Friday, August 21, 2015

Mồ hôi quá nhiều, cục bộ, không rõ nguyên nhân (primary focal hyperhidrosis)

Thường chúng ta chảy mồ hôi nhiều lúc chúng ta đến một chỗ nóng nực, vì bộ óc chúng ta có khả năng phát hiện được sự thay đổi nhiệt độ của máu cơ thể đi vào đầu, bộ óc ra lệnh cho những tuyến mồ hôi làm việc nhiều hơn.
Trái lại, mồ hôi bàn tay và lòng bàn chân chịu ảnh hưởng trực tiếp của vỏ óc (cerebral cortex) là những tổ chức thần kinh cấp cao và là nơi điều khiển những cảm xúc, suy nghĩ. Do đó chúng ta chảy mồ hôi tay chân thường vì chúng ta xúc động, sợ sệt hoặc lo âu (emotional stimuli).
Chứng chảy "mồ hôi cục bộ không rõ nguyên nhân" (primary focal hyperhidrosis):
●    Focal là cục bộ, chỉ giới hạn ở nách, bàn tay, bàn chân, mặt; khác với “generalized hyperhidrosis”).
●    Ở một người khỏe mạnh về mọi mặt khác.
●    Thường được giải thích như là một sự thiếu điều hòa của hệ thần kinh giao cảm (autonomic dysregulation). Nói một cách đơn giản hơn, những người này là những người dễ bị xúc động, hệ thần kinh giao cảm (sympathetic system), nhưng dùng acetylcholine làm chất dẫn truyền thần kinh [neurotransmitter]) quá nhạy cảm, kích thích các hạch mồ hôi tay chân, nách quá trớn. Người Nhật bị chứng này 20 lần nhiều hơn các giống dân khác. Người Mỹ (phần đông là da trắng) chừng 1% mắc chứng này.
●    Trong gia đình bệnh nhân có nhiều người thân khác cũng mắc chứng ra mồ hôi nhiều ở tay, chân mặt.
●    Một điểm quan trọng khác là lúc đi ngủ thì không bị ra mồ hôi tay chân.

Bác sĩ cần phân biệt với bệnh ra mồ hôi quá nhiều toàn thân do những nguyên nhân khác (secondary hyperhidrosis).
1) Những người này chảy mồ hôi cả ngày lẫn đêm.
2) Nguyên nhân có thể là: trời nóng quá, bệnh nhiễm như bệnh lao, u bướu (lymphoma), cường cơ năng tuyến giáp.

Chữa trị chỉ có mục đích làm tăng chất lượng đời sống vì bệnh này không có gì nguy hiểm.
1) Thường nhất là dùng những muối aluminum (nhôm). Muối nhôm bít các lỗ tuyến ra mồ hôi, và có thể huỷ hoại một số tuyến mồ hôi.
●    Ở Mỹ, thuốc tên Drysol chứa 20 % aluminum chloride, bán từng chai 37.5 cc, ở Mỹ mua phải có toa bác sĩ (BS). Tối đi ngủ người bệnh thoa Drysol lên chỗ mồ hôi nhiều, lấy saran wrap (là màng plastic) bọc lên, sáng dậy rửa thuốc đi. Làm hai đêm liên tiếp. Sau đó, mỗi tuần một hai lần nếu cần.
●    Thuốc Certin-Dri và Xerac không cần toa BS.
●    Nên hỏi dược sĩ có thuốc tương tự hay không, thường đây là những chất rẻ tiền dễ kiếm.
●    Nhớ thoa thuốc lúc da khô (trước khi đi ngủ), và rửa sạch lúc dậy buổi sáng; nếu da vẫn ngứa, đỏ khó chịu có thể dùng kem loại corticoid (như hydrocortisone 2.5%) thoa.

2) Các thuốc uống xài trị bệnh ra mồ hôi nhiều không hiệu quả lắm vì nhiều phản ứng phụ. Những thuốc này có tác dụng chống lại acetylcholine, nên cũng gây phản ứng phụ như khô mắt, khô miệng, mắt mờ do con ngươi nở lớn, khó tiểu, bón (Anticholinergics: vd propantheline bromide, glycopyrrolate, oxybutynin (Ditropan), benztropine).
3) Một cách chữa khác là iontophoresis, dùng dòng điện để đem thuốc vào da. Máy bán trên thị trường cho người tiêu dùng tại nhà, dùng nước vòi (tap water) và chừng 85% thấy bệnh thuyên giảm. Bất tiện là phải 'chạy điện" 20-30 phút mỗi ngày, dần dần có thể dùng vài ba lần/ tuần.
4) Trong một số trường hợp bác sĩ có thể xài thuốc an thần (tranquilizer).
Những thuốc này cũng như những biện pháp sau đây không xài cho trẻ em, chỉ kể ra đây với mục đích thông tin.

5) Một số BS dùng phương pháp giải phẫu, cắt đứt dây thần kinh giao cảm nằm trong lồng ngực, trước khi dây này ra khỏi lồng ngực và phụ trách vùng mồ hôi ở nách và tay (cắt thần kinh giao cảm bằng nội soi lồng ngực/ ETS endoscopic transthoracic sympathectomy). Do BS giải phẫu thần kinh (neurosurgeon) thực hiện.
Một số bệnh nhân sau khi giải phẫu, mồ hôi tay chân có thể giảm nhiều, nhưng lại có phản ứng phụ là sau một thời gian khá lâu, mồ hôi lại gia tăng ở chỗ khác, (compensatory sweating) như ngực, lưng, mặt, chân (ví dụ trán chảy mồ hôi nhiều lúc ăn đồ gia vị). Biến chứng có thể xảy ra: tổn thương các bộ phận trong lồng ngực, cắt nhầm các nhánh thần kinh giao cảm ảnh hưởng đến mắt, tim (làm sụp mí mắt trong hội chứng Horner, tim có thể đập chậm hơn trước, có thể quan trọng đối với các lực sĩ chuyên nghiệp). Bệnh nhiều mồ hôi có thể tái lại sau một thời gian 1-2 năm.
6) Một phương pháp mới, khá đắt tiền là chích Botulinum toxin A (Botox). Botox là một chất cực độc lấy từ vi trùng botulinum. Hiện nay rất thịnh hành trong việc trị các vết nhăn da mặt. Độc tố này làm tê liệt các tuyến mồ hôi.
Bệnh nhân được bác sĩ chuyên khoa da chích chừng 50 mũi chất này vào mỗi bàn tay. Hiệu nghiệm từ 4-12 tháng, sau đó phải làm lại.
7) Một số khảo cứu đang dùng năng lượng của siêu âm để chữa bệnh này, điềm bất tiện chính là làm tê hai bàn tay.
8) Tự nó bệnh nhiều mồ hôi chỉ bất tiện, cần tĩnh tâm, bớt lo lắng, lo âu, thư giãn.
●    Thường người chảy mồ hôi tay nhiều có khuynh hướng bị ám ảnh tay mình ẩm ướt lúc giao tiếp, trước lúc sắp phải bắt tay người khác, cầm tay người khác. Sự căng thẳng này lại càng làm cho người đó hồi hộp, tim đập mạnh, tay ướt nhiều hơn (do hệ thần kinh giao cảm tự động bị kích thích bởi tác dụng của stress). Người đó có thể vô tình tránh tiếp xúc với người khác và giới hạn sinh hoạt của mình, ít muốn tiếp xúc với ai. Khá đông người Việt chúng ta cũng nghĩ rằng mồ hôi tay là triệu chứng yếu tim (cũng dễ hiểu vì do tác dụng hệ gia cảm nói trên, tim cũng đập nhanh, người đó hồi hộp, cảm thấy khó thở) nhưng điều này không đúng. Có thể đọc sách hướng dẫn, tập thiền, hoặc nhờ những người có khả năng giúp cho mình tự tin hơn, như chuyên gia tâm lý, hoặc BS của mình.
●    Đa số người trẻ mắc chứng này dần dần sẽ bớt trở ngại, triệu chứng giảm đi với thời gian, nhất là nếu người đó tự tin hơn và làm chủ được mình hơn bằng cách ý thức về sự sợ sệt của mình. Có thể dùng muối nhôm (aluminum salt) nếu cần.
●     Nên nhờ BS khám để đánh giá sức khỏe tổng quát, để loại những bệnh tim, giáp trạng đôi khi có thể đi cùng.

