Tuesday, June 30, 2015

Sạn thận


Sạn thận là những cục khoáng chất cứng nhỏ đọng trong thận bạn. Những viên sạn này thường chứa muối khoáng và acid.
Sạn thận có nhiều nguyên nhân và có thể ảnh hưởng đến bất kỳ phần nào của đường tiết niệu - từ thận đến bàng quang. Thông thường, sạn được tạo nên khi nước tiểu cô đặc khiến các khoáng chất kết tinh và dính vào nhau.
Một viên sạn di chuyển trong đường tiết niệu có thể làm nạn nhân bị đau nhiều nhưng thường không gây tổn hại vĩnh viễn. Tùy thuộc vào tình trạng, bạn có thể không cần gì hơn là dùng thuốc giảm đau và uống nhiều nước để viên sạn trôi ra khỏi cơ thể. Trong các trường hợp khác như khi viên sạn mắc kẹt hay tạo ra các biến chứng đường tiết niệu thì có thể cần đến giải phẫu.
Bác sĩ có thể khuyên nên phòng ngừa để giảm nguy cơ sạn thận tái phát nếu bạn có nguy cơ bị sạn.

Triệu chứng
Sạn thận có thể không gây ra triệu chứng gì cả cho đến khi nó di chuyển trong thận của bạn hoặc đi vào niệu quản tức các ống nối thận và bàng quang. Khi sạn di chuyển, bạn có thể gặp các dấu hiệu và triệu chứng như sau:
-Đau nhiều bên hông và lưng, dưới xương sườn
-Đau lan đến bụng dưới và háng
-Đau từng cơn lúc nhiều lúc ít
-Đi tiểu đau
-Nước tiểu màu hồng, đỏ hoặc màu nâu
-Nước tiểu đục hoặc có mùi hôi
-Buồn nôn và ói mửa
-Luôn mắc đi tiểu
-Đi tiểu thường xuyên hơn so với bình thường
-Sốt và ớn lạnh nếu có nhiễm trùng
-Nước tiểu ra ít mỗi lần đi tiểu
Đau do sạn thận có thể thay đổi - ví dụ, chuyển sang một vị trí khác hoặc tăng cường độ – khi viên sạn di chuyển qua đường tiết niệu.

Khi nào nên gặp bác sĩ
Lấy hẹn với bác sĩ của bạn nếu bạn có bất cứ dấu hiệu và triệu chứng làm bạn lo lắng.
Tìm chăm sóc y tế ngay lập tức nếu bạn:
-Đau nhiều đến nỗi bạn không thể ngồi yên hoặc tìm một vị trí thoải mái
-Đau kèm theo buồn nôn và ói mửa
-Đau kèm theo sốt và ớn lạnh
-Máu trong nước tiểu
-Nước tiểu đi qua ống tiểu khó khăn

Sạn thận thường không có một nguyên nhân rõ ràng, mặc dù một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ bị sạn. Sạn thận được tạo nên khi trong nước tiểu có quá nhiều những chất dễ kết tinh như calcium, oxalate và uric acid mà nước tiểu không đủ loãng để hòa tan những chất này. Đồng thời, nước tiểu cũng có thể thiếu chất ngăn chặn các tinh thể này dính lại với nhau, tạo ra một môi trường lý tưởng cho các sạn thận hình thành.

Các loại sạn thận
Biết viên sạn thận thuộc loại gì sẽ giúp xác định nguyên nhân và tìm cách giảm nguy cơ bị sạn thận. Các loại sạn thận gồm có:
-Sạn calcium. Hầu hết sạn thận đều là sạn calcium, thường ở dạng calcium oxalate. Oxalate là một chất tự nhiên có trong thực phẩm. Một số loại trái cây và rau quả, cũng như các loại hạt và chocolate, có nồng độ oxalate cao. Gan cũng sản xuất oxalate. Các yếu tố như cách ăn uống, liều cao vitamin D, giải phẫu đường ruột và một số rối loạn trao đổi chất có thể làm tăng nồng độ calcium hoặc oxalate trong nước tiểu. Sạn calcium cũng có thể xảy ra ở dạng calcium phosphate.
-Sạn struvite. Sạn struvite tạo nên như một đáp ứng với nhiễm trùng, thí dụ như nhiễm trùng đường tiểu. Sạn này có thể phát triển nhanh chóng và trở nên khá lớn mà không có triệu chứng hoặc chỉ có vài dấu hiệu nhỏ.
-Sạn uric acid. Sạn này có thể hình thành ở những người không uống đủ nước hoặc những người bị mất quá nhiều nước, những người ăn quá nhiều protein, và những người có bệnh gout. Một số yếu tố di truyền cũng có thể làm tăng nguy cơ bị sạn uric acid.
-Sạn cystine. Sạn này thành hình ở những người có một loại bệnh di truyền khiến thận bài tiết quá nhiều một loại amino acid (cystinuria).
-Các loại sạn khác hiếm hơn cũng có thể xảy ra.

Yếu tố nguy cơ
Những yếu tố làm tăng nguy cơ phát triển sạn thận gồm có:
-Bệnh sử gia đình hoặc cá nhân. Nếu một người nào đó trong gia đình bạn có sạn thận, có nhiều khả năng bạn cũng dễ bị sạn. Và nếu bạn đã từng có một hay nhiều sạn thận, bạn có nguy cơ bị thêm sạn thận khác.
-Mất nước. Không uống đủ nước mỗi ngày có thể làm tăng nguy cơ bị sạn thận. Những người sống ở vùng khí hậu nóng và những người ra nhiều mồ hôi có thể có nguy cơ cao hơn những người khác.
-Một số chế độ ăn kiêng. Ăn nhiều protein, muối sodium và đường có thể làm tăng nguy cơ mắc một số loại sạn thận. Điều này đặc biệt đúng khi ăn quá nhiều sodium. Quá nhiều sodium làm tăng lượng calcium thận phải lọc và làm tăng đáng kể nguy cơ sạn thận.
-Bị béo phì. Chỉ số BMI, kích thước vòng eo lớn và tăng cân có liên quan đến tăng nguy cơ sạn thận.
-Bệnh tiêu hóa và giải phẫu. Giải phẫu dạ dày, bệnh viêm ruột hoặc tiêu chảy mãn tính có thể gây ra những thay đổi trong sự tiêu hóa, ảnh hưởng đến sự hấp thụ của calcium và nước, tăng lượng các chất gây sạn thận trong nước tiểu của bạn.
-Tình trạng y tế khác. Những bệnh và tình trạng y tế có thể làm tăng nguy cơ sỏi thận bao gồm nhiễm toan ống thận, cystinuria, cường tuyến cận giáp, một số thuốc và bệnh nhiễm trùng đường tiết niệu.
Sạn thận nhỏ và không làm nghẹt đường tiểu hoặc gây ra các vấn đề khác có thể được điều trị bởi bác sĩ gia đình. Nhưng nếu bạn bị cục sạn lớn và bị đau hoặc các vấn đề thận, bác sĩ có thể giới thiệu bạn đến một bác sĩ điều trị các vấn đề ở đường tiết niệu (bác sĩ tiết niệu urologist hoặc bác sĩ thận nephrologist).

Định bệnh
Nếu bác sĩ nghi ngờ bạn bị sạn thận, bạn có thể cần phải làm các xét nghiệm chẩn đoán như:
-Thử máu, đo mức calcium hoặc uric acid trong máu. Kết quả thử máu giúp theo dõi sức khỏe của thận và có thể giúp bác sĩ kiểm tra các tình trạng y tế khác.
-Thử nước tiểu. Cần thu thập nước tiểu trong 24 giờ để xem có bài tiết quá nhiều chất khoáng gây sạn hoặc quá ít chất ngăn chặn gây sạn.
-Chụp quang tuyến X, CT scan có thể cho thấy sạn thận ở đường tiết niệu.
-Phân tích của các loại sạn trôi ra ngoài. Bạn có thể được yêu cầu tiểu qua một cái rây để tìm sạn.

Chữa trị
Chữa trị tùy thuộc vào loại sạn và các nguyên nhân.

