác sĩ trước.

Chứng rung tâm nhĩ

Rung tâm nhĩ là tim đập bất thường và nhanh, khiến máu không dễ dàng đến các phần của cơ thể. Khi tâm nhĩ rung, hai buồng tâm nhĩ (buồng trên của tim) đánh một cách hỗn loạn và không đều, không phối hợp với hai tâm thất (ngăn dưới của tim). Triệu chứng rung tâm nhĩ thường bao gồm đánh trống ngực, khó thở và yếu ớt.
Trái tim có bốn ngăn - hai ngăn trên gọi là tâm nhĩ và hai ngăn dưới là tâm thất. Trong ngăn trên bên phải của tim (tức tâm nhĩ phải) có một nhóm các tế bào gọi là nút xoang. Đây là máy tạo nhịp tim tự nhiên của trái tim. Nút xoang tạo ra lực đẩy bắt đầu mỗi nhịp đập của tim.
Thông thường, lực đẩy đi qua tâm nhĩ và sau đó qua đường kết nối giữa ngăn trên và ngăn dưới của tim, gọi là nút nhĩ thất (AV node). Khi tín hiệu đi từ nút xoang thông qua tâm nhĩ, các tâm nhĩ co thắt, bơm máu từ tâm nhĩ vào tâm thất bên dưới. Khi tín hiệu đi qua nút AV đến tâm thất, nó báo hiệu để tâm thất co thắt, bơm máu từ tim đến cơ thể của bạn.
Trong chứng rung tâm nhĩ, các tâm nhĩ nhận những tín hiệu điện hỗn loạn khiến chúng rung lên. Các nút AV liên tục nhận những lực đẩy cố gắng đi qua tâm thất làm các tâm thất cũng đập nhanh lên nhưng không nhanh như các tâm nhĩ. Kết quả là ta có một nhịp tim nhanh và không đều. Nhịp tim trong chứng rung tâm nhĩ có thể đập từ 100-175 nhịp một phút. Bình thường, nhịp tim là từ 60 đến 100 nhịp một phút.
Các cơn rung nhĩ có thể xảy ra và hết đi, hoặc bệnh nhân có thể phát triển chứng rung tâm nhĩ thường xuyên, cần điều trị. Mặc dù rung tâm nhĩ thường không đe dọa tính mạng, nó làmột bệnh nghiêm trọng mà đôi khi cần phải điều trị khẩn cấp vì có thể dẫn đến nhiều biến chứng. Rung tâm nhĩ có thể dẫn đến việc bị cục máu đông ở tim rồi chạy đến các cơ quan khác khiến lưu lượng máu bị tắc nghẽn gây ra chứng thiếu máu cục bộ.
Điều trị rung nhĩ gồm có thuốc men và các can thiệp khác để cố gắng thay đổi hệ thống điện của tim.
Triệu chứng
Một số bệnh nhân bị rung tâm nhĩ không có triệu chứng và không nhận thức được tình trạng của mình cho đến khi nó được phát hiện trong một cuộc khám tổng quát. Những người bị rung tâm nhĩ có thể gặp có các dấu hiệu và triệu chứng như:
-Đánh trống ngực, tức cảm giác nhịp tim đập như chạy đua, không thoải mái, không đều. Hoặc cảm giác đảo lộn trong ngực
-Cảm thấy yếu ớt
-Giảm khả năng vận động
-Mệt mỏi
-Đầu nhẹ hẫng
-Chóng mặt
-Lẫn lộn
-Khó thở
-Đau ngực
Rung tâm nhĩ có thể xảy ra:
-Lâu lâu một lần, gọi là rung tâm nhĩ bộc phát. Triệu chứng đến và đi, kéo dài một vài phút đến vài giờ và sau đó tự ngừng hẳn.
-Dai dẳng. Nhịp tim không tự trở lại bình thường. Bệnh nhân sẽ cần phải được điều trị bằng sốc điện hoặc thuốc để phục hồi nhịp tim.-
-Vĩnh viễn: Nhịp tim không thể trở lại bình thường. Bệnh nhân bị rung tâm nhĩ vĩnh viễn, cần có thuốc để kiểm soát nhịp tim của bạn. Hầu hết các bệnh nhân bị rung tâm nhĩ vĩnh viễn cần uống thuốc loãng máu để ngăn ngừa cục máu đông.
Khi nào nên đi khám bệnh
Nếu có bất kỳ triệu chứng rung tâm nhĩ nào, bạn nên làm hẹn đi khám bệnh. Bác sĩ có thể cho làm điện tâm đồ để xác định triệu chứng của bạn có liên quan đến chứng rung tâm nhĩ hoặc một rối loạn nhịp tim khác không.
Nếu bạn bị đau ngực, nên tìm trợ giúp y tế khẩn cấp ngay lập tức. Đau ngực có thể là triệu chứng một cơn đột quỵ tim.
