Thursday, August 13, 2015

Tai biến mạch máu não (Stroke)

Tên chinh thức của chứng bệnh này (ngoài chữ stroke) là cerebral vascular accident (CVA), do đó danh từ “tai biến mạch máu não” dịch khá đúng tên này. Tên Việt Nam nôm na vẫn xài từ hồi nào đến giờ là “trúng gió”. Nhưng với những thông tin y khoa ngày càng nhiều, đa số chúng ta đều hiểu khi có ai nói chữ “tai biến”, và nay ít ai còn dùng chữ “trúng gió” nữa.
“Tai biến não” xảy ra khi máu đến não bị gián đoạn hoặc suy giảm nghiêm trọng, khiến mô não bị cắt đứt oxygen và chất nuôi. Trong vòng vài phút, các tế bào não sẽ bắt đầu chết. “Tai biến” là một trường hợp khẩn cấp, bệnh nhân cần được khám và điều trị kịp thời. Hành động sớm có thể giảm bớt tổn thương não và các biến chứng.
May mắn là chứng này có thể được điều trị và ngăn ngừa, hiện số người Mỹ chết vì tai biến ít hơn cả 15 năm trước đây nhờ các yếu tố nguy cơ chính gây “tai biến” như cao huyết áp, hút thuốc lá và cao cholesterol được kiểm soát tốt.
Triệu chứng
Nên ghi nhớ kỹ những triệu chứng dưới đây vì khi chúng xẩy ra cho chính bạn hoặc người chung quanh, họ có thể đang bị tai biến. Cũng cần ghi rõ thời gian xuất hiện của các triệu chứng này vì thời gian có thể là yếu tố quyết định cách chữa trị.
-Gặp khó khăn khi đi đứng, có thể bị vấp ngã hay bị chóng mặt đột ngột, mất thăng bằng hoặc mất sự phối hợp cử động (coordination).
-Gặp khó khăn với chuyện nói và hiểu, có thể bị lẫn lộn, tiếng nói bị biến dạng hoặc không hiểu người khác nói gì
-Tê liệt hoặc tê (numb) mặt, tay hoặc chân. Bạn có thể đột ngột bị tê, yếu hoặc tê liệt ở mặt, tay hoặc chân, nhất là chỉ ở một bên cơ thể. Nên thử nâng cao cả hai tay qua đầu cùng một lúc. Nếu một cánh tay bắt đầu rơi xuống, không dở lên nổi, bạn có thể đang bị tai biến. Tương tự như vậy, một bên miệng của bạn có thể sụp xuống khi bạn cố gắng cười.
-Gặp khó khăn khi nhìn ở một hoặc cả hai mắt. Bạn có thể đột nhiên thấy mờ hoặc tối sầm ở một hoặc cả hai mắt, hoặc bạn có thể thấy hai hình.
-Nhức đầu. Một cơn nhức đầu đột ngột dữ dội, có hay không kèm theo nôn mửa, chóng mặt hoặc thay đổi ý thức, có thể là dấu hiệu đang bị tai biến.
Khi nào cần điều trị?
Người cónhững dấu hiệu trên cần được chữa trị lập tức, ngay cả khi các triệu chứng có vẻ bớt đi hay trở đi trở lại. Phải gọi số 911 hoặc số khẩn cấp địa phương ngay lập tức. Đừng chờ đợi xem triệu chứng có hết đi không. Tai biến càng lâu trước khi được chữa trị thì càng có nhiều nguy cơ tổn thương não và khuyết tật. Người bệnh cần được điều trị tại một bệnh viện trong vòng ba giờ sau khi các triệu chứng đầu tiên xuất hiện. Nếu có một người nào bạn nghi ngờ bị đột quỵ, nên canh chừng họ cẩn thận trong khi chờ đợi xe cứu thương đến.
Nguyên nhân
Như trên đã nói, tai biến xảy ra khi máu đến não bị gián đoạn hoặc giảm, làm mất đi oxygen và chất dinh dưỡng cho bộ não, có thể khiến tế bào não bị chết. Tai biến có thể gây ra do một động mạch bị nghẽn (tai biến do nghẽn máu) hoặc một mạch máu bị rỉ hoặc vỡ (tai biến do xuất huyết). Một số người có thể bị lưu lượng máu qua não gián đoạn tạm thời (cơn tai biến não ngắn) tức bị stroke nhẹ.