-Sạn nhỏ với ít triệu chứng
Hầu hết sạn thận không cần điều trị quá mạnh. Bạn có thể làm trôi sạn ra ngoài bằng cách:
Uống nước nhiều cỡ 2-3 lít mỗi ngày có thể giúp lọc hệ thống tiết niệu.
Thuốc giảm đau. Sạn thận di chuyển có thể gây ra khó chịu. Bác sĩ có thể khuyên nên dùng thuốc giảm đau như ibuprofen (Advil, Motrin IB), acetaminophen (Tylenol) hoặc naproxen sodium (Aleve).
Điều trị nội khoa. Bác sĩ có thể cung cấp cho bạn một loại thuốc để giúp loại sạn thận. Đây là loại thuốc ngăn alpha làm thư giãn bắp thịt trong niệu quản, giúp loại bỏ sạn thận một cách nhanh chóng và ít đau hơn.
-Sạn lớn gây ra các triệu chứng
Có thể dùng sóng siêu âm để bắn vỡ sạn thận và loại bỏ chúng hoặc giải phẫu

Phòng ngừa
Phòng ngừa sạn thận gồm thay đổi lối sống và dùng thuốc.

-Thay đổi lối sống:
Uống nước nhiều. Người có tiền sử sạn thận nên tiểu khoảng 2,6 lít/ ngày. Bác sĩ có thể yêu cầu bạn đo lượng nước tiểu để chắc chắn rằng bạn uống đủ nước.
Ăn ít những thực phẩm chứa nhiều oxalate như đại hoàng, củ cải, đậu bắp, rau bina, củ cải Thụy Sĩ, khoai lang, các loại hạt, trà, sô cô la và các sản phẩm đậu nành.
Ăn ít muối và protein động vật. Giảm lượng muối ăn và chọn nguồn protein thực vật như các loại đậu.
Tiếp tục ăn các loại thực phẩm giàu calcium nhưng hãy cẩn thận với thuốc calcium uống thêm vì có thể tăng nguy cơ sạn thận. Calcium trong thức ăn không ảnh hưởng đến nguy cơ sạn thận. Hãy hỏi bác sĩ để được giới thiệu đến một chuyên gia dinh dưỡng có thể giúp bạn lên một kế hoạch ăn uống làm giảm nguy cơ sỏi thận.

-Thuốc có thể kiểm soát lượng khoáng chất và acid trong nước tiểu. Các loại thuốc này phụ thuộc vào loại sạn thận mà bạn có.

Hội chứng Crouzon

Hội chứng Crouzon là một bệnh của sọ và mặt, do bác sĩ người Pháp Crouzon khám phá ra năm 1912 trong trường hợp hai mẹ con đều mắc bệnh. Thời đó gọi là rối loạn xưong sọ và mặt di truyền (hereditary craniofacial dystrophy). Các bộ phận gọi là "branchial arch" (branchial= mang cá; arch=cung) giống như mang của con cá, hiện diện lúc thai chừng 4 tuần. Hai branchial arches đầu (first and second branchial arches) quyết định hình dạng của hàm mặt em bé. Trong trường hợp hội chứng Crouzon, sự phát triển của 2 cung này bị rối loạn. Một triệu em ra đời có 16 em bị bệnh Crouzon. Tỷ số xảy ra (incidence) là 1,6/100,000 người.

Hiện nay chúng ta biết đây là một bệnh do gen trên nhiễm sắc thể (chromosome) số 10 bất bình thường, mang những đột biến trên gen FGFR2 (gen phụ trách một protein tên fibroblast growth factor receptor 2) hay FGFR3, thuộc loại autosomal dominant (trội, chỉ cần có một gen từ cha hay mẹ là gây bệnh); đột biến gen làm cho các tế bào xương non (immature bone cells) trưởng thành quá sớm và do đó khớp cứng lại quá sớm.

Những triệu chứng:

1.    Xương sọ: bình thường hộp sọ chứa đựng não bộ. Trong những năm đầu tiên, sọ của em bé gồm nhiều mảnh xương rời nhau, do đó chúng ta có thể sờ thấy thóp (fontanelle) trước và sau mềm và phập phồng trên đầu em bé sơ sinh.. Sau khi bộ óc đã phát triển về kích thước gần như là hoàn toàn, tuần tự các thóp này đóng lại và các khớp nối giữa các xương (sutures) mới cứng lại, không xê dịch nữa. Xương chỉ tăng trưởng được theo chiều song song với đường nối, có nghĩa là dài ra, mà không rộng ra được. Nếu các đường khớp nối này hàn kín, cứng lại sớm quá (craniosynostosis), tuỳ theo liên hệ đến suture nào, hộp xương sọ của em bé sẽ bị méo mó theo chiều hướng khác nhau: hoặc quá ngắn từ trước ra sau (brachycephaly), hoặc quá dài (hình thuyền, scaphocephaly), hoặc cao nghệu như một cái tháp, hoặc hình tam giác nếu nhìn từ trên xuống, phía trước hẹp (trigonocephaly). Trẻ bị Crouzon thường có dạng đầu tiêu biểu là trán chuồi ra sau (steep forehead), sọ ngắn từ trước ra sau, (brachycephaly), sọ dẹp phía sau (flattened occiput).

Não bộ bị gò ép trong cái hộp quá chật, áp suất trong sọ sẽ tăng quá cao (intracranial hypertension), não bộ không tăng trưởng đủ, quá nhỏ (microcephaly) và không hoạt động bình thường, gây ra phát triển chậm, trì trệ hay đần độn; áp suất cao có thể đẩy não bộ về phía dưới tuỷ sống (brain herniation) làm bé tê liệt hoặc đe doạ các trung tâm điều khiển các nhu cầu căn bản của sự sống như tim đập, thở, nuốt. Chiari malformation= một phần tiểu não và cuống não thay vì nằm trong hộp sọ, bị đẩy xuống về phía tuỷ sống. Trong trường hợp này, các giải phẫu đầu tiên năm 2011 ở BV Nhi đồng Sài Gòn là có mục đích như vậy, mở rộng các khớp nối xương sọ bị kết dính chặt và mở rộng vùng sọ nối với xương sống (decompression of Chiari malformation).

2.    Xương vùng giữa mặt:Thêm vào brachycephaly, xương trán (frontal bone), xương sàng [ethmoid], xương bướm [sphenoid] và xương hàm trên (maxillary bone) không lớn bình thường, hay quá nhỏ (hypoplasia) làm cho hai hốc mắt (eye socket) quá nhỏ, quá nông không đủ chỗ cho hai tròng mắt và các bộ phận phụ thuộc, làm cho mắt lồi ra (exophthalmos) và hai con ngươi quá xa nhau (hypertelorism). Trẻ thường bị lé (strabismus), hai mắt thị lực không đều, một số bị mất thị giác vì amblyopia (não bộ chỉ tiếp nhận, dùng tín hiệu từ một mắt nên mắt kia dần dần mất khả năng thấy), hay teo thần kinh thị giác (optic nerve atrophy). Tôi đoán là các can thiệp sớm đã giúp cho bé tránh các biến chứng này.

Những rối loạn trong sự phát triển các xương hàm trên và dưới cũng có thể gây khó khăn về hô hấp, gây những cơn ngưng thở (apnea) và có vẻ như các giải phẫu trên vòm họng và cắt amiđan đã giải quyết vấn đề này.

Những phẫu thuật ở Úc để xây dựng lại hốc mắt của em và che chở mắt có lẽ nằm trong mục tiêu cải thiện vùng mắt và vùng giữa của mặt. Hy vọng qua năm 2020, người ta sẽ tiếp tục đưa phần giữa của mặt em ra trước (midface advancement), cải thiện vùng mắt cũng như vùng mũi và tình trạng hô hấp của em.

Về thuốc nhỏ mắt, Systane Ultra là một loại nước mắt nhân tạo giữ phần mắt lộ ra ngoài đừng khô. Corneregel chứa dexpanthenol, sẽ biến thành pantothenic acid (một loại vitamin B) giúp cho mắt mau lành. Về định bệnh thoái hoá hắc võng mạc, hiếm gặp ở bệnh Crouzon, và đây là lãnh vực rất chuyên môn của bác sĩ chuyên mắt trẻ em, (pediatric ophthalmologist) xin theo hướng dẫn của bác sĩ của em.

Trong trường hợp vị thính giả trình bày ở đây, thật là một trường hợp đáng phục về tình người cũng như tình phụ tử và mẫu tử. Theo tôi nghĩ, ở Mỹ một em bệnh tương tự cũng được săn sóc chu đáo đến thế. Tôi có vào youtube xem video và thật cảm động nhìn em hát múa, chứng tỏ trí óc phát triển tốt.