BS Hồ Văn Hiền

Mắt khó chịu và cườm khô ở người lớn tuổi

Những nhận xét sau đây căn cứ trên một số hướng dẫn của Hàn Lâm Viện Nhãn Khoa Hoa Kỳ 
1)    Một số bệnh nhân lớn tuổi thắc mắc: “Mắt tôi hay bị “chèm nhem”, bác sĩ cho nhỏ thuốc là nước mắt nhân tạo, tôi nhỏ vài hôm thì khỏi, sao bây giờ vẫn bị lại như cũ?”
Sở dĩ mắt chúng ta luôn luôn trong sáng vì nước mắt được tiết ra liên tục, giữ cho mắt ướt và có tác dụng ngăn chặn nhiễm trùng, đồng thời hệ thống ống dẫn thải nước mắt (tear duct) dư đi vào mũi ở phía dưới. Người gìà, cũng như phụ nữ sau tuổi tắt kinh, tuyến nước mắt làm việc kém đi, nhất là nếu mắc những bệnh làm giảm sút cơ năng hạch nước mắt như bệnh phong thấp (RA), một số bệnh tuyến giáp, vì vậy mắt bị khô, nhất là lúc xem TV chăm chú, đọc sách lâu mà ít chớp mắt (“nhìn không chớp”). Do đó, mắt bị xốn, do phản xạ, nước mắt lại sản xuất tăng lên, chảy đi không kịp làm nhòa, nhòe mắt. Dùng nước mắt nhân tạo có ích cho trường hợp này nhưng phải dùng thường xuyên, không phải bớt triệu chứng rồi ngưng. Ngoài ra, nên nhớ chớp mắt thường xuyên lúc đọc sách, xem phim, mang kính mát hoặc tránh chỗ gió nhiều làm khô mắt nhanh hơn. Nên để ý một số người sẽ bị xốn mắt vì chất bảo quản (preservative) đi kèm trong thuốc nhỏ mắt. Nếu nhỏ 6-7 lần/ ngày, nên dùng nước mắt nhân tạo mà không chứa chất bảo quản (preservative free artificial tears).
Một số trường hợp, bác sĩ chuyên khoa mắt có thể gắn một nút (punctal plug) bằng plastic vào kênh dẫn nước mắt để giữ nước mắt lại cho mắt đỡ khô.
Một số người già mí mắt bật ra ngoài (ectropion) nên không giữ được nước mắt, phải chảy ra ngoài. Có thể giải phẫu nếu cần để mí mắt không còn bật ra ngoài.
2)    Một số người không thấy thị giác mình có vấn đề, và hỏi tại sao phải đi khám bác sĩ mắt làm chi cho mất thì giờ và tốn kém. Thật ra có nhiều người già vì lý do này hay lý do khác bị giảm thị lực rất nhiều, có khi mù đến một bên mắt mà không biết, đến lúc bác sĩ chuyên khoa khám phá ra vấn đề, có thể đã quá trễ không đảo ngược lại như trường hợp mắt bị hư vì áp suất trong mắt quá cao và làm hư hại mắt.
Hàn Lâm Viện Nhãn Khoa khuyên bệnh nhân 40-65 tuổi nên đi khám mắt ở bác sĩ chuyên môn (ophthalmologist) cứ 2 đến 4 năm một lần dù không có bệnh, trên 65 tuổi nên khám một lần mỗi năm là ít nhất, có thể thường hơn.
Lý do : Những thay đổi mắt ở người già xảy ra rất chậm, từ từ, làm bệnh nhân thích ứng với hoàn cảnh mà không để ý, không biết rằng mắt mình mờ hơn trước, hoặc thị trường (visual field) của mình bị thu hẹp lại, mình không còn thấy rõ những gì xảy ra ở ngoại biên tầm mắt mình, màu sắc các sự vật mình thấy không trung thực (ví dụ màu trắng mình tưởng là vàng), đêm tối lái xe, đèn phía trước chiếu vào mắt mình lóa không thấy rõ. Bác sĩ chuyên khoa mắt sẽ khám thấy những thay đổi đó và sẽ đề nghị những biện pháp thích hợp để chữa trị (như cho đeo kính để điều chỉnh khúc xạ mắt (refraction correction), giải phẫu hay cho thuốc trị chứng cườm nước (glaucoma) làm cao áp suất trong mắt, ngăn chặn những tổn thương có thể xảy tới cho mắt, giải phẫu lấy cườm và thay thế bằng thấu kính nhân tạo (artificial lens), giúp tránh tai nạn cho người lái xe).
3)    Cataract, hoặc cườm khô, là trường hợp thấu kính (lens) của mắt bị vẩn đục, cản trở ánh sáng từ ngoài vào rọi trên đáy mắt (retina). Muốn thị giác toàn hảo, ngoài việc thấu kính phải thông suốt, cần phải có một võng mạc (đáy mắt, retina) làm việc tốt (ví dụ không bị hư hoặc kém đi do đã bị thoái hóa vì tuổi già, hoặc hư vì bệnh tiểu đường), và luôn những khâu khác của hệ thần kinh phải nguyên vẹn. Cho nên, mổ mắt lấy cườm sẽ làm thị giác tốt hơn trước, thấy rõ hơn trước khi mổ, nhưng không nhất thiết là sẽ 20/20 (tối hảo) vì còn tùy thuộc các yếu tố khác của mắt và hệ thần kinh người bệnh. Gần đây bác sĩ chuyên khoa mắt có thể khuyên giải phẫu lấy cườm sớm hơn là mấy chục năm trước đây, lý do là kết quả giải phẫu tốt hơn. Tuy nhiên một số bs thuộc trường phái xưa hơn có thể không đồng ý và đợi cataract "chín muồi" hơn mới khuyên bệnh nhân đi mổ.
Ngoài ra, nếu bị cườm khô (cataract), bác sĩ mắt không nhìn thấy rõ phần sau của mắt nên không theo dõi và chữa trị được những bệnh của võng mạc (retinopathy). Lấy cườm khô ra giúp cho công việc chăm sóc của mắt dễ dàng và tốt hơn.
4)    Có người lại thắc mắc: Thế tại sao mổ cườm khô rồi mà vẫn mang kính (mang gương)?
Ở người trẻ bình thường, không cần mang kính cũng thấy rõ vật ở thật xa (vô tận, infinity) cũng như vật ở gần (đọc sách chữ nhỏ). Sở dĩ được như vậy vì thấu kính (lens) trong mắt người trẻ có khả năng thích ứng (accommodation), thay đổi tính khúc xạ của nó (tựa như máy hình hiện đại có thể tự động zoom xa và gần).
Thấu kính nhân tạo (thế thấu kính bệnh đã đục) không có khả năng thích ứng theo nhu cầu nhìn xa nhìn gần này, nên phải lựa chọn giữa một loại thấu kính nhìn gần và một loại thấu kính nhìn xa. Thường thì, khi mổ mắt cườm khô, một bên mắt thì bác sĩ gắn thấu kính nhìn gần, mắt kia thì bác sĩ gắn thấu kính nhìn xa để bệnh nhân có thể sinh hoạt bình thường mà không cần đeo kính (mang gương). Tuy nhiên, những trường hợp như đọc sách chữ nhỏ, kéo dài, bệnh nhân cũng cần mang kính để mắt đỡ mệt và thấy rõ hơn.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Viêm lở miệng tái hồi (Recurrent Aphthous Stomatitis)