Nguyên nhân
Cấu trúc của tim bị hư hại hay bất thường là nguyên nhân thông thường nhất của chứng rung tâm nhĩ. Nguyên nhân rung tâm nhĩ gồm có:
-Cao huyết áp
-Cơn đột quỵ tim
-Bệnh động mạch vành
-Van tim bất thường
-Dị tật tim bẩm sinh
-Tuyến giáp hoạt động quá mức hoặc những bệnh về biền dưỡng khác
-Tiếp xúc với các chất kích thích như thuốc, caffeine hoặc thuốc lá, hoặc rượu
-Hội chứng yếu nút xoang (sick sinus syndrome) - máy tạo nhịp đập tự nhiên của tim hoạt động bất thường
-Bệnh về phổi
-Giải phẫu tim trước đó
-Nhiễm virus
-Căng thẳng do viêm phổi, giải phẫu hoặc các bệnh khác
Ngừng thở khi ngủ
Tuy nhiên, một số người bị rung tâm nhĩ không hề có bất kỳ khuyết tật hay hư hại gì của tim. Đây là một tình trạng gọi là rung tâm nhĩ đơn độc. Trong rung tâm nhĩ đơn độc, nguyên nhân thường là không rõ ràng, và các biến chứng nghiêm trọng rất hiếm khi xảy ra.
Tâm nhĩ lay động (atrial flutter)
Tâm nhĩ lay động tương tự như rung tâm nhĩ, nhưng nhịp tim có tổ chức hơn và ít hỗn độn hơn nhịp tim của rung tâm nhĩ. Đôi khi tâm nhĩ lay động có thể phát triển thành rung tâm nhĩ và ngược lại.
Các yếu tố nguy cơ, triệu chứng và nguyên nhân của chứng tâm nhĩ lay động thường tương tự như của rung tâm nhĩ. Ví dụ, stroke cũng là một mối quan tâm cho bệnh nhân chứng tâm nhĩ lay động. Và cũng như với rung tâm nhĩ, tâm nhĩ lay động thường không đe dọa tính mạng khi được điều trị đúng cách.
Yếu tố nguy cơ
Một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ phát triển chứng rung tâm nhĩ.
-Tuổi: Tuổi càng cao, càng có nhiều nguy cơ phát triển chứng rung tâm nhĩ.
-Bệnh tim mạch. Bất cứ ai có bệnh tim - chẳng hạn như vấn đề về van tim, bệnh tim bẩm sinh, suy tim sung huyết, bệnh động mạch vành, hoặc có tiền sử đột quỵ tim hoặc giải phẫu tim - có tăng nguy cơ rung nhĩ.
-Huyết áp cao. Huyết áp cao, đặc biệt là khi không được kiểm soát tốt bằng cách thay đổi lối sống hay thuốc men, có thể làm tăng nguy cơ bị rung tâm nhĩ.
-Các bệnh mãn tính khác, chẳng hạn như các vấn đề về tuyến giáp, ngưng thở khi ngủ, hội chứng biến dưỡng (metabolic syndrome), tiểu đường, bệnh thận mãn tính hoặc bệnh phổi, dễ có nguy cơ rung tâm nhĩ.
-Uống rượu. Đối với một số người, uống rượu có thể gây ra một đợt rung tâm nhĩ. Say rượu có thể có nguy cơ cao hơn.
-Béo phì. Những người béo phì có nguy cơ cao phát triển chứng rung tâm nhĩ.
-Tiền sử gia đình.
Biến chứng
Đôi khi rung tâm nhĩ có thể dẫn đến các biến chứng sau đây:
-Stroke. Trong rung tâm nhĩ, nhịp tim hỗn loạn có thể làm máu đọng lại trong tâm nhĩ và dễ bị đóng cục. Nếu một cục máu đông được thành hình, nó có thể tróc ra, chạy đến óc và chặn dòng chảy của máu, gây ra stroke.
Nguy cơ stroke trong rung tâm nhĩ phụ thuộc vào tuổi tác (nguy cơ cao hơn khi bạn có tuổi) và vào việc bệnh nhân có bị cao huyết áp, tiểu đường, tiền sử suy tim hoặc stroke trước đó, và các yếu tố khác. Một số thuốc, chẳng hạn như chất làm loãng máu, có thể làm giảm nguy cơ bị stroke và tổn hại đến các cơ quan khác gây ra bởi cục máu đông.
-Suy tim. Rung tâm nhĩ, đặc biệt là nếu không được chữa, có thể làm yếu tim và dẫn đến chứng suy tim - một tình trạng tim của bạn không thể bóp ra đủ máu để đáp ứng nhu cầu của cơ thể của bạn.
Định bệnh rung tâm nhĩ
Nếu bạn nghĩ rằng mình có thể bị rung tâm nhĩ, cần hẹn với bác sĩ gia đình của bạn để đi khám bệnh. Nếu rung tâm nhĩ được phát hiện sớm, điều trị sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn. Bạn cũng có thể được giới thiệu đến một bác sĩ tim mạch. Bác sĩ có thể làm những thử nghiệm sau để định bệnh:
-Điện tâm đồ (ECG) sử dụng một cảm biến nhỏ (điện cực) gắn liền với ngực và cánh tay của bạn để ghi lại tín hiệu điện khi chúng đi qua trái tim. Thử nghiệm này là một công cụ chính để chẩn đoán rung tâm nhĩ.
-Holter monitor. Thiết bị ECG di động này được đặt trong túi hoặc đeo trên thắt lưng hoặc dây đeo vai, ghi lại hoạt động của trái tim trong 24 giờ hoặc lâu hơn, cung cấp cho bác sĩ dữ kiện kéo dài về nhịp tim của bạn.
-Ghi sự kiện (event recorder). Thiết bị ECG di động này được thiết kế để xem xét hoạt động của tim trong một vài tuần đến vài tháng. Bệnh nhân kích hoạt chiếc máy khi có triệu chứng nhịp tim nhanh.