Rất tiếc là trong giới hạn của diễn đàn này, tôi không có ý kiến gì hơn là chúc hai vị phụ huynh tiếp tục săn sóc và nuôi dưỡng em như quý vị đang làm, và theo dõi các khuyến cáo của các chuyên gia khác nhau đang chữa trị cho em. Điểm sáng nhất trong hoàn cảnh của em là ngoài những điểm về mắt đang được theo dõi và ngoại hình có thể cải thiện thêm, em có sức khoẻ chung tốt và tâm trí lạc quan tuyệt vời, hứa hẹn một tương lai đầy hy vọng.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Chuột rút ở chân tay

Chứng co rút bắp thịt (muscle cramps) xảy ra lúc một cơ bắp, hay một phần của cơ, hay một nhóm cơ co lại, rút mạnh, ngoài ý muốn và không giãn ra được. Có thể kéo dài chừng vài giây đến 15 phút, đôi khi lâu hơn. Có thể tái đi tái lại nhiều lần. Chứng này gặp ở trẻ con cũng như người lớn, nhưng ít thấy ở trẻ em, và càng lớn tuổi càng bị nhiều hơn. Nhiều nhất là ở tay chân, tuy nhiên các nhóm cơ bắp khác ví dụ ở cỗ, bụng đều có thể co rút đau. Chân cẳng co rút ban đêm (nocturnal leg cramps) xảy đến cho chừng 50% người trên 50 tuổi, và trong đó một trong mười người đau mỗi đêm. Đại đa số chỉ đau ban đêm. Đau ở ngón chân, bắp chuối, hoặc bắp đùi, làm mất ngủ.

Lý do: dây thần kinh trở nên quá nhạy cảm và kích thỉch bắp thịt cho co lại dù người bệnh không cố ý.

Nguyên nhân co rút bắp thịt:
1) Thương tổn, chấn thương, các bắp cơ co lại để che chở vùng bị hư hại.
2) Các cơ bị mệt do làm việc quá nhiều, quá lâu, hay bị giữ trong một tư thế bất bình thường (ngồi ẹo qua một bên, nhón gót lâu để với lên, làm việc gì trên cao).
3) Co rút lúc đang nghỉ ngơi (rest cramp), ngủ, nhất là vừa làm một động tác làm cơ ngắn lại; ví dụ duỗi các ngón chân về phía dưới, cơ bắp chuối (calf muscle=gastrocnemius muscle+soleus muscle) co lại và rút luôn vào, đau, không tự dãn ra.
4) Cơ thể thiếu nước do mồ hôi lúc trời nóng, thể thao, làm việc; do uống thuốc lợi tiểu (ví dụ: để trị bệnh cao huyết áp), uống nhiều trà, cà phê làm đi tiểu nhiều, bệnh đái tháo đường (diabetes); người ít uống nước vì sợ phải đi tiểu.
5) Nói chung mức sodium (natrium), calcium, magnesium trong máu thấp có thể làm cơ dễ co rút. Nguyên nhân calcium máu thấp thường gặp nhất là do thiếu vitamin D. Người có bầu, người già dễ thiếu calcium, magnesium. Người thở quá nhanh do hồi hộp, xúc động có thể làm mức calcium trong máu giảm xuống một cách giả tạo và bắp thịt co rút.
6) Những người bệnh xơ gan (liver cirhosis) gây ra ứ nước trong phúc mạc (ascites; phúc mạc = màng bụng), nước phối trí bất bình thường; ở người suy thận, tình trạng nước trong cơ thể bị thay đổi thất thường: những người này hay bị co rút bắp thịt.
7) Co rút bắp thịt có thể do một số thuốc gây ra: thuốc trị bệnh cao huyết áp (như nifedipine= "Procardia"), trị bệnh Alzheimer (Aricept), bệnh suyễn (albuterol, terbutaline), bệnh Parkinson (Tolcapone="Tasmar"), bệnh myasthenia gravis (bệnh làm yếu các cơ, thuốc prostigmin). Co rút (cramps) cũng có thể xảy ra khi ngưng (withdrawal) thuốc an thần, ngưng uống rượu.
8) Thiếu vitamin B1, B5, B6.
9) Các mạch máu bị xơ vửa, nghẹt đem máu đến không đủ, làm bắp chuối chân bị đau (claudication) lúc đi bộ được một khoảng xa nào đó, cơn đau giống như bị co rút cơ, "vọp bẻ". Tuy nhiên, đau này do lactic acid và một số hoá chất khác, không phải do bắp thịt co rút (muscle cramps), cần cảnh giác về vấn đề này và nhờ bác sĩ khám bệnh.

Chữa trị:
●    Đứng dậy, đi lui đi tới cho bắp cơ liên hệ giãn ra (ví dụ trong trường hợp co rút bắp chuối).
●    Có thể đứng, hai tay dựa vào vách, đưa hai chân ra xa, giữ gót chân dính mặt đất, mục đích duỗi, giãn bắp thịt phía sau cẳng chân (stretch calf muscle).
●    Hay nằm xuống, duỗi chân thẳng ra, kéo hai ngón cái về phía mình.
●    Co rút bàn tay: áp bàn tay xuống bàn, các ngón duỗi ra, đè trên các ngón.
●    Có thể massage, đắp nước nóng.
●    Nếu thiếu muối, thiếu nước (vd:như mổ hôi ra quá nhiều) uống nước có muối natri, kali như chanh muối,Gatorade, Pedialyte cho trẻ em..

Phòng ngừa:

1) Tập thể dục, tập duỗi, giãn các bắp cơ nhiều lần trong ngày, như đã giải thích trong phần chữa trị. Có thể làm giãn cơ vài lần lúc dậy đi tiểu ban đêm. Tránh nằm, ngồi ở thế không ngay ngắn, làm các bắp thịt không thoải mái.
2) Cần lượng calcium đầy đủ trong thực phẩm (uống sữa, ăn đẩu nành, chao.) Có thể uống thêm calcium 1-1.50 gram mỗi ngày. Một số người cần uống thêm magnesium, nhưng cần hỏi bác sĩ của mình vì người suy thận magnesium có thể ứ đọng, mức trong máu có thể lên quá cao.
3) Nhớ uống nước đầy đủ, chừng 1,5 -2 lít nước mỗi ngày, nhất là nếu làm việc trời nóng nực, ra mồ hôi nhiều.
4) Người già có thể quên uống nước cho đủ vì không thấy khát. Ở Mỹ, người ta thường khuyên uống 6-8 ly nước mỗi ngày (24 giờ) cho người trung bình chừng 70-80 kg, tuy nhiên người nhỏ con, nhẹ ký hơn phải điều chỉnh lượng nước thấp hơn, cũng như người bệnh phải uống ít nước, phải theo hướng dẫn giới hạn lượng nước của bác sĩ mình.
5) Những nghiên cứu gần đây cho thấy khá đông đàn ông ở Sài Gòn cũng như Hà Nội thiếu vitamin D trong máu. Ở đàn bà thì tỷ số thiếu vitamin D cao hơn. Nếu có phương tiện thì đo mức calcium, vitamin D trong máu xem có thấp không.
Ra nắng để giúp da tạo nên vitamin D.Trên lý thuyết, nếu ra nắng vài phút mỗi ngày lúc thời tiết tốt có thể giúp cơ thể cung cấp đủ lượng vitamin D cần thiết.
Uống vitamin D thêm, hay ăn những thức ăn giàu vitamin D (salmon, mackerel, tuna, catfish, fish liver, fish oil).
Nếu có phương tiện, người ta đo mức vitamin D trong máu (25 OH D) và cố gắng giữ trên 30 ng/ml. Ở ngoài nắng đủ lâu để da phỏng nhẹ (mild sunburn) cũng giúp cơ thể chúng ta tạo ra đơn vị mỗi chừng 20,000 đơn vị vitamin D. Chúng ta (người lớn, 19-65 t ) cần chừng 600 units/ngày (thức ăn hoặc uống thuốc bổ), >71t: 800 units/ ngày. Mức an toàn chừng < 4000 units/ ngày (The Endocrine Society, Practice Guideline, 2011). Ở Mỹ, trong sữa uống, trong một số nước cam có thể nhà sản xuất có tăng cường thêm vitamin D. Các viên thuốc 'bổ' có thể cung cấp cho cơ thể những nhu cầu căn bản về vitamin cũng như các chất khoáng.
6)
●    Có một số người dùng vitamin E (400 đơn vị/ngày), có thể giảm các cơn co rút bắp cơ.
●    Trước đây người ta thấy quinine (kí ninh) rất hiệu nghiệm cho bệnh này. Tuy nhiên vì biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra trên nhịp tim và tế bào máu, cơ quan quản trị thực phẩm và thuốc Mỹ (FDA) từng cảnh báo không dùng quinine cho bệnh này.
●    Ở Mỹ một số bệnh nhân uống "tonic water" có chứa lượng quinine nhỏ (theo FDA < 83mg/lit, vd: Canada Dry, Fever Tree, Q Tonic).
●    Trường hợp cần dùng thuốc, một số bác sĩ cho dùng thuốc Benadryl (diphenhydramine 12.5mg-50mg) trước khi đi ngủ, dùng chloroquine (thuốc trị sốt rét, có thể làm hư mắt), hay gabapentin ( thuốc tác dụng trên hệ thần kinh).