Bệnh hay xảy ra ở các trẻ con chừng 9-10 tuổi trở lên, những người trẻ 20-30 tuổi. Tiếng Anh gọi là Recurrent Aphthous Stomatitis (RAS, canker sore), chúng ta thường gọi là lở miệng, hay “đẹn” lưỡi miệng, nhưng những từ này không chính xác. Tạm dịch là “viêm lở miệng tái hồi' (gốc Hy Lạp chữ aphtha = lở miệng= mouth ulcer).
Trở lại bệnh RAS, thường vết loét 3-10mm phía trong môi hay dưới lưỡi, phía sau họng thì ít khi bị loét.Trên vết lở có phủ một lớp trắng đục. Bệnh nhân không sốt và hạch cổ không sưng, tuy đôi khi có thể có hạch nhỏ sưng dưới cằm. Bệnh làm cho bệnh nhân đau buốt, càng đau nhiều nếu ăn đồ nóng, chua, cay; nhất là trẻ em có thể bỏ ăn uống gây thiếu nước. Bệnh có thể tái đi tái lại nhiều lần, tuy càng lớn tuổi thì cáng ít bị bệnh.
Về nguyên nhân, chúng ta chưa biết rõ đích xác. Đây có lẽ không phải là bệnh nhiễm trùng và không phải bệnh lây (not contagious), tuy nhiên, một số bác sĩ dùng kháng sinh tetracycline và có kết quả đáng kể (tetracycline có thể tác dụng chống viêm ngoài tác dụng chống vi trùng). Có một phần ảnh hưởng di truyền, gia đình.
Nếu giải thích là vì ăn đồ ăn nóng, và cần chữa bằng ăn uống đồ mát thì đó là giải thích theo y lý đông phương, tây y không lý luận như vậy. Tây y cho rằng có những yếu tố dị ứng (ví dụ bệnh nhân có thể dị ứng với chất gluten thường tìm thấy trong bột mì, và là một thành phần của bệnh celiac disease làm bệnh nhân lở trong ruột và hấp thụ thức ăn giảm đi).
Thuyết thứ hai là có những yếu tố tự miễn nhiễm, các bạch cầu hệ phòng thủ của cơ thể tác động lên trên chính các tế bào của chính mình (autoimmune basis).
Dù sao, ngoài chuyện đau đớn vì lở miệng, đại đa số chỉ bệnh nhẹ, chừng 7-10 ngày thì khỏi.
Ở đây chúng ta cần phân biệt với những nguyên nhân khác có thể làm lở miệng ở trẻ em.
1)    Ví dụ bệnh bệnh viêm miệng (stomatitis) do những siêu vi gây ra, khá phổ biến ở trẻ em, ví dụ như bệnh bàn tay-chân-miệng (hand foot mouth disease) do virus ruột (enterovirus) gây ra, thường bé sốt, nổi mụt nước ở mông, hai bàn tay và chân, kèm theo lở miệng. Bệnh dịch tay-chân-miệng ở Việt Nam cũng như các nước Đông Á, Đông Nam Á do enterovirus 71 có thể nặng hơn và gây chết người nhiều hơn dạng chúng tôi thường gặp bên Mỹ.
2)    Một bệnh khác là viêm miệng và nướu răng do siêu vi herpes, thường xảy ra ở các bé dưới 3 tuổi (vì đây là lúc cháu tiếp xúc lần đầu với virus). Điển hình trước đó 3-50 ngày cháu có "phơi nhiễm" (exposed) với virus này từ một người nào đó, bắt đầu cháu sốt, sưng hạch vùng cổ, niêm mạc miệng sưng đỏ, sau đó những vết lở xuất hiện 1-3 mm khắp nơi từ trước ra sau, trừ phần hầu cuối họng (posterior pharynx).
3)    Một loại lở miệng khá phổ biến ở các trẻ nhỏ dưới một tuổi là lở miệng do nấm candida. (thrush). Bé bỏ bú, miệng nhiều đốm trắng và niêm mạc, lưỡi sưng đỏ.
4)    Một bệnh khác gọi là herpangina, do virus Coxsackie A gây ra, cũng gây sốt, nhưng vết lở trên 2 cột đứng trước hạch a-mi-đan (anterior tonsillar pillars) và phía sau vòm họng (soft palate), phía trước miệng và lưỡi thì không bị lở.
5)    Một bệnh liên hệ đến chứng lở miệng tái hồi là hội chứng PFAPA (periodic fever, aphthous stomatitis, pharyngitis, adenitis syndrome; gồm sốt tái hồi, lở miệng, viêm họng, viêm hạch ). Bệnh phát lúc trẻ chừng 3-5 tuổi, những đợt bệnh bắt đầu bằng cơn sốt, sau đó lở miệng, sưng hạch cổ, viêm họng, có thể kèm theo sưng khớp, đau bụng, ban (rash) ngoài da, ói mửa, tiêu chảy. Giữa các cơn bệnh bệnh nhân hoàn toàn bình thường. Các triệu chứng giảm nhanh chóng sau một liều corticoid nhưng cơn tiếp có thể trở lại sớm hơn. Cắt bỏ a mi đan (tonsillectomy) chữa dứt bệnh đa số trường hợp. Tuy nhiên, đa số trường hợp tự nó khỏi khi bệnh nhân qua tuồi thiếu niên, (teenager).
Những bệnh "lở miệng" do nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên khác bệnh cảnh. Ví dụ “Strep Throat”: viêm họng do vi trùng streptococcus nhóm A, sưng hầu, có mủ, sưng a mi đan, thường chữa bằng kháng sinh nhóm Penicillin uống trong 10 ngày. Bệnh này có thể kéo theo bệnh thấp khớp cấp, ảnh hưởng tới tim, khớp (hiện nay ít thấy ở Mỹ).
Chúng ta cần loại bỏ khả năng những bệnh như vậy trước khi kết luận đây là bệnh RAS. Nói đơn giản: nếu có kèm theo nóng sốt, có sưng hạch thì cần tìm khả năng những bệnh khác.
Cho đến bây giờ chúng ta vẫn chưa hiểu rõ cơ chế nguyên nhân bệnh gây ra như thế nào. Chữa bệnh mục đích chính là làm giảm viêm và đau.
Điều trị:
1)    Kháng sinh có thể có ích, làm giảm đau và sưng, căn cứ trên kinh nghiệm điều trị nhưng chưa được chứng minh với bằng chứng thử nghiệm. Người ta hy vọng là trong vết thương có thể có một vi khuẩn gây ra mà nhạy cảm với loại kháng sinh này: tetracycline (người 8 tuổi trở lên) 1 viên 250 mg pha trong 1 ly nước, súc miệng 4 lần/ ngày trong 4-5 ngày.
Hoặc thuốc tetracycline nước (syrup) 250mg/5ml, súc miệng 4 lần/ngày trong 4-5 ngày.
Hoặc Minocycline 100mg pha trong ly nước 6 oz, súc miệng rồi nhổ ra hay nuốt, 2 lần/ngày, trong 4-5 ngày.(1)
2)    Giảm viêm: thuốc hiệu nghiệm nhất là corticoid chấm vào các vết lở trong miệng. Ví dụ thuốc betamethasone valerate ointment, thoa 2 lần/ ngày. Thuốc Kenalog in Orabase (dental paste) là một chất corticoid đi kèm theo một chất kết dính vào vết thương niêm mạc. Trét vào vết lở, đừng thoa hoặc chà xát vào, 2-3 lần/ ngày. Nên nhớ là không được dùng thuốc cho những trường hợp nhiễm trùng mà chúng ta bàn ở trên.
3)    Một thuốc tên amlexanox dưới dạng oral paste (tên thương mại là Aphthasol) được chứng minh là khá hiệu nghiệm, làm vết loét lành nhanh hơn. Tuy nhiên, gần đây vì ế quá, nên nhà sản xuất ngưng bán bên Mỹ.
4)    Một số thuốc tê dùng trên vết thương (topical ) có thể làm bớt đau: benzocaine (“Orajel cold sore”). Chỉ dùng cho người lớn : thuốc súc miệng (squish and spit) có viscous lidocaine [liquid] 2% (phải có toa bác sĩ, có thể làm sặc, mất phản xạ nuốt vì thuốc tê tác dụng trên họng.
5)    Dùng một muỗng teaspoon Phillips' Milk of magnesia (thuốc đau bụng, chữa táo bón) trộn với 1 muỗng Benadryl Allergy Liquid (diphenhydramine) súc miệng trong một phút, rồi nhả ra. Có thể làm 3-4 lần ngày cho đỡ đau.
6)    Một số người dùng cam thảo (licorice; DGL bột hay viên (deglycyrrhizinated licorice) bán ở các tiệm dược thảo/health food store, hay mật ong hoặc chất lấy từ tổ ong (tincture of propolis) (nếu dị ứng với ong không được dùng).
7)    Một số người dùng vitamin B;Vitamin C 500mg, uống 4 lần/ngày; probiotics (là những vi khuẩn lactobacillus giúp cho vi trùng bình thường "bạn" của chúng ta nẩy nở trong ruột già).
8)    Người ta thấy những chấn thương nhỏ, stress có thể gây ra viêm lở miệng. Có thể tránh stress, vệ sinh miệng, dùng bàn chải tốt không làm trầy niêm mạc miệng, tránh dùng kem đánh răng có chứa sodium lauryl sulfate (SLS để làm kem sủi bọt, tránh ăn những thức ăn cứng, như mía, hạt cứng có thể làm rát miệng.)
9)    Lúc lở miệng tránh các chất chua, gia vị cay, các thức ăn cứng.
10)  Trẻ em có thể bỏ ăn uống, mất sức mất nước. Những nước thiên nhiên như rau má, trái cây, có thể giúp cho bệnh nhân có đủ số nước và calories cần thiết lúc đang gặp khó khăn nhai nuốt vì lở miệng.
11)  Kamistad Gel chứa trích tinh từ hoa cây Liên Chi (Camomille), thường dùng chữa các vết loét. Sachol-gel: Mỗi 1 g Choline salicylate 87.1 mg, Cetalkonium Cl 0.1 mg.
12)    Nên cẩn thận đối với các thuốc gia truyền, thuốc không biết rõ xuất xứ, nhất là đối với trẻ em. Theo báo Việt Nam, trong 3-4 tháng đầu năm 2012, có đến 80 trẻ em nhiễm độc chì được đem vào điều trị ở Bệnh Viện Bạch Mai, nguyên nhân là dùng "thuốc cam" bôi trị tưa lưỡi, với triệu chứng tương tự như viêm họng, viêm não. Bệnh viêm miệng RAS chỉ là một bệnh nhẹ, dù cha mẹ sốt ruột đến đâu, không nên mạo hiểm dùng những thuốc mình không biết cho vào miệng trẻ con, nguy hiểm không lường được.