Khi cảm thấy triệu chứng, bệnh nhân nhấn nút kích hoạt, và một dải ECG của vài phút trước đó và và vài phút sau đó được ghi lại, cho phép bác sĩ xác định nhịp tim của bạn tại thời điểm có triệu chứng.
-Siêu âm tim. Sóng âm thanh được sử dụng, tạo ra một hình ảnh video của trái tim để xem xét cấu trúc của tim.
-Xét nghiệm máu xem bệnh nhân có bị các vấn đề về tuyến giáp hoặc các chất khác trong máu có thể dẫn đến chứng rung tâm nhĩ.
-Chụp X-ray phổi và tim của bạn, có thể tìm ra bệnh khác cũng có triệu chứng như của bạn.
Tự giúp để chữa rung tâm nhĩ
Chữa chứng rung tâm nhĩ gồm rất nhiều thuốc men hay giải phẫu phức tạp. Tuy nhiên, ngoài những phương pháp chữa trị này, bệnh nhân cũng cần phải thay đổi lối sống để cải thiện sức khỏe tổng quát của trái tim, đặc biệt là để ngăn ngừa hoặc điều trị các bệnh như huyết áp cao và bệnh tim. Bác sĩ có thể đề nghị một số thay đổi lối sống như sau:
-Ăn các loại thực phẩm tốt cho tim. Ăn uống lành mạnh là ăn ít muối và chất béo. Ăn nhiều trái cây, rau và ngũ cốc.
-Tập thể dục thường xuyên. Tập thể dục hàng ngày và tăng cường hoạt động thể chất của bạn.
-Bỏ hút thuốc lá. Nếu bạn hút thuốc và không thể tự bỏ, hãy nói chuyện với bác sĩ về các chiến lược hoặc chương trình cai hút thuốc.
-Duy trì một trọng lượng khỏe mạnh. Cân quá nặng làm tăng nguy cơ phát triển bệnh tim.
-Giữ huyết áp và mức cholesterol trong tầm kiểm soát. Thực hiện thay đổi lối sống và dùng thuốc để điều chỉnh huyết áp cao (hypertension) hoặc cholesterol cao.
-Uống rượu vừa phải. Nên chỉ uống một ly mỗi ngày cho phụ nữ ở mọi lứa tuổi và đàn ông lớn hơn 65 tuổi, và hai ly một ngày cho nam giới độ tuổi 65 và trẻ hơn.
-Theo dõi bệnh. Uống thuốc theo quy định và giữ các cuộc hẹn với bác sĩ. Cho bác sĩ biết nếu triệu chứng xấu đi.
-Hạn chế hoặc tránh caffeine và rượu
-Giảm stress. Căng thẳng nhiều và tức giận có thể gây ra vấn đề về nhịp tim
-Sử dụng thuốc mua tự do (over-the-counter) một cách thận trọng, vì một số thuốc trị cảm lạnh và ho có chứa chất kích thích có thể làm tim đập nhanh.

Bệnh glaucoma

Glaucoma là một nhóm các bệnh về mắt gây tổn thương thần kinh thị giác, có thể gây ra mù mắt. Tăng áp suất trong mắt là một nguyên nhân thông thường – nhưng không phải là luôn luôn – gây ra những tổn thương này.
Glaucoma là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây mù mắt ở Hoa Kỳ. Glaucoma có thể làm giảm thị lực dần dần nên bệnh nhân không nhận ra cho đến khi bệnh đã nặng. Loại glaucoma thông thường nhất là bệnh tăng nhãn áp góc mở, thường không có dấu hiệu hoặc triệu chứng nào ngoại trừ mất thị lực dần dần.
Chẩn đoán và điều trị sớm có thể làm bớt hoặc ngăn ngừa bị tổn thương thần kinh thị giác và mất thị lực. Nên đi khám mắt định kỳ đều đặn và chắc chắn rằng bác sĩ mắt có đo nhãn áp của bạn.
Hai loại bệnh glaucoma là bệnh glaucoma góc mở (open angle) và góc đóng (angle closure) - có triệu chứng hoàn toàn khác nhau.
Triệu chứng
-Dấu hiệu bệnh glaucoma góc mở căn bản (primary) gồm có:
Dần dần mất đi tầm nhìn ngoại vi, thường ở cả hai mắt
Tầm nhìn hẹp như chiếc ống khi bệnh đã tới giai đoạn nặng
-Dấu hiệu bệnh glaucoma cấp tính góc đóng gồm có:
Đau mắt
Buồn nôn và ói mửa (đi kèm đau mắt dữ dội)
Đột nhiên rối loạn thị giác, thường trong ánh sáng thấp
Nhìn mờ
Thấy vùng sáng quanh đèn
Mắt đỏ
Cả hai loại glaucoma góc mở và góc đóng cửa đều có thể là nguyên thủy hay thứ cấp. Gọi là nguyên thủy khi nguyên nhân chưa được biết rõ và thứ cấp khi có thể được truy nguồn từ một nguyên nhân, chẳng hạn như chấn thương mắt, thuốc, một vài bệnh về mắt, viêm nhiễm, khối u, đục thủy tinh thể cao hoặc tiểu đường. Trong bệnh glaucoma thứ cấp, bệnh nhân có thể có những triệu chứng của nguyên nhân cũng như các triệu chứng tăng nhãn áp điển hình.
Khi nào nên đi khám bệnh
Đừng chờ đợi đến khi có triệu chứng rõ rệt. Bệnh glaucoma góc mở nguyên thủy cho rất ít dấu hiệu cảnh báo cho đến khi tổn thương vĩnh viễn đã xảy ra. Khám mắt thường xuyên là chìa khóa để phát hiện bệnh glaucoma sớm để điều trị thành công và ngăn chặn sự tiến triển nặng lên.