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Trị bệnh bằng nước tiểu

Trên vị trí bác sĩ hành nghề ở Mỹ, bằng hành nghề chỉ cho phép bác sĩ được thực hành y khoa theo những "chuẩn mực cộng đồng" (community standards) và trong giới hạn của các chuần mực đó mà thôi. Nếu đi ra ngoài và kết quả không tốt hoặc bệnh nhân than phiền, người hành nghề y khoa khó bảo vệ cách chữa trị của mình nếu đại đa số các chuyên gia ra làm chứng đều không đồng ý với mình.

Ở Mỹ, cũng như nhiều nước khác mà tôi được tham khảo, trị liệu bằng nước tiểu (urine therapy) không được y giới công nhận là có giá trị vì không có bằng chứng, khảo cứu chứng minh.

Cách đây hơn 20 năm, một bác sĩ chuyên khoa dị ứng và miễn nhiễm (allergy and immunology) ở California cũng gặp khó khăn vì dùng nước tiểu bệnh nhân để chữa dị ứng, mặc dù nhiều bệnh nhân "công nhận" là ông chữa kết quả tốt trong những ca gần như không trị được.

Ông bác sĩ này cho bệnh nhân nhịn uống nước trong chừng 12 giờ. Đến giờ thứ 9, bệnh nhân được tiếp cận với chất gây dị ứng (kháng nguyên, antigen, allergen), 3 giờ sau đó, lấy nước tiểu. Theo thuyết của bs này, trong nước tiểu đó có những kháng thể chống lại các kháng nguyên trên. Ông "lọc" mẫu nước tiểu và cho là mỉnh gạn được các kháng thể và chích chất gạn lọc đó vào bệnh nhân. Một loạt chích như vậy, bệnh nhân trả chừng 500 đô la Mỹ.

Nên nhớ cách giải thích của bác sĩ trên về các tác dụng kháng thể trong nước tiểu [sản xuất ra sau khi tiếp xúc với kháng nguyên] không được chứng minh bằng một nghiên cứu khoa học nào từng được công bố. Uỷ ban Y tế California (Board of Medicine) buộc tội ông "đi quá xa các chuẩn mực cộng đồng" y tế California, cơ quan DEA (kiểm soát thuốc) điều tra ông và ông bị đe dọa rút bằng hành nghề. Theo bác sĩ này, thì tiểu bang đã hành sử như vậy do "chính trị nhiều hơn là do khoa học." Hai mươi mấy năm qua, tôi không thấy một trường hợp nào nêu lại vấn đề này, và không biết câu chuyện trên ngả ngũ như thế nào.(1)

Ví dụ này cho thấy, trị liệu pháp dùng nước tiểu gây thật nhiều tranh cãi, gây nhiều cảm tính trong mỗi người, và hiện nay theo như tôi biết chưa có khảo cứu nào có kiểm chứng, (randomized, controlled study) để chúng ta áp dụng theo nguyên tắc y khoa thực chứng (evidence medicine.)

Tuy nhiên, trước khi được chứng minh là đúng, biết bao nhiêu lý thuyết thực hành đều đã từng bị nghi ngờ, có khi khi khinh thường nữa, và xếp bên lề trái. Ngoài ra, nhiều chuyện y khoa thực hành mới xem qua thì rất "ghê gớm"; ví dụ trong một số bệnh ruột nhiễm trùng Clostridium difficile (CDI) nặng không có kháng sinh để chữa người ta phải cho bệnh nhân "nuốt phân", hoặc bơm vào ruột già, mà tên thuật ngữ y khoa gọi là "fecal transplant" để tái thiết lập "flora"("hệ thực vật) trong ruột già gồm những vi khuẩn bình thường thân thiện cho sức khoẻ người bệnh.

1.    Nước tiểu từng được dùng để chữa bệnh từ thời cổ đại, Tây phương cũng như Đông phương. Ở La mã ngày xưa, chính quyển còn thu thuế trên nước tiểu được thu thập từ các nhà tiểu tiện công cọng.

2.    Dùng nước tiểu của chính người bệnh để chữa bệnh cho người đó gọi là autogenous urine therapy (auto: tự mình, "genous" =sinh ra, urine= nước tiểu, therapy= trị liệu.)

3.    Gần đây hơn, năm 1978, cựu thủ tướng Ấn Độ Morarji Desai tiết lộ trên TV Mỹ rằng ông uống nước tiểu mình để chữa bệnh, và cho rằng nước tiểu là một phương thuốc rẻ tiền cho người Ấn thiếu thốn thuốc men và nghèo. Ấn Độ giáo mô tả nước tiểu là "nước tinh khiết", và phương pháp dùng nước tiểu để trị bệnh, bảo tồn sức khoẻ gọi là amaroli.

4.    Ngược lại, đạo Hồi xem đấy là "chất độc", ô uế, tối kỵ cho việc hành lễ tôn giáo (theo Bách khoa Wikipedia.)

5.    Cũng theo amaroli, uống nước tiểu lúc sáng sớm trước khi mặt trời mọc giúp tĩnh tâm (meditation) tốt hơn. Người ta giả thuyết cho rằng lúc chừng 2 giờ sáng, tuyến pineal gland não bộ tiết chất melatonin vào máu ở mức cao nhất (giảm tiết melatonin lúc chúng ta thức giậy, thấy ánh sáng), và có thể lúc sáng sớm trước rạng đông, nước tiểu chứa nhiều melatonin, và melatonin giúp người tập yoga tĩnh tâm dễ hơn. Tuyến pineal gland (hay epiphysis) này nhỏ (5-8 mm) hình giống trái thông, nên có tên như vậy (pine=thông; pineal gland = tuyến hình trái thông; Descartes, nhà triết học Pháp thế kỷ thứ 17, cho rằng tuyến này là nơi thể xác và linh hồn gặp nhau,và một số triết gia xem đây là "Con Mắt Thứ Ba" phụ trách sự "soi sáng tâm linh" (spiritual enlightenment.)

6.    Phần đông những bài báo hướng dẫn đều khuyên dùng nước tiểu buổi sáng sớm, giữa dòng (midstream), và chỉ dùng lượng rất nhỏ thôi.

7.    Trong y học hiện đại, có hai thuốc đắt tiền và quan trọng được trích ra từ nước tiểu: Premarin (hormon nữ) lấy từ nước tiểu ngựa mang thai, và urokinase, thuốc làm tan các cục máu đông trong tĩnh mạch, để làm máu lưu thông lại; urokinase được khám phá năm 1947, trích ra từ nước tiểu người.

8.    Nước tiểu chứa chừng 95% nước, và phần còn lại gồm những chất khoáng, điện giải, hormone, các chẩt amino acid, các vitamin C, biotin, riboflavin, B6, B12, các kim loại như Fe, Zinc, các chất có hoạt tính trên hệ thần kinh như serotonin, epinephrine, tất nhiên là ở liều lượng rất nhỏ.

9.    Nói chung, nứoc tiểu là một sản phẩm lọc máu, cơ thể thải ra phần dư thừa. Cho nên trừ trường hợp cơ thể bị nhiễm độc, hay nhiễm trùng, người ta không xem nước tiểu là một chất độc (not toxic.)(2)

10.    Trong trường hợp chích vào da, một trong những lo ngại có thể xảy ra (tuy chưa ai chứng minh là có xảy ra), là kháng nguyên từ thận người bệnh nếu tồn tại trong nước tiểu, sau khi được chích vào chính người đó,có thể làm cơ thể sản xuất ra những kháng thể chống lại chính thận của người đó (autoantibodies).