Tuesday, August 18, 2015

Hội chứng chân không yên

Hội chứng chân không yên (RLS: Restless Legs Syndrome) là tình trạng bạn có một sự thôi thúc không chịu nổi khiến bạn phải di động đôi chân, thường là do chân khó chịu, thường xảy ra vào buổi tối hoặc đêm trong khi bạn đang ngồi hoặc nằm. Di động chân giúp giảm bớt tạm thời cảm giác khó chịu.
Hội chứng chân không yên, hiện được gọi là bệnh hội chứng chân bồn chồn/bệnh Willis-Ekbom (RLS/WED), có thể bắt đầu ở mọi lứa tuổi và thường nặng hơn lên khi bạn có tuổi. Nó có thể làm gián đoạn giấc ngủ - khiến bạn buồn ngủ ban ngày - và làm cho việc đi du lịch bị khó khăn.
Triệu chứng
Đặc điểm chung của các dấu hiệu và triệu chứng RLS bao gồm:
-Cảm giác bồn chồn ở chân bắt đầu sau khi nghỉ ngơi, khi bạn đã nằm xuống hay ngồi trong một thời gian kéo dài, chẳng hạn như trong xe hơi, máy bay hay rạp chiếu phim.
-Bớt cảm giác này khi chuyển động. Cảm giác khó chịu của RLS / WED giảm đi khi bạn chuyển động, chẳng hạn như giãn gân, đong đưa chân, đi bách bộ hay đi bộ.
-Triệu chứng tăng lên vào buổi tối. Các triệu chứng xảy ra chủ yếu vào ban đêm.
-Co giật chân vào ban đêm. RLS/WED có thể liên kết với một tình trạng thông thường hơn gọi là chuyển động chân tay trong giấc ngủ, khiến đôi chân co giật và đá, có thể suốt đêm, trong khi bạn ngủ.
Bệnh nhân thường miêu tả triệu chứng của RLS/WED như cảm giác bất thường, khó chịu ở chân hoặc bàn chân của họ, trên cả hai bên của cơ thể. Thường cánh tay ít bị ảnh hưởng hơn.
Những cảm giác, thường xảy ra nơi tay chân hơn là trên da, được mô tả như sau:
-Cảm giác có vật gì bò, leo dần lên, kéo
-Nhức, ngứa
Đôi khi những cảm giác rất khó mô tả. Người bịnh thường không tả những cảm giác này như chuột rút hoặc bị tê. Họ luôn mô tả cảm giác muốn di động đôi chân. Các triệu chứng thường có mức nặng nhẹ khác nhau. Trong một số trường hợp, các triệu chứng biến mất trong một khoảng thời gian, sau đó tái hiện.
Khi nào nên đi khám bệnh?
Một số người bịnh không bao giờ đi khám vì họ lo là bác sĩ không tin triệu chứng của họ và coi nhẹ họ. Một số bác sĩ thường cho là các triệu chứng gây ra do căng thẳng, lo lắng, mất ngủ hay chuột rút.
Nhưng RLS / WED đã nhận được nhiều chú ý từ các phương tiện truyền thông và cộng đồng y tế trong những năm gần đây, làm cho nhiều người nhận thức được tình trạng bệnh này.
Nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể bị RLS / WED, nên gọi bác sĩ của bạn để làm hẹn khám bệnh.
Hiện vẫn chưa biết được nguyên nhân của hội chứng chân không yên. Các nhà nghiên cứu nghi ngờ tình trạng này có thể là do sự mất cân bằng của chất hóa học dopamine trong óc, là chất gửi tín hiệu để điều khiển chuyển động bắp thịt.
Di truyền
Đôi khi RLS / WED xẩy ra trong gia đình, đặc biệt là khi tình trạng này bắt đầu trước tuổi 50. Các nhà nghiên cứu đã xác định các chỗ trên các nhiễm sắc thể mà gen gây ra RLS / WED có thể có mặt.
Mang thai
Mang thai hoặc thay đổi nội tiết tố có thể tạm thời làm trầm trọng thêm các dấu hiệu và triệu chứng của RLS/WED. Một số phụ nữ bị RLS/WED lần đầu tiên khi mang thai, đặc biệt là trong ba tháng cuối cùng của thai kỳ. Tuy nhiên, các dấu hiệu và triệu chứng thường biến mất sau khi sinh.
RLS/WED có thể phát triển ở mọi lứa tuổi, ngay cả trong thời thơ ấu. Rối loạn này xảy ra nhiều hơn khi tuổi tác tăng lên và có nhiều ở phụ nữ hơn là nam giới.
Hội chứng chân không yên thường không liên quan đến một vấn đề y tế trầm trọng nào. Tuy nhiên, RLS/WED đôi khi đi kèm với các bệnh khác, chẳng hạn như:
-Bệnh thần kinh ngoại biên. Thiệt hại cho các dây thần kinh ở bàn tay và bàn chân đôi khi do các bệnh mãn tính như tiểu đường và nghiện rượu.
-Thiếu chất sắt. Ngay cả khi không gây ra thiếu máu, thiếu chất sắt có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm RLS/WED. Nếu có tiền sử chảy máu dạ dày hoặc ruột, có kinh nguyệt nhiều hoặc nhiều lần hiến máu, bạn có thể bị thiếu chất sắt.
-Suy thận. Nếu bị suy thận, bạn cũng có thể bị thiếu chất sắt, thường kèm theo thiếu máu. Khi thận không hoạt động đúng, dự trữ sắt trong máu của bạn có thể giảm. Điều này, với những thay đổi khác trong hóa học cơ thể, có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm RLS /WED.
Mặc dù RLS / WED không dẫn đến các tình trạng nghiêm trọng khác, các triệu chứng của RLS/WED có thể từ chỉ gây ra chút khó chịu cho đến nặng làm bệnh nhân không sinh hoạt được. Nhiều người bị RLS / WED bị khó ngủ.
RLS/WED nặng có thể gây ra suy giảm phẩm chất cuộc sống đáng kể và có thể dẫn đến trầm cảm. Mất ngủ có thể gây ra ngầy ngật ban ngày nhưng RLS/WED lại có thể khiến bạn không ngủ ban ngày được.
Nếu bạn có các dấu hiệu và triệu chứng của hội chứng chân không yên, nên lấy hẹn với bác sĩ. Sau khi khám, bác sĩ có thể giới thiệu bạn đến một bác sĩ chuyên về hệ thần kinh hoặc một chuyên gia giấc ngủ.
Bá sĩ có thể lấy lịch sử y tế của bạn và yêu cầu mô tả các triệu chứng của bạn. Một chẩn đoán RLS/WED được dựa trên các tiêu chí sau đây, được thành lập bởi Restless Legs Syndrome International Study Group:
-Bạn có một thôi thúc mạnh mẽ, không thể cưỡng lại được, cần phải di động đôi chân, thường đi kèm với cảm giác khó chịu được mô tả như có vật gì bò lên, leo dần lên, chuột rút, ngứa ran hoặc kéo lên.
-Các triệu chứng bắt đầu hoặc tồi tệ hơn khi bạn đang nghỉ ngơi, chẳng hạn như đang ngồi hoặc nằm.
-Các triệu chứng một phần hoặc tạm thời thuyên giảm bởi những hoạt động, chẳng hạn như đi bộ hoặc duỗi chân.
-Triệu chứng tồi tệ hơn vào ban đêm.
-Các triệu chứng không thể được giải thích bằng một chứng bệnh khác hoặc vấn đề về hành vi.
Bác sĩ có thể khám thể chất và thần kinh, sau đó cho thử nghiệm máu, đặc biệt thử bệnh thiếu chất sắt, để loại trừ các nguyên nhân khác của các triệu chứng.
Ngoài ra, bác sĩ có thể giới thiệu bạn đến một chuyên gia về giấc ngủ và bạn phải qua gồm một đêm nghỉ tại phòng khám giấc ngủ, nơi các bác sĩ có thể nghiên cứu giấc ngủ của bạn nếu họ nghi ngờ bạn bị rối loạn giấc ngủ, như ngưng thở khi ngủ. Tuy nhiên, một chẩn đoán RLS / WED thường không đòi hỏi phải nghiên cứu giấc ngủ.
Đôi khi, điều trị một tình trạng căn bản, chẳng hạn như thiếu chất sắt, sẽ làm giảm các triệu chứng của hội chứng chân bồn chồn.
Nếu bạn bị RLS / WED không liên quan đến một tình trạng bệnh nào khác, sự điều trị sẽ được tập trung vào việc thay đổi lối sống, và nếu không có hiệu quả, sẽ dùng thuốc.
Tự giúp
Những thay đổi trong cách sống đơn giản có thể giúp làm giảm bớt các triệu chứng của RLS/WED.
-Tắm nước nóng và massage. Ngâm mình trong bồn nước ấm và xoa bóp đôi chân có thể làm thư giãn các bắp thịt.
-Đắp khăn ấm hoặc mát. Dùng nóng hoặc lạnh, hoặc xen kẽ, có thể làm giảm bớt cảm giác nơi chân tay của bạn.
-Áp dụng kỹ thuật thư giãn như thiền hoặc yoga. Stress có thể làm trầm trọng thêm RLS / WED. Học cách thư giãn, đặc biệt là trước khi đi ngủ.
-Thiết lập vệ sinh giấc ngủ tốt. Mệt mỏi có xu hướng làm tăng các triệu chứng của RLS / WED, vì vậy cần thực hành vệ sinh giấc ngủ tốt. Lý tưởng nhất, có một môi trường ngủ mát, yên tĩnh, thoải mái; đi ngủ và thức dậy cùng thời gian hàng ngày; và ngủ đầy đủ. Một số người bị RLS / WED thấy rằng đi ngủ muộn hơn và dậy trễ hơn giúp ngủ đủ giấc.
-Tập thể dục. Tập thể dục vứa đủ, thường xuyên có thể làm giảm triệu chứng của RLS / WED, nhưng tập quá trớn hoặc quá muộn trong ngày có thể làm tăng triệu chứng.
-Tránh chất caffeine. Đôi khi cắt giảm caffeine có thể giúp đỡ bị chân bồn chồn. Cố gắng tránh các sản phẩm có chứa caffeine, kể cả chocolatea và đồ uống có chứa cafein như cà phê, trà, nước giải khát, trong một vài tuần để xem có giúp làm bớt triệu chứng không.
RLS / WED thường là một tình trạng kéo dài suốt đời. Để sống thoải mái với RLS/WED, cần phát triển chiến lược đối phó hiệu quả, chẳng hạn như:
-Nói với người khác về tình trạng của bạn. Chia sẻ thông tin về RLS/WED sẽ giúp các thành viên trong gia đình, bạn bè và đồng nghiệp hiểu rõ hơn khi họ thấy bạn đi lại dọc hành lang, đứng ở phía sau của nhà hát, hoặc đi bộ nhiều lần trong ngày.
-Đừng chống lại nhu cầu di chuyển. Nếu bạn cố gắng ngăn chặn nhu cầu di chuyển, bạn có thể thấy rằng các triệu chứng bị tăng lên.
-Giữ một cuốn nhật ký giấc ngủ. Theo dõi các loại thuốc và chiến lược giúp hoặc cản trở việc chiến đấu của bạn với RLS/WED, và chia sẻ thông tin này với bác sĩ của bạn.
-Giãn gân và massage. Bắt đầu và kết thúc một ngày của bạn với bài tập giãn gân hoặc massage nhẹ nhàng.
-Tìm kiếm sự giúp đỡ. Các nhóm hỗ trợ giúp tập trung các thành viên gia đình và những người có RLS/WED. Khi tham gia vào một nhóm, những hiểu biết của bạn không chỉ có thể giúp bạn nhưng cũng có thể giúp đỡ người khác.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Loét bao tử và bệnh nhiễm vi trùng H. pylori