Hàn Lâm Viện Nhãn Khoa Hoa Kỳ (The American Academy of Ophthalmology) khuyên khám mắt toàn diện cho tất cả người lớn bắt đầu ở tuổi 40, và mỗi 3-5 năm sau đó nếu bạn không có bất kỳ yếu tố nguy cơ bị bệnh glaucoma nào. Nếu bạn có các yếu tố nguy cơ hoặc bạn lớn hơn 60, nên khám mỗi 1-2 năm. Nếu bạn là người Mỹ gốc Phi châu, bác sĩ có thể sẽ khuyên bạn nên đi khám mắt định kỳ bắt đầu trong khoảng tuổi từ 20 tới 39.
Ngoài ra, nếu nhức đầu dữ dội hoặc đau nhiều ở mắt, buồn nôn, mờ mắt, hoặc quầng sáng xung quanh đèn có thể là triệu chứng của cơn glaucoma góc đóng cấp tính. Nếu bạn gặp một số hoặc một số các triệu chứng với nhau, tìm kiếm sự chăm sóc ngay tại phòng cấp cứu hoặc tại văn phòng (bác sĩ nhãn khoa của) một bác sĩ mắt của ngay.
Vì một lý do nào đó chưa được hiểu rõ, tăng áp lực bên trong mắt thường, nhưng không phải luôn luôn, gắn liền với các tổn thương thần kinh thị giác. Áp lực này là do sự tích tụ của chất lỏng (thủy dịch) chảy vào và ra mắt của bạn.
Chất lỏng này thường ra khỏi mắt qua một hệ thống thoát nước tại các góc mà mống mắt và giác mạc gặp nhau. Khi hệ thống thoát nước không hoạt động đúng cách, các chất lỏng không thể ra khỏi mắt với tốc độ bình thường, do đó áp suất tăng lên trong mắt.
Bệnh glaucoma góc mở
Trong bệnh tăng nhãn áp góc mở nguyên thủy, góc thoát nước nơi điểm gặp của giác mạc và mống mắt vẫn mở, nhưng các nơi thoát nước (trabecular meshwork) ở góc bị chặn một phần, làm cho chất lỏng thoát ra khỏi mắt quá chậm và tích tụ trong mắt khiến áp suất trong mắt tăng dần.
Thiệt hại cho thần kinh thị giác không gây ra triệu chứng hoặc đau, và nó xảy ra một cách chậm chạp, từ từ nên bạn có thể mất tầm nhìn rất nhiều trước khi bạn nhận ra vấn đề. Nguyên nhân chính xác của bệnh tăng nhãn áp góc mở chính vẫn chưa được biết.
Bệnh glaucoma góc đóng
Bệnh tăng nhãn áp góc đóng, xảy ra khi tròng đen lồi ra phía trước làm thu hẹp hoặc ngăn chặn các góc thoát dịch làm bởi giác mạc và tròng đen. Kết quả là, chất dịch trong mắt không chảy qua đủ và thoát ra khỏi mắt khiến áp suất trong mắt của bạn có thể tăng đột ngột. Bệnh này thường xảy ra đột ngột nhưng cũng có thể diễn ra từ từ.
Một số người có góc thoát dịch hẹp bất thường, có thể có nguy cơ phát triển bệnh tăng glaucoma góc đóng. Khi góc thoát hẹp, sự giãn nở đột ngột của con ngươi có thể gây ra glaucoma góc đóng cấp tính.
Bệnh glaucoma với nhãn áp bình thường
Trong bệnh này, thần kinh thị giác bị hư nhưng áp suất trong mắt vẫn ở mức bình thường. Các bác sĩ không hiểu tại sao điều này xảy ra. Có thể là thần kinh thị giác nhạy cảm, hoặc có thể máu chảy tới thần kinh thị giác bị ít đi do bệnh xơ vữa động mạch, là sự tích tụ các mảng chất béo (plaques) trong động mạch, hoặc bệnh khác làm hạn chế lưu thông máu của bạn.
Bệnh glaucoma phát triển
Một số trẻ sơ sinh hoặc trẻ em có thể được chẩn đoán với bệnh glaucoma. Hiếm khi, một số trẻ có thể được sinh ra với bệnh glaucoma bẩm sinh, phát triển bệnh glaucoma trong những năm đầu tiên của cuộc sống, hoặc phát triển bệnh tglaucoma sau 4 hoặc 5 tuổi. Trẻ em thường không có triệu chứng nào. Tuy nhiên, vẫn bị thiệt hại thần kinh thị giác, gây ra bởi tắc nghẽn góc thoát nước hoặc dị tật, hoặc nó có thể là kết quả của các bệnh khác (bệnh tăng nhãn áp thứ cấp).
Bệnh glaucoma sắc tố
Trong bệnh tăng nhãn áp có chất màu, các hạt sắc tố từ tròng đen đọng trong các kênh thoát nước (trabecular meshwork), làm chậm hoặc ngăn chặn chất lỏng thoát ra mắt của bạn. Các hoạt động thể chất, chẳng hạn như chạy bộ, đôi khi khuấy động các hạt sắc tố, đưa vào hệ thoát nước và gây áp lực cao gián đoạn.