Riêng về bệnh dị ứng, ngoài thuyết các kháng thể của ông bs California nói trên, nhiều sách báo của alternative medicine nói về giả thuyết là nước tiểu chứa chất gọi là proteose có khả năng tăng đề kháng cơ thể (3). Theo những người đề ra thuyết này proteose lấy từ nước tiểu mới là kháng nguyên allergen trung thực đối với người bệnh vì nó đã từng đi qua cơ thể của người bệnh, do đó tốt hơn các kháng nguyên lấy từ ngoài trong việc kích thích hệ miễn nhiễm (ví dụ lấy phấn bông, bột trứng chích cho người dị ứng như trong cách chữa dị ứng thông thường).

Ở Mỹ, có một trường phái y học "lề trái" gọi là homeotherapy, nguyên tắc tương tự như " dùng độc trị độc." Theo luật "Law of Similars"(định luật các chất tương tự), họ dùng chất hay nhân tố gây ra một bệnh nào đó ở một liểu lượng cực nhỏ (ví dụ pha thật loãng nhiều lần) để kích thích hệ miễn nhiễm người đó cho mạnh thêm. Urine therapy cũng được dùng trong homeopathy. (homeo=giống nhau, pathy= bệnh; trường phái này xuất phát từ Đức, do BS Hahnemann [1755-1843], có nghĩa là trước thời phát triển y học khoa học hiện đại).

Tuy nhiên hiện nay người ta nghĩ rằng dị ứng không phải là do người bệnh thiếu đề kháng với một chất nào đó, mà là kết quả của một loại đề kháng không theo lối thông thường, sinh ra các kháng thể IgE. Hơn nữa chất proteose này chưa được chứng minh.

Nếu nghe theo một số những người hâm mộ trị liệu pháp này, thì họ tin rằng nước tiểu là một loại thần dược giải quyết mọi thứ từ ung thư, lao, dị ứng, mệt mõi mạn tính... một thứ quá tốt đẹp để có thật (too good to be true), nhất là từ nơi người bệnh thải ra.

Không phải bệnh dị ứng nào cũng kéo dài suốt đời. Trẻ em bị dị ứng nhiều hơn người lớn vì với thời gian, một số trường hợp đáng kể sẽ không còn phản ứng như trước, hoặc phản ứng nhưng nhẹ hơn trước với kháng nguyên nào đó, hiện tương gọi là tolerance (khoan dung, dung dưỡng.) Ngoài ra bác sĩ chuyên về dị ứng có thể dùng các chất kháng nguyên lượng nhỏ chích nhiều lần, với liều gia tăng dưới da bệnh nhân (allergy shots, immunotherapy.) Hiện nay, người ta đang nghiên cứu nhiều về "oral immunotherapy", chữa dị ứng "miễn nhiễm liệu pháp" qua đường miệng, khỏi phải chích.
 
Tôi chỉ xin đóng góp với vị thính giả vài kiến thức thú vị về loại trị liệu tuy cổ xưa nhưng lại còn đang tranh cãi hiện nay.

Trên thực tế, xin nhắc lại trị liệu dùng nước tiểu không được giới y khoa Mỹ công nhận, mặc dù trên internet có rất nhiều ngừoi làm chứng cho phương pháp này. Những điều nói trong câu chuyện hôm nay hoàn toàn có tính cách thông tin. Xin nhắc lại, không nên tự mình làm thử cho mình hay cho người khác.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Đau bụng dưới, sôi bụng và sình hơi.

Ở đây tôi chỉ bàn về chứng đau bụng góc dưới bên tay trái (left lower quadrant pain.) Đau vùng này có thể do nhiều nguyên nhân: bón, phân nghẹn ở ruột già, viêm các túi cùng ruột già (đại tràng), bệnh về buồng trứng (ovaries), ống dẫn trứng của đàn bà, u bướu tử cung (làm Pap smear, biopsy cỗ tử cung không phát hiện được một số u bướu tử cung, siêu âm có thể có ích); endometriosis (lạc nội mạc tử cung), thai ngoài tử cung; ở đàn ông có thể do bệnh tuyến tiền liệt, bệnh túi chứa tinh dịch (seminal vesicle); thoát vị ruột (hernia); bệnh liên quan đến niệu quản bên trái (niệu quản/ ureter là ống nối thận với bọng đái), ví dụ như sạn đi qua ống niệu quản có thể làm đau.
 
1) Bón (constipation) có nghĩa là đi cầu (đại tiện) 2 lần hoặc ít hơn mỗi tuần, đi cầu khó và phải rặn nhiều (excessive straining). Những người bón mạn tính có thể hay đau ở bụng dưới bên trái.

Đa số những trường hợp bón thông thường, phân ứ trong ruột già, làm đau bụng và không có triệu chứng toàn thân (systemic symptoms), cần để ý những biện pháp sau đây:

+ Ăn thức ăn có nhiều sợi xơ (fiber rich diet)(cần 10-12 gram fiber mỗi ngày, nếu cần thì uống những thuốc như metamucil).Ăn nhiều chất sợi hay dùng các thuốc tăng chất sợi có thể không có lợi và làm sình hơi nhiều hơn nếu là IBS (irritable bowel syndrome.)

+ Mỗi bửa ăn phải uống kèm theo 1-2 ly nước (nước lạnh, nước trà,) hoặc nước canh, nước phở.

+ Một số thuốc dễ gây bón, nhất là người già như là thuốc an thần, thuốc đau bụng sẽ làm giảm co thắt ruột nhưng cũng giảm nhu động ruột, gây bón; thuốc hạ huyết áp (ví dụ: calcium channel blockers), thuốc bổ có calcium và chất sắt (calcium and iron supplements), và thuốc lợi tiểu.

+ Xem nơi đi vệ sinh có thoải mái, ngồi ở thế thoải mái hay không, và người bệnh có thể đến phòng vệ sinh một cách dễ dàng, không cần phải nín lâu hay không (ví dụ vì đông người, không kín đáo, chủ nhân không cho công nhân dùng phòng tắm tự do.)

+ Uống thuốc xổ nhiều quá có thể lờn thuốc và gây bón.

+ Phụ nữ do sanh đẻ khó khăn có thể yếu những bắp thịt (cơ) vùng sàng xương chậu (pelvic floor dysfunction), u xơ tử cung lớn cũng có thể đè lên ruột già nằm phía sau tử cung và làm khó đi cầu.

+ Một số trái cây như đu đủ, trái kiwi (nhiều fiber),apricot, cherry, xoài, nho giúp cho đi cầu dễ dàng hơn.

+ Sau đây là những thuốc bán không cần toa ở Mỹ, bệnh nhân cần tham khảo với bác sĩ của mình):

(1) Tăng chất sợi (fiber supplements): Cám (Bran powder) (1-4 muỗng canh, 2 lần/ ngày.) Gạo lứt, bánh làm bằng cám cũng có thể cung cấp nhiều cám hơn.

(2) Psyllium: (metamucil); Methylcellulose (Citrucel.)

(3) Thuốc làm trơn phân (stool surfactant): docusate sodium (Colace.)

(4) Thuốc làm phân ướt và mềm: Magnesium hydroxide (Philip's Milk of magnesia); Polyethylene glycol (Miralax.)

(5) Thuốc kích thích ruột (stimulant laxatives, có thể làm đau quặn ruột): bisacodyl, cascara, senna (Senokot.)
 
2) Những người bị chứng "irritable bowel syndrome" (IBS hay còn gọi là "Hội chứng ruột nhạy cảm") hay đau không rõ rệt ở bên trái bụng dưới, cảm thấy cần đi cầu ngay sau khi ăn một số thức ăn "không hạp", sau đó thì hết đau, và sức khoẻ vẫn tốt như thường. Có thể sình bụng, trung tiện nhiều (flatus), khi tiêu chảy khi bón, và phân nhiều nhớt (mucus). Thường triệu chứng xuất hiện trên người trẻ (trên dưới 20). Nếu người trên 40-50 tuổi mà có triệu chứng đường ruột dột ngột xuất hiện, nhất là nếu có tiêu chảy về đêm, bón hay tiêu chảy nặng, sụt cân, sốt đi kèm theo đau bụng, phải đi khám bác sĩ để tìm nguyên nhân (như viêm ruột, ung thư, vv), không thể cho là "irritable bowel syndrome" được.

Chữa bệnh "hội chứng ruột nhạy cảm" (IBS):

+ Tránh ăn uống một số chất như đổ mỡ, cà phê.

+ Người hay sình bụng tiêu chảy: xem xét khả năng không chịu chất lactose trong sữa, hay những thức ăn làm từ sữa: bơ, kem, phó mát.