Ít ai nghe nói tới bệnh nhiễm vi trùng H. pylori tuy bệnh này cũng khá phổ thông vì đây là nguyên nhân thông thường nhất của bệnh loét bao tử. Bệnh nhiễm H. pylori xảy ra khi một loại vi khuẩn gọi là Helicobacter pylori (H. pylori) tấn công dạ dày của bạn. Điều này thường xảy ra trong tuổi thơ ấu. Bệnh nhiễm H. pylori có thể có mặt ở hơn một nửa số người trên thế giới nhưng hầu hết mọi người không nhận ra họ bị nhiễm H. pylori, bởi vì họ không bao giờ có triệu chứng bệnh từ nó. Tuy nhiên, nếu bạn có các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh loét dạ dày/ tá tràng, bác sĩ có thể sẽ tìm xem bạn có bị nhiễm H. pylori không vì bệnh này có thể được điều trị bằng thuốc trụ sinh và bệnh nhân sẽ lành bệnh loét bao tử.
Hầu hết những người bị nhiễm H. pylori sẽ không bao giờ có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào. Người ta không hiểu tại sao có điều này, nhưng có lẽ do một số người có thể được sinh ra với khả năng chịu đựng được tác hại của H. pylori.
Triệu chứng: có thể bao gồm:
-Đau nhức hoặc đau rát ở vùng bụng
-Đau tăng lên khi dạ dày trống
-Buồn nôn
-Ăn mất ngon
-Ợ thường xuyên
-Đầy hơi
-Giảm cân không do chủ ý
Khi nào nên gặp bác sĩ
Nên lấy hẹn với bác sĩ nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu và triệu chứng dai dẳng làm bạn lo lắng. Nên tìm kiếm trợ giúp y tế ngay lập tức nếu bị:
-Đau bụng dữ dội hoặc dai dẳng
-Khó nuốt
-Phân có máu hoặc màu đen
-Nôn ra máu hoặc có màu đen hoặc chất nôn ra trông giống như bã cà phê
Cách H. pylori gây nhiễm bệnh như thế nào thì vẫn còn chưa biết. Vi trùng H. pylori có thể lây từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp với nước bọt, nôn mửa hoặc phân. H. pylori cũng có thể lây lan qua thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm.
Những yếu tố nguy cơ
Người ta thường bị nhiễm H. pylori trong tuổi nhỏ. Các yếu tố nguy cơ lây nhiễm H. pylori có liên quan đến điều kiện sống trong thời thơ ấu của bạn, chẳng hạn như:
-Sống trong điều kiện đông đúc. Bạn có nguy cơ bị nhiễm trùng H. pylori nếu bạn sống trong một ngôi nhà với nhiều người khác.
-Sống nơi không có một nguồn cung cấp nước sạch. Có một nguồn cung cấp nước sạch và lưu chuyển giúp giảm nguy cơ của H. pylori.
-Sống trong một đất nước đang phát triển. Người dân sống ở các nước đang phát triển, nơi mà điều kiện sống đông đúc và mất vệ sinh, có nguy cơ lây nhiễm H. pylori cao.
-Sống cùng nhà với một người bị nhiễm trùng H. pylori. Nếu người bạn đang sống chung bị nhiễm H. pylori, bạn có nhiều nguy cơ cũng bị nhiễm H. pylori.
Biến chứng: gồm có
-Loét bao tử/tá tràng. H. pylori có thể làm hư hại màng niêm mạc bảo vệ dạ dày và ruột non, khiến acid trong dạ dày có thể tạo ra vết loét. Khoảng 10 phần trăm những người có H. pylori sẽ bị vết loét.
-Viêm niêm mạc dạ dày.
-Ung thư dạ dày. Nhiễm H. pylori là một yếu tố nguy cơ mạnh mẽ cho một số loại ung thư dạ dày.
Trước khi đi khám bệnh
Nên đi khám bệnh nếu bạn có dấu hiệu hoặc triệu chứng của một biến chứng của nhiễm H. pylori. Bác sĩ có thể thử nghiệm và điều trị nhiễm H. pylori, hoặc giới thiệu bạn đến một bác sĩ chuyên về các bệnh về hệ tiêu hóa.
Bởi vì cuộc hẹn có thể ngắn và có nhiều chuyện để nói, nên chuẩn bị kỹ. Trước cuộc hẹn, bạn có thể viết một danh sách các câu hỏi sau:
-Khi nào triệu chứng bắt đầu?
-Điều gì làm cho chúng tốt hơn hoặc tồi tệ hơn?
-Cha mẹ hay anh chị em của bạn từng có vấn đề tương tự?
-Những thuốc hoặc các thuốc bổ bạn dùng thường xuyên?
Thời gian với bác sĩ có hạn, nên chuẩn bị một danh sách các câu hỏi để hỏi có thể giúp bạn tận dụng tối đa thời gian. Đối với bệnh nhiễm H. pylori, một số câu hỏi căn bản để yêu cầu bác sĩ trả lời gồm có:
-Tại sao nhiễm H. pylori gây ra các biến chứng tôi đang có?
-H. pylori có thể gây ra các biến chứng khác?
-Tôi cần những loại thử nghiệm nào?
-Làm các thử nghiệm này đòi hỏi bất kỳ sự chuẩn bị đặc biệt không?
-Biện pháp điều trị?
-Làm thế nào để tôi biết nếu điều trị có hiệu quả?
Ngoài những câu hỏi mà bạn đã chuẩn bị để yêu cầu bác sĩ, đừng ngần ngại đặt thêm các câu hỏi bạn nghĩ ra trong cuộc hẹn.
Định bệnh
Các thử nghiệm được sử dụng để xác định xem bạn có bị nhiễm trùng H. pylori không gồm có:
-Thử nghiệm máu. Phân tích các mẫu máu có thể cho thấy bằng chứng của nhiễm trùng H. pylori đang hoạt động hoặc đã bị trước đó trong cơ thể. Tuy nhiên, thử nghiệm hơi thở và phân tốt hơn trong việc phát hiện nhiễm H. pylori hơn là xét nghiệm máu.
-Thử nghiệm hơi thở. Bạn được cho nuốt một viên thuốc, chất lỏng hoặc bánh có chứa các phân tử carbon đã được đánh dầu. Nếu bạn bị nhiễm trùng H. pylori, carbon được thải ra khi chất thuốc tan trong dạ dày của bạn. Cơ thể khi đó hấp thụ carbon và thải nó khi bạn thở ra. Lúc đó, bạn thở vào một túi, và bác sĩ sẽ sử dụng một thiết bị đặc biệt để phát hiện các phân tử carbon. Một vài loại thuốc có thể gây trở ngại cho tính chính xác của thử nghiệm này. Bác sĩ sẽ yêu cầu bạn ngừng uống các loại thuốc này một hoặc hai tuần trước khi bạn được thử nghiệm. Thử nghiệm này có sẵn cho cả người lớn và trẻ em.
-Thử nghiệm phân, tìm một loại protein lạ liên kết với H. pylori trong phân của bạn.
-Soi bao tử để tìm vết thương và làm sinh thiết. Các mẫu lấy từ bao tử được phân tích tìm nhiễm H. pylori. Thử nghiệm này ít được làm chỉ để chẩn đoán nhiễm H. pylori vì nó xâm lấn cơ thể nhiều hơn thử nghiệm hơi thở hoặc phân. Nó có thể được sử dụng chẩn đoán loét vì H. pylori hoặc khi cần thiết để loại trừ các bệnh tiêu hóa khác.
Điều trị
Nhiễm H. pylori thường được điều trị với hai loại thuốc trụ sinh cùng một lúc, giúp ngăn chặn vi trùng phát triển miễn nhiễm với một loại trụ kháng sinh nào đó. Bác sĩ cũng sẽ kê toa một loại thuốc chống acid giúp chữ lành niêm mạc dạ dày.
Những thuốc ngăn chặn acid gồm có:
-Thuốc ức chế bơm proton (PPI). Những loại thuốc ngăn chặn axit từ được sản xuất trong dạ dày. Một số ví dụ của PPI là omeprazole (Prilosec), esomeprazole (Nexium), lansoprazole (Prevacid) và pantoprazole (Protonix).
-Thuốc ngăn chặn Histamine (H-2). Các loại thuốc này chặn một chất gọi là histamine là thuốc giúp sản xuất acid. Ví dụ như cimetidine (Tagamet) và ranitidine (Zantac).
-Subsalicylate Bismuth. Thường được biết đến như Pepto-Bismol, thuốc này hoạt động bằng cách phủ vết loét và bảo vệ từ acid dạ dày.
Bác sĩ có thể khuyên bạn thử nghiệm H. pylori một lần nữa, ít nhất bốn tuần sau khi điều trị. Nếu các thử nghiệm cho thấy việc điều trị không thành công, bạn có thể phải qua một đợt điều trị khác với một kết hợp các loại thuốc trụ sinh khác.
Tại các nước khác trên thế giới, nơi thường có nhiễm H. pylori và biến chứng, đôi khi bác sĩ sẽ thử nghiệm những người khỏe mạnh tìm H. pylori và chữa trị.
Nếu bạn lo ngại về nhiễm H. pylori hoặc nghĩ rằng bạn có thể bị nguy cơ cao của bệnh ung thư dạ dày, hãy nói chuyện với bác sĩ để có thể cùng nhau quyết định xem bạn có thể được hưởng lợi từ thử nghiệm tìm H. pylori hay không.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Monday, August 17, 2015