Các yếu tố nguy cơ
Bởi vì bệnh glaucoma mãn tính có thể làm mất thị lực trước khi bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng rõ ràng, nên biết về những yếu tố sau:
Áp suất trong mắt tăng lên. Nếu áp suất trong mắt (intraocular pressure) cao hơn bình thường, bạn có nguy cơ bị bệnh glaucoma, mặc dù không phải tất cả mọi người với nhãn áp cao đều phát triển bệnh.
Tuổi. Người trên 60 tuổi có nguy cơ bị glaucoma, đặc biệt là nếu bạn là người Mỹ gốc Mexico. Người trên 40 tuổi có nguy cơ cao của bệnh glaucoma góc đóng. Đối với người Mỹ gốc Phi châu, nguy cơ phát triển bệnh glaucoma cao hơn nhiều và xảy ra ở độ tuổi trẻ hơn so với các nhóm khác.
Chủng tộc. Người Mỹ gốc Phi châu lớn hơn 40 tuổi có nguy cơ cao bị bệnh glaucoma hơn so với người da trắng Người gốc Phi châu cũng có nhiều nguy cơ bị mù vĩnh viễn, kết quả của bệnh glaucoma. Người gốc châu Á có nguy cơ bị glaucoma góc đóng cấp tính. Người gốc Nhật Bản có nguy cơ bị bệnh glaucoma với áp suất bình thường.
Tiền sử gia đình. Nếu bạn có tiền sử gia đình của bệnh tăng nhãn áp, bạn có nguy cơ phát triển nó. Glaucoma có thể có nối kết di truyền, nghĩa là có một khiếm khuyết trong một hoặc nhiều gen, khiến một số cá nhân dễ bị bệnh. Một hình thức bệnh glaucoma góc mở ở tuổi vị thành niên có kết nối rõ ràng với những bất thường di truyền.
Tình trạng y tế. Một số điều kiện có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh tăng nhãn áp, bao gồm bệnh tiểu đường, bệnh tim, cao huyết áp và suy tuyến giáp.
Các bệnh mắt khác. Tổn thương mắt nghiêm trọng có thể làm áp suất mắt tăng lên. Bệnh về mắt khác có thể làm tăng nguy cơ của bệnh glaucoma gồm có: khối u mắt, bong võng mạc, viêm mắt và thủy tinh thể bị trật chỗ. Một số các giải phẫu mắt cũng có thể gây ra tăng nhãn áp. Ngoài ra, bị cận thị hay viễn thị cũng có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh glaucoma.
* Sử dụng corticosteroid dài hạn. Sử dụng thuốc corticosteroid, đặc biệt là thuốc nhỏ mắt, trong một thời gian dài có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh glaucoma thứ cấp.

Để chuẩn bị cho cuộc hẹn khám mắt, xin theo những chỉ dẫn dưới đây.
Những gì bạn có thể làm
-Liệt kê các triệu chứng bạn đã có, trong bao lâu.
-Ghi lại những thông tin y tế quan trọng của bạn, gồm cả các bệnh mà bạn đã được chẩn đoán, tất cả các loại thuốc và các thuốc bổ đang dùng.
-Liệt kê các vấn đề về mắt, chẳng hạn như thay đổi thị lực hoặc mắt khó chịu.
-Viết ra những câu hỏi để hỏi bác sĩ của bạn. Có danh sách các câu hỏi trước có thể giúp bạn tận dụng tối đa thời gian của bạn với bác sĩ của bạn.
Dưới đây là một số câu hỏi căn bản. Nếu có bất kỳ câu hỏi nào khác trong chuyến đi khám bệnh, đừng ngần ngại hỏi:
-Tôi có dấu hiệu của bệnh tăng nhãn áp không?
-Tôi cần những thử nghiệm nào để định bệnh?
-Những phương pháp điều trị là gì?
-Tôi có cần phải hạn chế hoạt động nào không?
-Những cách tự chăm sóc mà tôi nên dùng?
-Triển vọng dài hạn trong trường hợp của tôi là gì?
-Làm thế nào để để được chăm sóc theo dõi?
-Tôi có nên đi khám chuyên khoa?
-Tôi có những bệnh khác. Làm thế nào tôi có thể quản lý các bệnh này?
Những gì mong đợi từ bác sĩ của bạn
Bác sĩ có thể sẽ hỏi bạn một số câu hỏi như:
-Quý vị có khó chịu trong mắt hoặc có vấn đề gì về tầm nhìn không?
-Có bất cứ dấu hiệu hay triệu chứng khác?
-Có bất kỳ bệnh sử gia đình về mắt, trong đó có bệnh glaucoma?
-Đã từng xét nghiệm về mắt chưa, khi nào?
-Đã được chẩn đoán bệnh gì khác?
-Những loại thuốc đang dùng, kể cả vitamin và thuốc bổ?
Định bệnh
Bác sĩ có thể thực hiện một số xét nghiệm để chẩn đoán bệnh glaucoma, gồm:
o Đo áp suất trong mắt (tonometry): Tonometry là một động tác đơn giản, không đau, để đo áp suất trong mắt. Đây là thử nghiệm đầu tiên để định bệnh.
-Định mức thiệt hại thần kinh thị giác. Bác sĩ mắt sử dụng máy nhìn xuyên qua con ngươi đến phía sau của mắt để tìm ra những thay đổi nhỏ, dấu hiệu cho thấy sự khởi đầu của bệnh glaucoma.
-Định vùng nhìn tổng quát của mắt (visual field) bằng những thử nghiệm đặc biệt.