+ Thức ăn, bánh làm bằng bột mì.

+ Một số chất đường (carbohydrate) khó hấp thụ dễ làm sình bụng, tiêu chảy. fructose trong corn syrup (đường trích từ bắp),apples, pear, dưa hấu.

+ Chất fructan (fructose polymer) trong hành, asparagus, artichokes.

+ Chất sorbitol.

+ Chất raffinose (galactose+glucose+fructose) trong giá (brussels sprouts), bắp cải, lentils, legumes (đậu : peas, beans). Ruột người không tiêu hoá các chất đường này. Tuy nhiên các vi khuẩn trong ruột có enzyme alpha-GAL làm cách chất này lên men (fermentation), sinh ra khí methane, carbon dioxide và hydrogen khiến sình bụng và trung tiện ("xì hơi") nhiều.
 
Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể cho dùng thuốc để ruột bớt co thắt,bớt tiêu chảy (như loperamide, Imodium(R)), trị bón, vd: milk of magnesia), hay đôi khi dùng thuốc chống trầm cảm.
 
3) Viêm đại tràng (colitis), đa số viêm đại tràng làm tiêu chảy hơn là đi cầu khó khăn (bón.)
 
4) Một số bệnh nhân bị viêm túi cùng ruột già sigma ( acute sigmoid diverticulitis): đau bụng dưới bên trái, sốt nhẹ, đi cầu khó, bón. Bác sĩ chữa diverticulitis bằng thuốc kháng sinh, cho ăn thức ăn lỏng vài ngày thì bớt, thường uống thuốc 7 ngay- 2 tuần. Trường hợp nặng hơn, hoặc theo dõi sau khi bệnh viêm túi cùng nhẹ đã thuyên giảm do chữa bằng kháng sinh, bs cho đi soi ruột (colonoscopy), hoặc định bệnh hình ảnh(imaging) như CT (kỹ thuật số cắt lát) hay MRI (cọng hưởng từ trường), hay siêu âm, hay hiện nay ít dùng hơn bằng cách bơm chất barium (cản quang vào hậu môn) rồi chụp X quang. Có thể thấy các túi cùng, ruột già bị sưng, hoặc chỗ bị lũng, ap xe, và cũng để loại bỏ khả năng u bướu ruột già (colonic neoplasms.)

5) Do đó cần khám bs tổng quát cũng như bs phụ khoa nếu triệu chứng dai dẵng và không có định bệnh dứt khoát.
 
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

"Ngón tay bóp cò bẩm sinh" (Congenital trigger finger)

Các ngón bàn tay chúng ta được điều khiển bởi những cơ bắp nằm trên cẳng tay, cùng với một số cơ nhỏ hơn của bàn tay. Lúc chúng ta co ngón tay lại, vận động những cơ co ngón tay (flexor digitorum) hay cơ co ngón cái (flexor pollicis longus.) Phía lưng bàn tay và cỗ tay, có những cơ phụ trách kéo các ngón tay ngược lại, làm chúng duỗi ra (extensor digitorum, extensor pollicis).
Từ bắp cơ nằm trên cẳng tay, những dây gân chạy xuống lòng bàn tay. Qua khỏi lòng bàn tay, gân các cơ duỗi ngón (flexor tendons) chui trong một đường hầm, trên là mô sợi dưới là xương (fibro-osseous tunnel), rồi bám vào các khúc xuơng ngón tay, như một sợi dây chạy qua nhiều con ròng rọc (pulley), làm chuyễn hướng lực cơ co rút phía trên cẳng tay, đổi thành cử động các ngón tay co vào theo đường cung, như lúc chúng ta vẫy tay ngoắc ai đến gần.
Những sợi gân này chạy lui tới trơn tru. Nếu trong hành trình này, ở một nơi nào đó sợi gân cơ flexor quá to, hay đường hầm xương và xơ (fibro-osseous tunnel) eo hẹp làm con ròng rọc (pulley) quá chật, sợi gân bị kẹt (lock), ngón tay không duỗi ra hoàn toàn được, và khi cơ duỗi cố gắng kéo ngón tay thẳng ra, ngón tay bật trở ra ("the finger straightens with a snap"), như lúc cò súng sau khi bóp vào, bật nhả ra cho nên được gọi là "trigger finger" hay là "ngón tay cò súng ." Có thể phải cần dùng bàn tay kia phụ vào, khắc phục chỗ gân bị kẹt, kéo mạnh hơn, mới kéo ngón tay thẳng ra được. Các khảo cứu bằng siêu âm ở trẻ em chỉ cho thấy đường kính sợi gân quá to so với đường kính đường hầm xương và xơ nó đi qua, và không ghi nhận hiện tượng viêm (khác với bệnh người lớn.)
Trong chứng ngón tay bóp cò bẩm sinh, thường nhất ở ngón tay cái. Chừng 300 trẻ mới có một trường hợp, hoặc hiếm hơn nữa và triệu chứng xuất hiện trong năm đầu. Bé không duỗi ngón tay ra được, và ở dưới gốc ngón tay, có thể sờ thấy được một cái hạt nhỏ gọi là hạt Atta (Atta's nodule.) Thường các ngoài ngón cái tự phục hồi dễ hơn. Trên 30% trường hợp tự nó sẽ khỏi. Những khảo cứu gần đây còn lạc quan hơn nữa. Trong một công bố gần đây của Hàn quốc (Baek), người ta theo dõi 71 ngón tay cái của 53 bệnh nhân (nhiều trẻ bị hai tay) bệnh trong 2 năm mà không chữa trị gì cả. Kết quả cho thấy 45 ngón tay (63%) trở nên bình thường. Trong 26 trẻ chưa hết hẳn, 22 trẻ có tiến bộ rõ rệt.Nói chung, trên 60 ngón tay tự khỏi sau 24 tháng, và đa số ca còn lại tiếp tục cải thiện với thời gian. Nên nhớ trigger finger trẻ em hoàn toàn khác bệnh ở người lớn.
Nếu cần, bác sĩ có thể quyết định giải phẫu, lúc bệnh nhân 1-3 tuổi. Bác sĩ rạch một đường nhỏ ở gốc ngón tay,giải phóng sợi gân ở chỗ hẹp nơi con ròng rọc. Ngón tay được bất động chừng 1 tuần, sau đó sinh hoạt bỉnh thường. Ít khi bệnh tái lại. Kỹ thuật và khả năng bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật tay quan trọng, để tránh hư hại các dây thần kinh kế cận.
Ở người lớn trigger finger liên hệ đến những điều kiện khác như bệnh xương khớp, thoái hoá khớp, bệnh co rút gân bàn tay (dupuytren contracture), chấn thương và cần trị liệu mạnh mẽ hơn (như bất động, đắp đá, chích thuốc corticoid, giải phẫu nếu cần.)

Trường hợp của con vị thính giả, cần bác sĩ khám và quyết định có cần và có đáng mổ hay không, lợi nhiều hơn hại hay không vì em đã hồi phục phần lớn, ngón tay không bị co rút và đã tám tuổi. Có lẽ trong giai đoạn này, cho em dùng các ngón tay bình thường là tốt hơn cả, nếu cần thì giúp em giãn (stretch) ngón từ từ lúc buổi sáng. Nếu thấy đau, sưng hay giới hạn co duỗi nên theo dõi với bác sĩ của em.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Ngáy và chứng ngưng thở lúc ngủ

1) Người ta ngáy lúc đường không khí lưu thông qua miệng và mũi bị trở ngại lúc thở. Hai nơi này thường được gọi là đường hô hấp trên (upper airways.)
Nguyên nhân:

+ Nghẹt mũi do dị ứng, cảm, thịt dư polyp trong mũi, nhiều nhớt trong mũi do viêm xoang, vách chia hốc mũ làm hai bên bị vẹo qua một bên (deviation of the nasal septum.)

+ Nghẹt phía sau họng có thể do phần vòm miệng phía sau (soft palate), hay lưỡi gà (uvula) quá dài.

+ Ở trẻ em amidan (tonsils) quá lớn, các mô adenoid (adenoid tissues) phía sau hầu quá lớn.

+ Người mập, các mô mỡ chung quanh họng nhiều hơn bình thường.