Khi gan nhiễm mỡ sẽ có dấu hiệu gì?

Chức năng gan bị rối loạn sẽ khiến cơ thể bạn có những dấu hiệu bất thường. Theo các chuyên gia y tế tỷ lệ bệnh nhân mắc chứng gan nhiễm mỡ có thể dẫn tới xơ gan là 20%.
 
Do đó, nếu thấy có những triệu chứng gan nhiễm mỡ dưới đây bạn cần gặp bác sĩ để xác định mức độ bệnh và có phương pháp điều trị kịp thời và có hiệu quả nhất.

Các triệu chứng gan nhiễm mỡ
 
Ăn không ngon miệng
 
Đây được coi là dấu hiệu phổ biến của những người mắc gan nhiễm mỡ. Do gan bị rối loạn lượng mỡ làm giảm chức năng chuyển hóa các chất dinh dưỡng trong cơ thể làm bạn bị biếng ăn, ăn không ngon miệng.
Tuy nhiên, tình trạng này có thể do nhiều nguyên nhân gây ra nhưng nếu nó kéo dài mà bạn không thể tìm ra một nguyên nhân nào như: tác dụng của thuốc, lao động mệt mỏi, thiếu ngủ gây nên thì nên đi kiểm tra lượng mỡ trong gan ngay.
 
Mệt mỏi
 
Khi chức năng gan bị suy giảm sẽ dẫn tới tình trạng mệt mỏi do các tế bào không có đủ dinh dưỡng trong khi lượng dinh dưỡng lại bị trì trệ ứ đọng lại ở gan khiến nó bị quá tải.
 
Gan quá tải sẽ ảnh hưởng lớn đến mệt mỏi, uể oải, yếu ớt thậm chí là da bị tái nhợt, xanh xao.
 
Dấu hiệu của gan nhiễm mỡ
 
Đầy bụng, buồn nôn
 
Bên cạnh những triệu chứng mệt mỏi, chán ăn người bị gan nhiễm mỡ còn gặp phải vấn đề về tiêu hóa.
Đầy bụng, buồn nôn kéo theo nước tiểu sậm màu, phân có màu bạc hoặc xám do các chất dinh dưỡng không được gan sàng lọc và đi qua hệ bài tiết ra ngoài.
 
Khi có hiện tượng này bạn cần đi gặp bác sĩ ngay nhé! Vì đây là biểu hiện của tình trạng gan nhiễm mỡ ở thể nhẹ.
 
Rối loạn nội tiết
Khi gan bị nhiễm mỡ nặng người bệnh sẽ gặp rắc rối về vấn đề nội tiết tố.
 
Ở nam giới thường gặp hiện tượng tinh hoàn teo, vú phát triển, chức năng cương dương bị rối loạn khiến đời sống tình dục gặp khó khăn.
 
Vàng da
 
Biểu hiện vô cùng đặc trưng khi bạn mắc các chứng bệnh về gan trong đó phải kể đến gan nhiễm mỡ. Khi gan nhiễm mỡ sẽ khiến sắc tố vàng cam bilirubin trong máu tăng cao.
 
Trong khi gan bị rối loạn chức năng và có nó không thể ức chế được lượng bilirubin, gây nên tình trạng vàng da.
 
Khi có dấu hiệu vàng da kèm theo các triệu chứng như trên thì hẳn là lượng mỡ trong gan của bạn đang bị quá tải.
 
Xuất hiện u mạch hình nhện
 
Lượng mỡ quá dư thừa khiến gan bị nhiễm độc và gây xuất hiện các nốt mạch hình nhện trên da ở các vị trí như: mặt, cổ, lưng, cánh tay và ngực.
 
Khi dùng đầu ngón tay ấn vào những nốt đỏ này các mạch máu hình mạch nhện sẽ mờ đi nhưng khi buông tay ra nó sẽ xuất hiện trở lại.
 
Ngoài ra, một số trường hợp còn gặp phải chứng xuất huyết trên da, bầm tím, chảy máu cam, nướu chảy máu.

Ai dễ bị bệnh gan nhiễm mỡ?
 
Những người dễ mắc gan nhiễm mỡ thường gặp là:
Người thừa cân, béo phì
Người nghiện rượu bia
Người cao tuổi
Người thích ăn đồ tanh, hải sản và nhiều chất đạm
Người ít vận động
Người dinh dưỡng kém
Người mắc bệnh viêm gan hay có tiền sử bệnh về gan
 
Khi gan bị nhiễm mỡ sẽ làm hạn chế quá trình tiêu hóa, khiến cơ thể mệt mỏi. Tùy vào mức độ bệnh mà tác hại của chúng gây ra cho bạn là khác nhau.
 
Nhưng dù là ở mức độ nhẹ hay nặng thì gan nhiễm mỡ cũng là chứng bệnh đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe của bạn cần phải điều trị sớm.
 
Chăm sóc bệnh nhân gan nhiễm mỡ
 
Chế độ ăn uống
 
Đối với bệnh nhân gan nhiễm mỡ cấp độ 1, nên chú ý thực đơn hàng ngày của mình để hạn chế tình trạng bệnh tiến triển nặng hơn.
 
Hạn chế tối đa ăn mỡ động vật, lục phủ ngũ tạng động vật, trứng vịt lộn... nên sử dụng dầu thực vật thay cho mỡ động vật.
 