-Tai biến do nghẽn máu
Khoảng 85% các cơn tai biến là do nghẽn máu, xảy ra khi động mạch não trở nên hẹp hoặc bị nghẽn, khiến lưu lượng máu tới não bị giảm, thường do cục máu đông ngay tại động mạch lên óc vì những mảnh chất béo đọng ở thành mạch máu, hoặc do cục máu đông thành hình từ những chỗ khác (trái tim chẳng hạn) và chạy lên óc làm nghẽn động mạch óc.
-Tai biến do xuất huyết: Xảy ra khi một mạch máu trongnão bị rỉ hay vỡ ra, do những điều kiện ảnh hưởng đến mạch máu, thí dụ như cao huyết áp hay bệnh phình động mạch (aneurysm). Một nguyên nhân ít gặp hơn là vỡ một dị tật mạch máu (AVM) tức một mớ rối những mạch máu có thành mỏng, có từ lúc mới sinh ra. Các loại đột quỵ xuất huyết cóthể gồm xuất huyết trong sọ, xuất huyết ngay dưới bề mặt của óc (subarrachnoid)
-Cơn tai biến não ngắn (TIA), còn gọi là một ministroke, xảy ra khi các triệu chứng kể trên không kéo dài lâu, do máu tới một phần của bộ não bị giảm tạm thời. Cơn tai biến TIA thường kéo dài ít hơn năm phút, xảy ra khi một cục máu đông nhỏ hoặc mảnh chất béo chạy tới não. TIA không để lại triệu chứng kéo dài vì chỉ tắc nghẽn tạm thời. Tuy nhiên, bệnh nhân vẫn cần chữa trị khẩn cấp, ngay cả khi các triệu chứng có vẻ hết đi. Đã bị TIA có nghĩa là động mạch óc đã bị nghẽn một phần hoặc đã bị hẹp lại khiến người bệnh có nguy cơ bị một cơn tai biến lớn kế tiếp gây tổn thương vĩnh viễn sau này. Không thể dựa trên các triệu chứng để nói chắc là bệnh nhân đang bị tai biến lớn hoặc chỉ bị TIA. Có đến một nửa số người có triệu chứng tai biến TIA thực sự ra đã bị tai biến gây ra tổn thương não.
Các yếu tố nguy hại
Nhiều yếu tố có thể làm tăng nguy cơ tai biến. Một số những yếu tố này cũng có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ tim (heart attack).
Những yếu tố nguy hại có thể chữa được:
-Huyết áp cao. Nguy cơ tai biến bắt đầu tăng khi huyết áp cao hơn 120/80. Bác sĩ sẽ cho biết cần giữ huyết áp ở mực nào dựa vào tuổi tác, bệnh tiểu đường, và các yếu tố khác.
-Hút thuốc lá hoặc tiếp xúc với khói thuốc lá.
-Cholesterol cao: mức cholesterol tổng cộng trên 200 mg/dL.
-Bệnh tiểu đường.
-Nặng quá khổ hoặc béo phì.
-Ít hoạt động thể lý
-Bị bệnh ngưng thở khi ngủ (một rối loạn giấc ngủ khiến mực cung cấp oxy gián đoạn trong đêm).
-Bệnh tim mạch như suy tim, khuyết tật tim, nhiễm trùng tim hoặc nhịp tim bất thường.
-Uống thuốc ngừa thai hoặc uống estrogen.
-Uống rượu nhiều
-Dùng ma túy như như cocaine và methamphetamine.
Các yếu tố nguy hại khác
-Bệnh sử cá nhân hay gia đình có tai biến, bệnh tim hoặc TIA.
-Tuổi 55 hoặc lớn hơn.
-Giống dân. Người Mỹ gốc Phi châu có nguy cơ bị tai biến cao hơn so với những người thuộc các chủng tộc khác.
-Giới tính. Nam giới có nguy cơ tai biến cao hơn so với phụ nữ. Phụ nữ thường lớn tuổi hơn khi họ bị tai biến và có nhiều nguy cơ chết vì tai biến hơn nam giới.
Các biến chứng
Một cơn tai biến có thể gây ra khuyết tật tạm thời hoặc vĩnh viễn, tùy thuộc vào thời gian óc bị thiếu cung cấp máu và phần móc nào bị ảnh hưởng. Biến chứng có thể gồm:
-Tê liệt hoặc mất hoạt động của bắp thịt. Thiếu cung cấp máu đến óc có thể gây tê liệt một bên của cơ thể, hoặc mất kiểm soát vài bắp thịt nhất định, chẳng hạn như bắp thịt ở một bên mặt hoặc một cánh tay, gây ra khó khăn trong hoạt động hàng ngày như đi đứng, ăn và mặc quần áo. Thể lý trị liệu có thể giúp bớt khó khăn trong các hoạt động kể trên.
-Khó khăn trong việc nói chuyện hoặc nuốt do mất kiểm soát các bắp thịt trong miệng và cổ họng. Một số người có thể bị nói lắp (dysarthria), bị chứng mất ngôn ngữ bao gồm cả việc nói hoặc hiểu lời nói, đọc hoặc viết. Điều trị ngôn giữ có thể giúp bớt bệnh.
-Mất trí nhớ hoặc khó khăn khi suy nghĩ. Nhiều người trải qua tai biến bị mất trí nhớ. Những người khác có thể gặp khó khăn khi suy nghĩ, phán đoán, lý luận và hiểu biết. Các biến chứng này có thể bớt đi nhờ chữa trị.
-Khó khăn với cảm xúc. Những người đã bị tai biến có thể gặp khó khăn trong việc kiểm soát cảm xúc hoặc có thể bị trầm cảm.
-Đau. Một số người đã bị đột quỵ có thể bị đau, tê hay có cảm giác khác lạ trong các bộ phận của cơ thể bị ảnh hưởng bởi cơn tai biến. Ví dụ, nếu cơn tai biến gây ra mất cảm giác ở cánh tay trái, người bệnh có thể bị cảm giác ngứa ran khó chịu ở cánh tay. Một số người có thể nhạy cảm với thay đổi nhiệt độ, đặc biệt khi lạnh dữ dội. Biến chứng này được gọi là hội chứng đau trung ương (Central Pain Syndrome), thường xảy ra vài tuần sau cơn tai biến và có thể bớt đi theo thời gian. Nhưng vì cơn đau là do vấn đề trong óc, không phải là một chấn thương thể lý nên ít có thuốc điều trị.
-Thay đổi tính tình. Những người đã bị tai biến có thể trở nên thu rút lại, hoặc không muốn tiếp xúc xã hội, hoặc bốc đồng hơn. Họ có thể mất khả năng chăm sóc bản thân và cần người giúp họ trong nhu cầu ăn mặc và những việc hàng ngày.
Như với bất kỳ tổn thương óc nào, hiệu nghiệm của sự điều trị những biến chứng này sẽ khác nhau đối với từng người.

Phương pháp điều trị và thuốc
Việc điều trị cấp cứu phụ thuộc vào loại tai biến: nghẽn máu hay xuất huyết trong óc
1.Tai biến do nghẽn máu:
Bác sĩ cần khôi phục luồng máu đến não bằng những cách sau:
a.Điều trị bằng thuốc để làm tan rã cục máu đông: phải bắt đầu trong vòng 4.5 giờ nếu dùng đường tĩnh mạch - và càng sớm càng tốt. Điều trị nhanh chóng làm tăng cơ hội sống sót và có thể làm giảm các biến chứng của tai biến. Các loại thuốc gồm có:
-Aspirin: là một loại thuốc chống tích tụ tiểu cầu - một phản ứng cần cho sự đông máu- được dùng ngay lập tức sau một tai biến do nghẽn máu để làm giảm nguy cơ bị thêm một lần nữa. Aspirin ngăn ngừa cục máu đông thành hình. Trong phòng cấp cứu, bệnh nhân có thể đã nhận được một liều aspirin. Nếu bệnh nhân đang uống aspirin hàng ngày, nên có một thẻ y tế ghi rỉ điều này để các bác sĩ biết.-Một loại thuốc làm loãng máu khác chẳng hạn như heparin, cũng có thể được dùng. Nhưng thuốc này chưa được chứng minh là có lợi trong các trường hợp khẩn cấp. Clopidogrel (Plavix), warfarin (Coumadin) hoặc aspirin kết hợp với dipyridamole (Aggrenox) cũng có thể được sử dụng, nhưng ít khi trong phòng cấp cứu.
-Thuốc tissue plasminogen activator (TPA), còn được gọi là alteplase, chích vào tĩnh mạch ở cánh tay. Thuốc này có tác dụng làm tan cục máu đông nhưng cần phải được chích trong vòng 4.5 giờ sau khi bị tai biến. Bác sĩ cần xem xét các nguy cơ của thuốc, chẳng hạn như gây chảy máu trong não, để xác định xem có nên dùng TPA hay không.
b.Những cách điều trị khẩn cấp khác cho tai biến do nghẽn máu
-Cho thuốc trực tiếp vào óc: Bác sĩ có thể đặt một ống dài nhỏ từ một động mạch ở háng và luồn nó lên tới óc để chích TPA trực tiếp vào khu vực óc nơi bị tai biến. Thời gian cho phép để chích thuốc bằng cách này hơi dài hơn so với chích TPA vào tĩnh mạch nhưng vẫn còn rất hạn chế.
-Dùng dụng cụ để loại bỏ cục máu đông. Bác sĩ có thể sử dụng một ống thông điều khiển một dụng cụ nhỏ vào óc để gắp cục máu đông ra.
-Các phương pháp khác. Để giảm nguy cơ bị thêm một cơn tai biến hay TIA, bác sĩ có thể đề nghị dùng một phương pháp đặc biệt để mở rộng một động mạch –thường là động mạch cổ dẫn máu lên óc- đã bị hẹp lại bởi mỡ bám vào thành.
2.Tai biến do xuất huyết não:
Cần làm ngưng chảy máu và làm giảm áp suất trong óc. Bác sĩ có thể giải phẫu để giúp giảm thiểu rủi ro trong tương lai.
a.Biện pháp khẩn cấp: Nếu đang uống warfarin (Coumadin) hoặc thuốc chống tiểu cầu như clopidogrel (Plavix) để ngăn ngừa cục máu đông, bệnh nhân có thể được cho thuốc hoặc truyền máu để chống lại tác động của các thuốc này. Bệnh nhân cũng có thể được cho thuốc để giảm áp suất trong óc, giảm bớt huyết áp hoặc ngăn động kinh. Không được dùng aspirin và TPA, vì các thuốc này có thể làm chảy máu thêm.b.Sau khi ngưng chảy máu, điều trị thường chỉ là nghỉ ngơi và chăm sóc hỗ trợ trong khi cơ thể loại bỏ máu trong óc, tương tự loại bỏ một vết bầm trên da. Nếu chảy máu trong một vùng lớn, có thể phải mổ để lấy máu ra và làm giảm áp suất trong óc.
b.Giải phẫu sửa chữa mạch máu: được sử dụng để sửa chữa những bất thường của mạch máu gây ra tai biến do xuất huyết. Bác sĩ có thể đề nghị làm các giải phẫu đặc biệt sau cơn tai biến hoặc nếu bệnh nhân có nguy cơ bị vỡ động mạch phình (aneurysm) hoặc dị tật động tĩnh mạch (AVM).
Phục hồi sau cơn tai biến
Sau những điều trị khẩn cấp là việc giúp bệnh nhân lấy lại sức mạnh, phục hồi chức năng càng nhiều càng tốt và trở về cuộc sống độc lập. Hậu quả của cơn tai biến tùy thuộc vào khu vực của óc bị ảnh hưởng và số lượng mô óc bị hư hỏng. Nếu cơn tai biến xẩy ra ở bên phải của óc, hoạt động và cảm giác phía bên trái của cơ thể có thể bị ảnh hưởng và ngược lại, tai biến bên trái của óc sẽ gây hư hại cho hoạt động và cảm giác phía bên phải. Thiệt hại phía bên trái của óc còn có thể gây ra các rối loạn ngôn ngữ và tiếng nói. Ngoài ra, nếu đã từng bị tai biến, bệnh nhân có thể bị trở ngại thở, nuốt, cân bằng và tầm nhìn.
Hầu hết các người sống sót sau cơn tai biến sẽ được điều trị trong một chương trình phục hồi chức năng, bắt đầu trước khi bệnh nhân rời nhà thương, có thể tiếp tục trong khu phục hồi chức năng của cùng một nhà thương hay một chỗ khác hoặc cơ sở điều dưỡng chuyên môn (nursing home), hoặc tại nhà.
Mỗi bệnh nhân có mức độ phục hồi khác nhau. Tùy thuộc vào tình trạng bệnh nhân, nhóm điều trị có thể gồm:
-Bác sĩ chuyên môn về thần kinh
-Bác sĩ chuyên môn phục hồi chức năng (physiatrist)
-Y tá
-Chuyên gia dinh dưỡng
-Thể lý trị liệu (physiacl therapy)
-Nghề nghiệp trị liệu (occupational therapy)
-Giải trí trị liệu (revreational therapy)
-Ngôn ngữ trị liệu (speech therapy)
-Cán sự xã hội
-Người quản lý trường hợp bệnh (case manager)
-Bác sĩ tâm lý (psychologist) hoặc bác sĩ tâm thần (psychiatrist)
-Người hướng dẫn tâm linh (chaplain)
Phòng ngừa
Biết về các yếu tố gây stroke mình đang có, theo lời khuyên của bác sĩ và áp dụng một lối sống lành mạnh là các bước tốt nhất chúng ta có thể làm để ngăn chặn một cơn stroke. Nếu bạn đã có một cơn tai biến hoặc TIA, các biện pháp sau đây có thể giúp bạn tránh có thêm một cơn tai biến khác. Những cách phòng ngừa đột quỵ này tương tự như cách phòng ngừa bệnh tim, bao gồm:
-Kiểm soát bệnh huyết áp cao. Một trong những điều quan trọng nhất để giảm nguy cơ tai biến là giữ cho huyết áp trong mức “bình thường”. Nếu đã từng bị stroke, giảm huyết áp có thể giúp ngăn chặn một cơn tai biến hay TIA khác. Tập thể dục, bớt căng thẳng, giữ cân bình thường, hạn chế lượng muối sodium và rượu... là những cách để giữ cho huyết áp trong mức bình thường. Ăn thêm chất potassium cũng rất tốt. Ngoài việc thay đổi lối sống cho tốt đẹp hơn như trên, bác sĩ có thể cho bệnh nhân uống thuốc điều trị huyết áp cao.
-Hạ thấp lượng cholesterol và chất béo bão hòa. Ăn ít cholesterol và chất béo, đặc biệt là chất béo bão hòa và transfat, có thể làm giảm các mảng bám trong động mạch. Nếu bệnh nhân không thể kiểm soát cholesterol qua những cách trên, bác sĩ có thể cho uống thuốc làm giảm cholesterol.
-Ngưng hút thuốc. Hút thuốc làm tăng nguy cơ stroke cho người hút và người không hút thuốc nhưng bị tiếp xúc với khói thuốc lá. Ngưng hút thuốc làm giảm nguy cơ đột quỵ.
-Kiểm soát bệnh tiểu đường bằng ăn uống đúng cách, tập thể dục, kiểm soát cân nặng, và dùng thuốc đầy đủ
-Duy trì một trọng lượng khỏe mạnh. Cân nặng quá khổ dễ đưa đến các yếu tố nguy cơ đột quỵ như huyết áp cao, bệnh tim mạch và tiểu đường. Chỉ cần giảm trọng lượng 10lbs có thể làm giảm huyết áp và cholesterol.
-Ăn nhiều trái cây và rau quả, ít nhất năm phần trái cây và rau mỗi ngày, có thể làm giảm nguy cơ đột quỵ.
-Tập thể dục thường xuyên. Tập loại thể dục aerobic (làm tim đập nhanh lên) làm giảm nguy cơ tai biến bằng cách giảm huyết áp, tăng cholesterol tốt HDL, và làm tốt mạch máu và trái tim, giảm bệnh tiểu đường, kiểm soát cân nặng và giảm bớt căng thẳng. Tăng từ từ thời gian tập lên đến 30 phút - chẳng hạn như đi bộ, bơi lội, chạy bộ hoặc đi xe đạp - vào hầu hết các ngày trong tuần.
-Uống rượu ở mức độ vừa phải. Rượu có thể vừa là một yếu tố nguy cơ vừa là biện pháp phòng ngừa tai biến. Uống rượu nhiều làm tăng nguy cơ bị huyết áp cao, tai biến do nghẽn máu và do xuất huyết. Tuy nhiên, uống lượng vừa phải có thể giúp ngăn chặn tai biến do nghẽn máu cục bộ và làm giảm khuynh hướng đông máu trong mạch.
-Chữa chứng ngừng thở khi ngủ (sleep apnea), nếu có.
-Không dùng ma túy vì một số loại ma túy như cocaine và methamphetamine thành lập các yếu tố nguy cơ cho một TIA hay stroke. Cocaine làm giảm lưu lượng máu và có thể gây thu hẹp các động mạch.
*Thuốc phòng ngừa
Nếu bạn đã bị tai biến hoặc TIA, bác sĩ có thể khuyên nên dùng thuốc để giúp giảm nguy cơ bị thêm một lần nữa:
-Thuốc chống tiểu cầu. Tiểu cầu là tế bào trong máu có nhiệm vụ bắt đầu sự đông máu. Thuốc chống tiểu cầu làm cho các tế bào ít dính nhau khiến khó đông máu. Thuốc chống tiểu cầu được sử dụng thường nhất là aspirin. Bác sĩ cũng có thể cho thuốc Aggrenox là thuốc kết hợp aspirin và dipyridamole hoặc thuốc clopidogrel (Plavix).
-Thuốc kháng đông như heparin và warfarin (Coumadin) hoặc các chất làm loãng máu khác mới hơn.

Bác Sĩ Nguyễn Thị Nhuận

1 comment:

  1. bệnh này rất nguy hiểm cần phải đưa tới bệnh viện phục hồi chức năng để cải thiện các di chứng

    ReplyDelete