+ Tính cường cơ (muscle tone) của các cơ bao quanh yết hầu bị giảm, làm cho cái ống chúng tạo nên ( mà không khí đi qua) bị xẹp xuống, làm không khí đi xuống phổi khó khăn hơn, phần sau vòm miệng cũng như lưỡi gà rung (flutter of the soft palate and uvula) phát ra tiếng ngáy. Nghiên cứu về âm học cho thấy tiếng ngáy phát xuất từ phần vòm miệng mềm và lưỡi gà, trong âm vực thấp, khoảng tầng số dưới 500/giây.

+ Một số người hàm quá nhỏ so với khuôn mặt, lưỡi có khuynh hướng "chạy" về phía sau hầu, nhất là lúc nằm ngữa. 

Cần phân biệt ngáy và hiện tượng ngưng thở. Lúc đường khí lưu thông bị nghẽn hẳn, phổi người bệnh không kéo hơi vào được nữa thì gọi là cơn ngưng thở (apnea episode) nếu sự gián đạn này kéo dài quá 10 giây. Sau đó, vì ngộp thở, người bệnh giãy dụa, ngủ ở mức nông, ít sâu hơn, và thở tiếp cho đến cơn apnea tiếp. Một người bị apnea có thể bị mấy chục cơn apnea trong một giờ.

Như đã giải thích, nguyên nhân chính là tắc nghẽn đường hô hấp trên. Những cơn apnea này gọi là obstructive sleep apnea (OSA.) Ngưng thở do cơ năng trung ương (trên não bộ) điều khiển hô hấp hiếm hơn (central sleep apnea, CSA), thường xảy ra ở người bị cơn đau tim, tai biến mạch máu não, nhiễm trùng óc, bệnh Parkinson, người mập, hoặc không rõ lý do. Nói chung, trung tâm hô hấp nằm trong cuống não (respiratory control centers in the brainstem) không gởi tín hiệu đến kích thích các cơ làm phổi hít vào và đẩy khí ra.
 
2) Lúc ngủ say, tính cường cơ chúng ta vừa nhắc đến còn giảm nhiều hơn, chúng ta ít thay đổi vị trí nằm hơn, các chất tiết, nước miếng có thể ứ đọng nhiều hơn trong họng, trong miệng nên gây trở ngại nhiều hơn cho sự di chuyển của không khí lúc thở ra vào.

3) Đàn ông ngáy nhiều hơn đàn bà. Có thể do dây nói trong thanh quản (vocal cords) đàn ông lớn và dễ rung hơn, đàn ông mập mỡ đóng vùng quanh cỗ nhiều hơn, đàn ông dùng rượu và thuốc lá nhiều hơn.

4) Tôi không biết các dụng cụ thính giả thấy quảng cáo trên TV là dụng cụ nào.

+ Một số dụng cụ gắn trong miệng để giữ cho hàm dưới đừng tuột ra sau phía họng lúc ngủ (mandibular advancement device, tốn chừng vài trăm đôla.)

+ Soft palate implant được cấy vào phần vòm miệng mềm (phía sau.) Có thể làm giảm ngáy và giúp ích giảm các hậu quả của ngưng thở do nghẽn (OSA) như buồn ngủ thái quá ban ngày, mệt mõi trong những trường hợp OSA nhẹ.

+ Phương pháp giải phẩu uvulopalatopharyngoplasty (cắt và tái tạo lại vòm miệng mềm, lưỡi gà và hầu) với mục đích làm rộng không gian hầu lúc ngủ, không thành công lắm so với mandibular advancement device và CPAP.

+ CPAP (Continuous Positive Airway Pressure therapy), áp suất dương liên tục trong đường hô hấp.
 
5) OSA làm tăng cơ nguy các bệnh cao huyết áp (hypertension), cao huyết áp trong phổi (pulmonary hypertension), bệnh đau tim, cơ nguy tai nạn do buồn ngủ ban ngày (daytime sleepiness), cơ nguy bị tiểu đường týp 2 (type 2 diabetes), trầm cảm. Nói chung, cơ nguy tử vong cao hơn người không bị OSA, nhưng không thể nói OSA làm chết người.

Người ta chữa ngáy phần lớn để cải thiện phẩm chất cuộc sống cho người ngáy (bớt buồn ngủ, bớt mệt mỏi, có thể giảm cao huyết áp) và người ngủ chung phòng.

+ Bệnh nhân mập cố gắng giảm cân nặng, bệnh nhân tránh dùng thuốc lá, rượu, các thuốc ngủ hoặc làm buồn ngủ như thuốc chữa dị ứng diphenhydramine (Benadryl), thuốc ho.

+ Tránh ăn trước giờ đi ngủ.

+ Tập thể dục để tăng tính cường cơ nói chung.

+ Nằm ngủ trên mặt phẳng không quá mềm, nhún, không dùng gối cao làm quặp cổ xuống.

+ Tránh nằm ngữa. Nằm nghiêng một bên.

+ Chữa bệnh mũi, viêm xoang.

+ Trị bệnh dị ứng.
 
Về việc chữa OSA, chỉ có CPAP (Continuous Positive Airway Pressure therapy, (áp suất dương liên tục trong đường hô hấp) là được chứng minh rõ ràng có ích cho sức khoẻ và chất lượng cuộc sống. Máy bơm một luồng không khí dưới áp suất cao hơn áp suất khí quyển vào phổi bệnh nhân, làm nở đường hô hấp trên rộng ra, không cho nó xẹp xuồng (do những yếu tố mà chúng ta đã giải thích gây ra ngáy và ngưng thở).

Ở Mỹ, bệnh nhân ngáy nhiều quá cần khám bệnh bác sĩ chuyên về tai mũi họng hoặc chuyên về y khoa giấc ngũ, sau đó sẽ được quan sát trong một phòng ngủ trang bị đặc biệt để theo dõi oxy trong máu, nhịp thở, nhịp tim(ECG), cơ điện đồ (EMG), cử động các cơ điều khiển hai tròng mắt ( EOG, theo dõi các cử động mắt trong từng giai đoạn của giấc ngủ.)Test này gọi là polysomnography (poly = nhiều, somno = ngủ, gram = đồ.) Có thể tốn đến vài ngàn đô la. Máy khá đắt tiền. Thường phải dùng suốt đời, trừ trường hợp OSA do một bệnh nhất định gì đó và bệnh đó được chữa khỏi (như quá mập, trẻ con được cắt a mi đan quá lớn.) Bệnh nhân mang mặt nạ chụp trên mũi và miệng, hoặc ống hơi gắn vào mũi, có thể không chịu được và bỏ cuộc sau một thời gian. Máy cũng đắt, chừng vài ngàn đôla.

Cuối cùng về câu hỏi tại sao Trương Phi ngáy lớn mà không chết. Chúng ta đã phân biệt chuyện ngáy (snoring) và chuyện ngưng thở lúc ngủ (OSA.) Tuy nhiên, nhân dịp này tôi cũng có đọc thêm về nhân vật Tam Quốc Chí sống vào thế kỷ thứ 3 này. Chúng ta có thể thấy trong các tranh và tượng, ông lùn hơn các nhân vật anh em kết nghĩa Lưu Bị và Quang Vũ, với sức mạnh vũ bão, thói nghiện rượu và tánh tình nóng nảy đi kèm với cái cổ bự và tấm thân mập to bề ngang. Tuýp người như vậy điền hình người hay ngáy và có lẽ bị apnea. Tuy nhiên, đây chỉ là chuyện bàn rộng cho vui thôi. Trương Phi bị giết năm 221 và chúng ta cũng không biết ông chết ông mấy tuổi.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

COPD, chứng da dễ bầm & chứng nhìn một thành ba

1) Bệnh gọi là "COPD", viết tắt của "Chronic Obstructive Pulmonary Disease", tạm dịch là "Bệnh nghẽn phổi mạn tính". Bệnh này đặc biệt quan trọng đối với những xứ đang phát triển như Việt nam vì tỷ số người hút thuốc lá cao và tăng, môi trường ô nhiễm nặng do khói xe, khói kỹ nghệ, khói trong nhà do bếp than cũi, các chất khí hoá học.

Người bệnh thường tuổi trung niên hoặc người già. Bệnh nhân có thể có ít hoặc nhiều triệu chứng. Với thời gian, bệnh càng nặng thêm: ho dai dẵng, ho đàm, khó thở, bậm môi thở phì phò (lip pursing, puffing), cảm giác ngộp thở, hụt hơi, "hơi thở ngắn" (dyspnea, shortness of breath), nhất là nếu làm việc gì nhọc nhằn, thỉ dễ cảm thấy hụt hơi; thở khò khè, nghe như tiếng vi vu, "wheezing", do không khí đi từ phổi ra ngoài không thông suốt.