Ăn trứng bỏ lòng đỏ (có thể ăn nhưng nên hạn chế).
 
Tránh các loại thực phẩm, đồ uống chứa đường tinh chế, các loại bột ngũ cốc tinh chế, thay vào đó nên sử dụng các loại ngũ cốc giàu chất xơ, các loại đậu, rau quả các loại.
 
Tránh đồ ăn, thức uống không tốt cho gan: đồ uống có phẩm màu, bia rượu.
 
Ngoài chế độ ăn uống phù hợp, bệnh nhân nên:
 
Tập thể dục đều đặn, vừa sức tối thiểu 30 phút mỗi ngày, tập ít nhất 5 ngày trong tuần.
 
Có thể sử dụng 1 số thuốc hỗ trợ chức năng gan, giúp chức năng của các tế bào gan được cải thiện đáng kể theo chỉ dẫn của bác sĩ.
 
Điều không thể thiếu là bệnh nhân cần tránh hoặc hạn chế tối đa các loại thuốc không tốt cho gan: thuốc Paracetamol thuộc dòng giảm đau, thuốc chống viêm corticoid.
 
Đối với phụ nữ đang trong thai kỳ, nếu gan nhiễm mỡ mức độ nhẹ chưa có biến chứng thì việc mang thai không bị ảnh hưởng.
 
Việc quan trọng là thai phụ cần chú ý chăm sóc sức khỏe và thực hiện đúng chỉ định của bác sĩ, không lạm dụng thuốc.

Thursday, August 13, 2015

Chứng đau gót chân

Không ít người đã từng bị chứng đau gót chân hành hạ. Một buổi sáng đẹp trời, bạn vừa thức giấc và đặt chân xuống sàn nhà thì bị đau thốn ở gót chân, đôi khi có thể đau đến không đi được, và mỗi lần bàn chân chạm đất là mỗi lần bị đau. Vậy là bạn đã bị chứng đau gót chân mà nguyên nhân thông thường nhất là viêm dây gân ở lòng bàn chân (plantar fascia). Dây gân này chạy dọc lòng bàn chân của bạn, nối xương gót chân với các ngón chân.
Sưng dây gân lòng bàn chân (plantar fasciitis) sẽ làm gót chân bạn đau như bị dao đâm, thường xảy ra với những bước chân đầu tiên vào buổi sáng. Khi thả lỏng bàn chân, bạn thấy bớt đau, nhưng cái đau có thể trở lại khi bạn đứng lâu hoặc đứng lên sau khi ngồi lâu.
Chứng này rất thường thấy nơi những người chạy bộ (runners). Ngoài ra, những người cân nặng quá khổ, phụ nữ đang mang thai và những người hay mang giày không chắc chắn cũng dễ bị chứng đau này.

Cách tập làm giãn dây gân plantar fascia: Đặt chân đau lên chân khỏe, nắm các ngón chân kéo ngược lên cho đến khi thấy căng vòm bàn chân, giữ lại độ 10 giây rồi thả lỏng. Làm 10 lần mỗi ngày.

Triệu chứng

Trong hầu hết các trường hợp, bệnh nhân có những triệu chứng sau:
- Đau ngày càng tăng.
- Chỉ đau một chân, mặc dù bệnh có thể xảy ra ở cả hai chân cùng một lúc
- Đau xẩy ra với các bước đầu tiên sau khi thức dậy, mặc dù cũng có thể xẩy ra khi đứng lâu hoặc đứng lên từ tư thế ngồi.
- Gót chân đau như bị đâm.
Nguyên nhân
Thông thường, dây gân lòng bàn chân hoạt động như một dây cung hấp thụ chấn động, hỗ trợ vòm cong của bàn chân. Nếu dây cung này bị căng quá độ, nó có thể bị các vết xước nhỏ. Nếu cứ bị căng và xước nhiều lần như vậy, dây gân sẽ bị viêm, sưng.
Ai dễ bị sưng dây gân?
Những yếu tố có thể làm tăng nguy cơ bị sưng dây gân bao gồm:
- Tuổi: Người trong độ tuổi từ 40 và 60 dễ bị nhất
- Phái tính: Phụ nữ bị nhiều hơn
- Cách tập thể dục: Những hoạt động đặt nhiều sức căng trên gót chân và những mô kèm theo- chẳng hạn như chạy đường dài, múa ballet và nhảy aerobics - có thể góp phần gây ra sưng dây gân.
- Cấu tạo bàn chân có “vấn đề”: Bàn chân phẳng (flat foot), vòm chân quá cong hoặc tướng đi bất thường có thể ảnh hưởng đến cách trọng lượng phân phối khi bạn đứng và tạo thêm căng thẳng trên dây gân.
- Béo phì: Trọng lượng thân thể quá nặng tạo thêm sức đè và căng thẳng trên dây gân bạn.
- Nghề nghiệp: Công nhân nhà máy, giáo viên và những người phải đi bộ hoặc đứng trên các bề mặt cứng trong thời gian dài khi làm việc có thể gây thương tích cho dây gân của họ.
- Mang giày thiết kế không đúng cách: Nên tránh giày lỏng lẻo, có đế mỏng, cũng như những đôi giày không có phần hỗ trợ cho vòm cong của bàn chân hoặc không có phần lót đầy đủ để hấp thụ chấn động. Nếu bạn thường xuyên mang giày cao gót, dây gân gót chân (Achilles tendon) của bạn có thể co rút và bị ngắn lại, làm những mô xung quanh gót chân bị căng và dễ tổn thương.

Biến chứng
Bỏ qua không chữa bệnh sưng dây gân lòng bàn chân có thể đưa đến đau gót chân kinh niên gây cản trở cho những hoạt động thường xuyên của bạn. Bạn cũng có thể bị đau chân, đầu gối, hông hoặc lưng vì sưng dây gân khiến bạn thay đổi cách đi của mình. Nên hỏi ý kiến ​​bác sĩ gia đình và bác sĩ có thể giới thiệu bạn đến một bác sĩ chuyên khoa bàn chân hay y khoa thể thao.
Phương pháp điều trị và thuốc
Khoảng 90% những người bị sưng dây gân bàn chân hết bệnh với các phương pháp điều trị thông thường trong một vài tháng.
1. Thuốc
Các loại thuốc để giảm bớt các triệu chứng:
- Thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs): Ibuprofen (Advil, Motrin, những hiệu khác) và naproxen (Aleve), có thể làm giảm đau và viêm, mặc dù không điều trị tận gốc.
- Corticosteroid: Bác sĩ có thể dùng phương pháp Iontophoresis: dán thuốc trên chỗ đau và cho một dòng điện không đau chạy qua để giúp hấp thụ thuốc. Hoặc bác sĩ có thể chích thẳng thuốc vào chỗ đau. Không nên chích nhiều lần vì có thể làm suy yếu dây gân hoặc dây gân bị vỡ, hay phần chất béo bao quanh xương gót chân bị nhỏ lại.
2. Phương pháp điều trị
Stretching, các bài tập làm tăng sức mạnh hoặc dùng những dụng cụ đặc biệt có thể làm giảm bớt triệu chứng.
- Thể lý trị liệu: Các bài tập căng dây gân lòng bàn chân, dây gân Achilles và làm mạnh các cơ cẳng chân khiến ổn định mắt cá và gót chân của bạn. Dùng băng dán đúng cách cũng có thể giúp hỗ trợ lòng bàn chân.
- Đeo nẹp ban đêm: Bác sĩ có thể khuyên bạn đeo một thanh nẹp trải dài bắp chân và vòm cong bàn chân trong khi ngủ. Nẹp giữ dây gân lòng bàn chân và gân Achilles thẳng trong một thời gian dài, giúp căng những dây gân này.
- Dụng cụ chỉnh hình: Bác sĩ có thể kê toa cho mua dụng cụ hỗ trợ vòm bàn chân để giúp phân phối áp lực trên chân đồng đều hơn.
Nếu tất cả các phương pháp thông thường trên không có kết quả, có thể phải giải phẫu để chữa bệnh, nhưng điều này ít khi xảy ra.
Những phương pháp khác
- Châm cứu được cho là có thể giúp chữa bệnh sưng dây gân lòng bàn chân rất hữu hiệu.
- Những dụng cụ hỗ trợ vòm bàn chân có chứa nam châm được quảng cáo là hữu hiệu nhưng không có chứng cớ gì cho thấy điều này đúng.
Tự giúp
Nên theo những cách sau để làm giảm đau và khó chịu ở bàn chân của bạn:
- Nghỉ không đi lại một vài khi bị đau nhiều
- Chườm đá: Chườm túi đá lên vùng đau trong 15 đến 20 phút, ba hoặc bốn lần một ngày hoặc sau khi hoạt động. Hoặc thử xoa bóp bằng nước đá. Lăn một ly giấy chứa đầy nước đá trên chỗ đau trong khoảng 5-7 phút. Thường xuyên xoa bóp bằng nước đá có thể giúp giảm đau và viêm.
- Bớt đi bộ hay chạy cho đến khi khỏi đau
- Tập thể dục bằng những môn có tác động thấp (low impact): Thay vì đi bộ hoặc chạy bộ thì nên đổi qua đi xe đạp hay bơi lội. Bạn sẽ có thể trở lại hoạt động trước kia nếu giảm bớt đau gót chân. Tuy nhiên, một số người thấy rằng cách duy nhất để tránh đau trở lại là ngưng tập những môn có tác động cao (high impact), chẳng hạn như chạy bộ và nhảy.
- Đeo thêm dụng cụ hỗ trợ vòm bàn chân trong đôi giày của bạn.
- Tập những động tác làm giãn vòm bàn chân.
Phòng ngừa
Bạn có thể theo những cách sau đây để ngừa bệnh đau gót chân:
- Giữ cân nặng vừa phải khiến giảm thiểu sự căng thẳng trên dây gân.
- Chọn giày tốt: Tránh đi giày cao gót. Mua giày thấp hoặc cao trung bình, có phần hỗ trợ vòm lòng bàn chân tốt và hút chấn động. Đừng đi chân đất, đặc biệt là trên các bề mặt cứng.
- Đừng mang giày thể thao đã mòn. Nên mua giày mới sau khi đã sử dụng khoảng 500 dặm.


Viendongdaily.com và tác giả giữ bản quyền bài  trên trang này. Xin đừng trích đăng dưới bất cứ hình thức nào.


BS. Nguyễn Thị Nhuận/Viễn Đông

Bệnh giảm tiểu cầu

Một ngày đẹp trời nào đó, bạn bỗng thấy chân tay mình nổi lên những chấm đỏ li ti lẩn trong da. Những chấm đỏ này xuất hiện ngày càng nhiều tuy bạn chưa cảm thấy triệu chứng gì cả. Như vậy là rất có thể bạn đã bị bệnh giảm tiểu cầu, và những chấm đỏ li ti kia là những điểm chảy máu nhỏ trên cơ thể.
Ta bị bệnh giảm tiểu cầu khi số lượng tiểu cầu trong máu xuống thấp tới một mức nào đó, gây ra nhiều triệu chứng mà dễ thấy nhất là chảy máu li ti dưới da. Tiểu cầu (thrombocytes) là những tế bào máu không màu, đóng một vai trò quan trọng trong việc làm đông máu. Tiểu cầu làm ngừng chảy máu bằng cách đóng cục lại và cắm vào chỗ hở (khiến gây ra chảy máu) của mạch máu.
Triệu chứng
Bao gồm:
- Dễ bị bầm tím hay bị quá nhiều
- Chảy máu cạn dưới da thành những vết đỏ bầm li ti, thường là nơi chân dưới (bắp chuối)
- Chảy máu kéo dài khi bị đứt da
- Chảy máu nướu răng hoặc chảy máu mũi
- Nước tiểu hoặc phân có máu
- Kinh nguyệt ra nhiều máu bất thường
- Chảy máu rất nhiều khi giải phẫu hay sau khi làm răng
Khi nào nên đi khám bệnh?
Gọi bác sĩ nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào làm bạn lo lắng.
Chảy máu không ngừng là một trường hợp khẩn cấp. Cần tìm sự giúp đỡ ngay lập tức nếu bạn chảy máu mà không làm ngừng được bằng các kỹ thuật cấp cứu thông thường, chẳng hạn như đè chặt chỗ chảy máu một lúc lâu.
Nguyên nhân
Nếu vì bất kỳ lý do gì, số lượng tiểu cầu trong máu giảm xuống dưới mức bình thường thì được gọi là bệnh giảm tiểu cầu. Thông thường, chúng ta có từ 150.000 đến 450.000 tiểu cầu trong mỗi ml máu. Vì tiểu cầu chỉ sống khoảng 10 ngày, cơ thể chúng ta liên tục cung cấp tiểu cầu mới bằng cách sản xuất tiểu cầu trong tủy xương. Giảm tiểu cầu có nhiều nguyên nhân:
1. Tiểu cầu bị kẹt trong lá lách
Lá lách là một bộ phận lớn cỡ bàn tay, nằm ngay dưới khung xương sườn phía bên trái của bụng. Thông thường, lá lách hoạt động để chống nhiễm trùng và lọc các vật liệu không tốt từ máu. Lá lách bị lớn vì một nguyên nhân nào đó, có thể giữ lại quá nhiều tiểu cầu, khiến số lượng tiểu cầu lưu thông bị giảm đi.
2. Giảm sản xuất tiểu cầu
Tiểu cầu được sản xuất trong tủy xương. Một số bệnh như ung thư máu và thiếu máu có thể đưa đến số lượng tiểu cầu sản xuất bị giảm đi. Nhiễm siêu vi kể cả HIV, có thể làm giảm khả năng chế tạo tiểu cầu của tủy xương. Hóa chất, thuốc hóa trị và uống nhiều rượu cũng có thể làm giảm sản xuất tiểu cầu.
3. Tiểu cầu bị phân hủy quá nhiều
Một số bệnh có thể làm cơ thể sử dụng hoặc phá hủy tiểu cầu nhanh hơn là được sản xuất, khiến đưa đến tình trạng thiếu tiểu cầu trong máu. Ví dụ như:
- Mang thai. Việc mang thai có thể gây ra giảm tiểu cầu nhẹ.
- Bệnh giảm tiểu cầu tự phát (ITP): Trong bệnh này, hệ thống miễn nhiễm coi tiểu cầu như một mối đe dọa và làm ra kháng thể tấn công và phá hủy chúng.
- Bệnh tự miễn nhiễm: Hệ thống miễn nhiễm của cơ thể tấn công các mô khỏe mạnh, gây ra giảm tiểu cầu. Ví dụ: bệnh lupus và thấp khớp.
- Nhiễm trùng máu có thể dẫn đến sự phá hủy tiểu cầu.
- Bệnh giảm tiểu cầu huyết khối (TTP): Trong bệnh hiếm thấy này, những cục máu đông nhỏ đột nhiên xuất hiện khắp cơ thể, sử dụng một số lượng lớn tiểu cầu.
- Hội chứng urê huyết: Bệnh hiếm gặp này gây ra giảm tiểu cầu, phá hủy các hồng huyết cầu và suy thận, đôi khi gây ra bởi vi trùng E. coli có trong thịt sống hoặc nấu chưa chín.
- Thuốc: Một số thuốc có thể làm giảm số lượng tiểu cầu trong máu vì tác dụng lên hệ miễn nhiễm khiến tiểu cầu bị phá hủy. Ví dụ: heparin, quinidine, quinine, sulfa, interferon, thuốc chống co giật và muối vàng.
Biến chứng
Khi số lượng tiểu cầu giảm xuống dưới 10.000/ml, bệnh nhân có thể bị chảy máu nhiều, gây nguy hiểm. Giảm tiểu cầu nặng cũng có thể gây chảy máu trong óc hoặc ở ruột, có thể gây chết người.
Phương pháp điều trị và thuốc
1. Giảm tiểu cầu nhẹ: Nhiều trường hợp giảm tiểu cầu nhẹ có thể không cần điều trị, bệnh sẽ tự hết. Ví dụ, giảm tiểu cầu nhẹ ở phụ nữ mang thai thường hết sau khi sinh.
2. Giảm tiểu cầu nặng hơn
- Điều trị nguyên nhân: Nếu bác sĩ có thể xác định nguyên nhân gây ra giảm tiểu cầu và chữa trị, triệu chứng sẽ hết.
- Truyền máu: Nếu mức độ tiểu cầu quá thấp, bác sĩ có thể cho truyền hồng huyết cầu hoặc tiểu cầu.
- Bệnh ITP có thể được chữa bằng các loại thuốc ngăn chặn kháng thể tấn công tiểu cầu như corticosteroid. Nếu corticosteroids không chữa được, bác sĩ có thể giải phẫu cắt bỏ lá lách hoặc dùng thuốc mạnh hơn để ngăn chặn hệ thống miễn dịch của bạn.
Tự giúp
Nếu bị bệnh giảm tiểu cầu, nên:
- Tránh các hoạt động có thể gây ra thương tích như các môn thể thao quyền Anh và bóng đá, hay cưỡi ngựa và trượt tuyết.
- Uống rượu ở mức độ vừa phải hay ngưng uống vì rượu làm chậm quá trình sản xuất tiểu cầu.
- Thận trọng khi dùng các loại thuốc over-the-counter. Thuốc giảm đau mua tự do có thể ảnh hưởng đến tiểu cầu của bạn: aspirin và ibuprofen (Advil, Motrin, các hiệu khác).


Viendongdaily.com và tác giả giữ bản quyền bài trên trang này. Xin đừng trích đăng dưới bất cứ hình thức nào.

BS. Nguyễn Thị Nhuận/Viễn Đông