-Định thị lực.
-Đo độ dày giác mạc (pachymetry). Đôi mắt được gây tê cho thử nghiệm xác định độ dày của mỗi giác mạc, một yếu tố quan trọng trong việc chẩn đoán bệnh glaucoma. Nếu bạn có giác mạc dày, áp suất mắt có thể có số đo cao hơn bình thường mặc dù bệnh nhân không bị tăng nhãn áp. Tương tự như vậy, những người có giác mạc mỏng có thể có số đo bình thường mà vẫn bị tăng nhãn áp.
- Các thử nghiệm khác: Để phân biệt bệnh tăng nhãn áp góc mở và góc đóng, bác sĩ có thể sử dụng một kỹ thuật gọi là gonioscopy, trong đó một ống kính đặc biệt được đặt trên mắt để kiểm soát góc thoát. Các thử nghiệm khác, chẳng hạn như kiểm tra hình ảnh, đã được phát triển và đôi khi có thể được sử dụng.
Trị liệu
Mục tiêu điều trị là giảm áp suất trong mắt. Bác sĩ có thể làm giảm áp suất mắt, làm bớt nghẹt hệ thống thoát nước của các chất lỏng trong mắt hoặc giảm lượng chất lỏng được sản xuất trong mắt.
Glaucoma không thể được chữa khỏi, và thiệt hại gây ra bởi căn bệnh này không thể đảo ngược, nhưng khám và điều trị thường xuyên có thể ngăn ngừa mất thị lực ở những người bị bệnh tăng nhãn áp sớm. Nếu mất thị lực đã xảy ra, điều trị có thể làm chậm hoặc ngăn chặn mất thêm thị lực.
Các cách chữa gồm có các loại thuốc nhỏ mắt và thuốc uống, và, nếu không công hiệu, phải cần đến các phương pháp giải phẫu.
Ngoài ra, bệnh nhân nên thay đổi lối sống để giúp tránh bị bệnh nặng hơn:
-Ăn uống lành mạnh. Ăn uống lành mạnh có thể giúp bạn duy trì sức khỏe, nhưng sẽ không giúp bệnh bớt nặng hơn. Một số vitamin và chất dinh dưỡng có thể giúp tăng thị lực.
-Tập thể dục một cách an toàn. Tập thể dục thường xuyên có thể làm giảm áp lực trong bệnh tăng nhãn áp góc mở. Nên hỏi bác sĩ về một chương trình tập thể dục thích hợp.
-Hạn chế caffeine. Uống một lượng lớn caffeine có thể làm tăng áp suất trong mắt.
-Uống nước từng ngụm thường xuyên. Chỉ uống một lượng vừa phải chất lỏng bất kỳ lúc nào trong ngày. Uống một lít hoặc hơn trong một thời gian ngắn có thể làm tạm thời tăng áp suất trong mắt.
-Thuốc “dược thảo” có thể giúp sức khỏe tổng thể của bạn, nhưng chúng sẽ không điều trị hoặc ngăn ngừa bệnh tăng nhãn áp. Một số dược thảo, chẳng hạn như quả việt quất, được quảng cáo là thuốc trị tăng nhãn áp, nhưng chưa được chứng minh có hiệu quả trong việc ngăn ngừa hoặc điều trị bệnh tăng nhãn áp.
-Thư giãn. Stress có thể gây ra một cơn tăng nhãn áp góc đóng cấp tính. Nên tìm cách đối phó với sự căng thẳng. Một số kỹ thuật, chẳng hạn như thiền định và biofeedback, có thể giúp giảm bớt căng thẳng.
Vì bệnh tăng nhãn áp không có cách chữa, bệnh nhân cần điều trị suốt đời và kiểm soát thường xuyên.
Gặp gỡ và nói chuyện với những người khác với bệnh tăng nhãn áp có thể rất hữu ích. Hiện có nhiều nhóm hỗ trợ. Nên liên lạc với các bệnh viện và các trung tâm chăm sóc mắt trong khu vực của bạn để tìm các nhóm địa phương và thời gian họp. Cũng có những tài liệu về bệnh và các nhóm hỗ trợ trên mạng mà bệnh nhân có thể vào các trang nhà để tìm hiểu và tham gia.
Phòng ngừa
Đi khám mắt thường xuyên. Khám mắt toàn diện đều đặn có thể giúp phát hiện bệnh glaucoma trong giai đoạn đầu, trước khi thần kinh mắt bị tổn thương không hồi phục được. Nên khám mắt toàn diện mỗi 3-5 năm sau tuổi 40 và mỗi năm sau tuổi 60. Bạn có thể cần khám thường xuyên hơn nếu bạn có các yếu tố nguy cơ mắc bệnh. Nên hỏi bác sĩ của mình để được giới thiệu đi khám.
Điều trị nhãn áp cao. Thuốc nhỏ mắt có thể làm giảm đáng kể nguy cơ nhãn áp cao sẽ tiến triển đến bệnh glaucoma. Để có hiệu quả, cần phải nhỏ thuốc thường xuyên ngay cả khi bạn không có triệu chứng.
Ăn uống lành mạnh. Ăn uống lành mạnh sẽ không ngăn chặn bệnh glaucoma nhưng có thể cải thiện sức khỏe thể chất và tinh thần của bạn cũng như có thể giúp bạn duy trì cân nặng tốt và kiểm soát huyết áp.
Mang bảo vệ mắt. Chấn thương mắt nghiêm trọng có thể dẫn đến bệnh tăng nhãn áp. Nên mang kính bảo vệ mắt khi bạn sử dụng các công cụ điện hoặc chơi thể thao. Cũng nên đội mũ và đeo kính râm nếu chơi ngoài trời.

Sunday, July 19, 2015

Bệnh mô thần kinh hóa xơ (Multiple Sclerosis)


Multiple Sclerosis, tạm dịch là bệnh “mô thần kinh hóa xơ”, là một căn bệnh còn chưa được hiểu rõ nguyên nhân, trong đó hệ thống miễn dịch của người bệnh tấn công lớp bảo vệ (myelin) bao bọc các dây thần kinh. Lớp myelin bị hư hại khiến sự truyền thông giữa bộ óc và cơ thể bị gián đoạn. Cuối cùng, các dây thần kinh có thể bị hư hại nặng, một tiến trình không thể đảo ngược. Bệnh này khá thông thường, một ca sĩ nổi tiếng của giới ca nhạc Việt Nam đã qua đời vì nó.
Triệu chứng của MS khác nhau rất nhiều ở mỗi người, tùy thuộc vào sự thiệt hại của các dây thần kinh và loại dây nào bị ảnh hưởng. Một số người bị MS nặng có thể mất khả năng đi lại một mình hoặc hoàn toàn không di chuyển được, trong khi những người khác có thể trải qua một thời gian hồi phục, không bị thêm triệu chứng mới.
Bệnh MS không có cách chữa. Tuy nhiên, điều trị có thể giúp phục hồi nhanh, thay đổi tiến triển của bệnh và đối phó với các triệu chứng.
Triệu chứng:
-Tê hoặc yếu một hoặc nhiều chi, thường xảy ra chỉ ở một bên của cơ thể ở một thời điểm, hoặc ở chân và thân mình.
-Mất một phần hoặc toàn bộ thị lực, thường chỉ ở một mắt vào một thời điểm; thường kèm với đau khi cử động mắt.
- Nhìn thấy hai hình hoặc thấy mờ
-Tê ran hoặc đau ở vài nơi trên cơ thể
-Cảm giác như bị điện giật xảy ra khi cử động cổ theo một lối nào đó, nhất là khi gập cổ về phía trước
-Run rẩy, thiếu sự phối hợp hoặc đi lại không vững
-Nói không rõ
-Mệt mỏi
-Chóng mặt
-Vấn đề với ruột và bàng quang
Diễn biến của bệnh
Hầu hết bệnh nhân MS bị bệnh rồi hồi phục rồi tái phát, với các triệu chứng mới (khi tái phát) xảy ra trong vài ngày hoặc vài tuần, rồi hồi phục một phần hoặc hoàn toàn, theo sau là một khoảng thời gian yên lành (thuyên giảm) có thể kéo dài nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm. Nhiệt độ cơ thể tăng chút ít cũng có thể tạm thời làm trầm trọng thêm các triệu chứng của MS, nhưng không phải là một cơn tái phát.
Khoảng 60 đến 70 phần trăm của những người bị bệnh “thuyên giảm rồi tái phát” cuối cùng sẽ đến chỗ ngày càng bị nặng thêm, có hoặc không có giai đoạn thuyên giảm. Các triệu chứng nặng thêm thường là các vấn đề đi đứng. Tốc độ tiến triển bệnh khác nhau rất nhiều giữa những người bị MS.
Một số người mắc bệnh MS lại phát bệnh từ từ và tăng triệu chứng dần lên mà không có thời kỳ tái phát hay thuyên giảm.
Nguyên nhân
Nguyên nhân của bệnh MS chưa được rõ và được cho là do hiện tượng tự miễn nhiễm: hệ thống miễn nhiễm của cơ thể tấn công chính các mô của nó. Trong MS, sự tấn công này phá hủy myelin - phần chất béo bọc ngoài để bảo vệ các sợi thần kinh trong óc và tủy sống.
Myelin có thể được so sánh với các vật liệu cách nhiệt trên dây điện. Khi myelin bị hư hại, sự truyền tín hiệu từ óc theo các dây thần kinh có thể bị chậm lại hoặc bị chặn.
Người ta không hiểu rõ lý do tại sao MS phát triển ở một số người mà không ở những người khác. Kết hợp của các yếu tố khác nhau, từ di truyền cho đến nhiễm trùng ở trẻ em, có thể đóng một vai trò trong việc phát bệnh MS.
Những yếu tố sau có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh MS:
-Tuổi. MS có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng thông thường nhất là nơi những người tuổi từ 15 đến 60.
-Phái tính. Phụ nữ bị MS nhiều gấp đôi nam giới.
-Tiền sử gia đình. Nếu cha hoặc mẹ hoặc anh chị em của bạn đã bị MS, bạn có nguy cơ cao sẽ mắc bệnh.
-Một số bệnh nhiễm trùng. Một loạt các virus đã được liên kết với MS, bao gồm virus Epstein-Barr, con virus gây ra bệnh infectious mononucleosis.
-Giống dân. Người da trắng, đặc biệt là những người gốc Bắc Âu, có nguy cơ cao mắc bệnh MS. Người Mỹ gốc châu Á, châu Phi hay người da đỏ có nguy cơ thấp nhất.
-Khí hậu. MS xảy ra rất nhiều ở các nước có khí hậu ôn đới, gồm miền nam Canada, Bắc Mỹ, New Zealand, miền đông nam Australia và châu Âu.
-Một số bệnh tự miễn nhiễm. Bạn sẽ hơi dễ bị MS nếu có bệnh tuyến giáp trạng, tiểu đường loại 1, hay bệnh viêm ruột.
-Hút thuốc. Những người hút thuốc bị những triệu chứng báo hiệu MS có nhiều nguy cơ bị loạt triệu chứng thứ nhì xác định MS so với người không hút thuốc.
Những người bị MS cũng có thể bị:
-Cứng hoặc co thắt bắp thịt
-Tê liệt, thường ở chân
-Vấn đề với bàng quang, ruột hoặc tình dục
-Tâm thần thay đổi, chẳng hạn như dễ quên hay dễ thay đổi tâm trạng
-Trầm cảm
-Bệnh động kinh
Bạn có thể được giới thiệu đến một bác sĩ chuyên về rối loạn của não bộ và hệ thần kinh để định bệnh.
Định bệnh
Không có thử nghiệm cụ thể để định bệnh MS. Việc chẩn đoán dựa trên sự loại trừ các điều kiện khác có thể có các triệu chứng tương tự.
Bác sĩ của bạn có thể hỏi kỹ bệnh sử của bệnh nhân và khám toàn diện. Sau đó bác sĩ có thể cho làm những thử nghiệm sau:
-Thư máu, giúp loại trừ những bệnh truyền nhiễm hoặc viêm với các triệu chứng tương tự như MS.
-Lấy nước tủy sống, có thể cho thấy những bất thường trong các bạch cầu hoặc các kháng thể được liên kết với MS, cũng có thể giúp loại trừ các bệnh nhiễm trùng do virus và các điều kiện khác với các triệu chứng tương tự như MS.
-MRI, có thể cho thấy các khu vực bị MS trên óc và tủy sống.
-Evokedpotential test. Thử nghiệm này ghi lại các tín hiệu điện sản xuất bởi hệ thống thần kinh khi đáp ứng với các kích thích. Thử nghiệm này có thể sử dụng kích thích thị giác hoặc kích thích điện, trong đó bạn theo dõi một mô hình di chuyển hoặc một mạch điện ngắn cho vào các dây thần kinh ở chân hoặc cánh tay. Điện cực đo mức các thông tin di chuyển trên các đường thần kinh.
Điều trị
Không có cách chữa hết bệnh MS. Điều trị thường tập trung vào việc đẩy nhanh mức phục hồi của các cơn bệnh, làm chậm sự tiến triển của bệnh và trị các triệu chứng. Một số người có các triệu chứng nhẹ không cần phải chữa.
-Phương pháp điều trị các triệu chứng:
Thể lý trị liệu. Giúp bạn giãn và làm mạnh các bắp thịt và dạy cách sử dụng các thiết bị để giúp thực hiện các công việc hàng ngày dễ dàng hơn.
Thư giãn bắp thịt. Bệnh nhân MS có thể bị các cơn co cứng bắp thịt gây đau đớn khủng khiếp, đặc biệt là ở đôi chân. Thuốc thư giãn bắp thịt, chẳng hạn như baclofen (Lioresal, Gablofen) và Tizanidine (Zanaflex) có thể giúp đỡ.
Các loại thuốc để giảm mệt mỏi.
Các thuốc khác. Thuốc trị trầm cảm, đau, và kiểm soát ruột và bàng quang thường xảy ra cho bệnh nhân MS.
Tự giúp
Để giúp làm giảm các và triệu chứng của MS, nên cố gắng:
-Nghỉ ngơi nhiều.
-Tập thể dục. Nếu bạn bị MS nhẹ đến trung bình, tập thể dục thường xuyên có thể giúp tăng sức mạnh, bắp thịt, sự vững vàng và sự phối hợp các cử động tay chân. Bơi lội hoặc tập thể dục trong nước cũng rất tốt nếu bệnh nhân không chịu được nhiệt. Các cách tập từ nhẹ đến vừa nên làm gồm có đi bộ, stretching, thể dục nhịp điệu tác động thấp, xe đạp tại chỗ, yoga và tai chi.
-Giữ mát. Triệu chứng bệnh MS năng lên khi nhiệt độ cơ thể của bạn tăng lên. Do đó nên tránh tiếp xúc với nhiệt và sử dụng các thiết bị như chiếc khăn lạnh hoặc áo khoác lạnh có thể hữu ích.
-Ăn uống cân bằng và khỏe mạnh. Kết quả của các nghiên cứu nhỏ cho thấy ăn uống ít chất béo bão hòa nhưng nhiều acit béo omega-3, như được tìm thấy trong dầu ô liu và cá, có thể có lợi. Nhưng hiện cần có thêm nghiên cứu. Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng vitamin D có thể có lợi ích cho MS.
-Giảm căng thẳng. Stress có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm các triệu chứng của bạn. Yoga, tai chi, massage, thiền hay thở sâu cũng có thể giúp đỡ.
Sống với bất cứ căn bệnh mãn tính nào cũng khó khăn. Để đối phó với sự căng thẳng của cuộc sống với MS, hãy:
-Duy trì hoạt động bình thường hàng ngày.
-Luôn kết nối với bạn bè và gia đình.
-Tiếp tục theo đuổi sở thích mà bạn thưởng thức và có thể làm được.
-Liên lạc với một nhóm hỗ trợ, cho chính mình hoặc cho các thành viên trong gia đình.
-Thảo luận về tình cảm và mối quan tâm của bạn về MS với bác sĩ hoặc các chuyên viên tư vấn.