Trong đa số trường hợp thuốc nở cuống phổi, bệnh nhân được cho dùng thuốc hít (metered dose inhaler [MDI] or nebulizer). Bệnh nhân được cho dùng thuốc corticoid  là thuốc giảm viêm hít (hơi/dùng inhaler, hoặc bột hít). Chất giãn nở cuống phổi có tác dụng kéo dài salmeterol được bào chế chung với corticoid (fluticasone) trong thuốc bột hít ADVAIR Diskus, thịnh hành ở Mỹ.

2) Chứng da dễ bầm (easy bruising)

Dưới da chúng ta có những mao quản (capillaries, mạch máu nhỏ như sợi tóc) nuôi da. Nếu bị va chạm, những mạch máu này vỡ và máu chảy ra trong da, chất huyết sắc tố đỏ dần dần đổi qua chất màu tím đen, làm cho chúng ta thấy vết bầm đỏ, qua tím, đen. Dần dần, máu này được cơ thể hấp thụ và biến mất. Phụ nữ dễ bầm hơn đàn ông. Người già càng lớn tuổi càng dễ bị bầm, vì mỡ bao quanh và che chỡ các mạch máu càng ngày càng ít đi.

Những yếu tố khác có thể làm dễ bầm hơn:

●    Thuốc aspirin được dùng làm máu "loãng" hơn ("blood thinner"), khó đông hơn, trong mục đích giảm thiểu các bệnh đau tim do động mạch vành tắt nghẽn. Aspirin ức chế cơ năng các tiểu bản (platelets) trong máu. Các tiểu bản cần thiết để làm máu đông, bít mạch máu lại lúc chảy máu. Người uống aspirin dễ bị bầm hơn.

●    Một số bệnh nhân tim mạch được chích hay uống những thuốc khác để làm máu giảm khả năng đóng cục trong huyết quản (ví dụ: Warfarin hay Coumadin, Heparin, và (uống) Praxada). Những người này dễ chảy máu hơn bình thường.

●    Một số chất phụ dinh dưỡng (nutritional supplements) như ginkgo biloba (trái bạch quả), fish oil (omega 3 fatty acids) ở liều cao, hoặc dùng chung với aspirin có thể làm bệnh nhân dễ chảy máu, không những ở da, mà ở cả những bộ phận khác như dạ dày, ruột, óc. Thiếu vitamin C cũng dễ làm chảy máu trong da (bầm) đồng thời với chảy máu, sưng nướu răng, mệt mõi, đau xương.

●    Một số người được bác sĩ cho uống corticoid (corticosteroid, hormone vỏ tuyến thượng thận.) Ví dụ: prednisone, dexamethasone; hay thoa corticoid ngoài da có thể dễ bầm hơn bình thường. Bệnh nhân COPD (bệnh nghẽn cuống phổi mạn tính), suyễn, dị ứng, bệnh tự miễn nhiễm, viêm da dị ứng có thể đang dùng thuốc corticoid.

●    Người bệnh hay bị bầm ở hai cánh tay có thể vì đấy là những nơi dễ bị va chạm nhất. Nếu bị bầm ở những nơi khác (mặt, lưng, bụng), nơi khó bị va chạm, hay vết bầm tím lớn xảy ra thường xuyên, hay bắt đầu sau khi bắt đầu uống một thứ thuốc nào đó, hoặc kèm theo những triệu chứng khác như xanh xao, mệt mõi, sưng khớp (do chảy máu trong khớp), đau bụng, sốt,v. v…, hay trong gia đình có người cũng hay chảy máu, hay bầm, cần đi khám bác sĩ càng sớm càng tốt.

Bác sĩ thường phải thử máu xem số tiểu bản (platelet count) có giảm hay không, xem máu có đông bình thường hay không, có thiếu máu hay không, sau khi khám toàn bộ và xem xét bệnh sử (nhớ đem theo danh sách tất cả thuốc men mình đang uống, nhớ xem trong gia đình có ai dễ bị chảy máu lúc sanh, lúc phẩu thuật hay không), và khám toàn diện bệnh nhân kỹ càng.

Nếu chỉ chảy máu trong da nhẹ, người già nên thu xếp các đồ đạc nơi mình sinh hoạt để tránh va chạm. Có thể mặc áo tay dài, vải dày hơn để che chở da lúc va chạm không tránh được. Cần ăn uống đầy đủ các vitamin (trái cây tươi), nhất là vitamin C.

Trong trường hợp thính giả, nên hỏi lại bác sĩ xem thuốc mình đang dùng có chứa aspirin và corticoid không. Nếu có, nên cẩn thận, không những về bầm da, mà về những nơi khác. Ví dụ: tránh dùng những thuốc NSAIDS (Non Steroid Anti Inflammatory Drugs) như ibuprofen, naprosyn (Aleve), indomethacin để trị đau nhức, uống những thuốc có thể làm xót ruột lúc đã có thức ăn trong bao tử. Nếu phân đen như dầu hắc (melena) thì đấy có thể là triệu chứng đã chảy máu trong đường ruột.

3) Chứng nhìn một thành ba (triplopia) là một triệu chứng thần kinh hiếm gặp. Trước đây bác sĩ thường nghĩ rằng đấy là những trường hợp hysteria, tuy không có cơ sở vật chất rõ ràng, lại do nhận thức của bệnh nhân bị rối loạn, gây ra triệu chứng vật thể. Chuyện nghi ngờ này dễ hiểu vì chúng ta chỉ có hai con mắt,và mỗi mắt ghi nhận một hình ảnh riêng rẻ. Bộ óc có nhiệm vụ kết hợp hai hình ảnh đó thành một hình ảnh có chiều sâu (3D image).

Nếu hai con mắt không di chuyển đồng bộ với nhau, hình ảnh của mắt này sẽ không ăn khớp với mắt kia và là cho bộ óc người bệnh ghi nhận 2 hình ảnh khác nhau cho một vật. Ví dụ: người bị bướu trong óc là các dây thần kinh điều khiển tròng mắt bị liệt hay rối loạn (extraocular muscles). Người đó sẽ thấy một thành hai (diplopia).

Trong khi đó thì hiện tượng nhìn một thành ba (triplopia) khó giải thích và hiếm hơn.
Một tường trình y học đăng trong báo JAMA Neurology, nhà khảo cứu bác sĩ James Keane tìm chứng này trong số 13,400 bệnh nhân trong 34 năm hành nghề, và tìm ra được 13 trường hợp.

Ông kết luận là phần đông triplopia do các cơ điều khiển cử động mắt bất bình thường đi đôi với tròng mắt giật (nystagmus), do liệt dây thần kinh sọ số 3, số 6 (do hư hại sau khi giải phẩu thần kinh, chấn thương, do bướu não, hay do dây thần kinh điều khiển cơ mắt thiếu máu (do áp huyết cao) (nerve ischemia), hoặc do nhồi máu cuống não (brain stem infarct). Hai trường hợp không tìm thấy nguyên nhân vật thể và định bệnh là do hysteria.

Những nguyên nhân khác của triplopia: giác mạc (cornea) hay thuỷ tinh thể (lens, ví dụ: cataract) rối loạn, lé (strabismus), ngộ độc, chứng multiplopia nguyên nhân ở não bộ (1)

Như trường hợp vị thính giả, trong lúc bịt mắt bên kia và chỉ nhìn một mắt, bệnh nhân vẫn thấy một thành ba; như vậy nguyên nhân nằm trong mỗi con mắt (ví dụ như cườm khô, giác mạc không bình thường, võng mạc không bình thường), chứ không phải do bộ óc không phối hợp hình ảnh từ 2 mắt. Người ta gọi đấy là true monocular triplopia (monocular là một mắt).

Cũng giống như bệnh bầm ngoài da, cườm mắt xảy ra sớm hơn và nhiều hơn ở người bệnh dùng corticoid như chúng ta đã bàn trong mục da dễ bầm ở trên. Hy vọng bác sĩ chuyên khoa mắt (ophthalmologist) sẽ giải quyết được vấn đề này. Ví dụ: trong trường hợp bị cườm khô mắt (thuỷ tinh thể bị đục,cataract), thay thuỷ tinh thể khác có thể giải quyết vấn đề (2).

Tóm lại bệnh nhân bị triplopia cần đi khám bác sĩ chuyên khoa thần kinh và bác sĩ chuyên khoa mắt để định bệnh chính xác.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền