Friday, December 7, 2018

Chẩn bệnh cao huyết áp

Bệnh cao huyết áp thường thường không có triệu chứng gì rõ rệt cho tới khi quá trễ. Nếu có triệu chứng, gồm có chóng mặt, khó thở, nhức đầu, chảy máu mũi đi kèm với áp suất máu tăng cao. Trong trường hợp áp suất máu tăng cao quá độ một cách khẩn cấp, triệu chứng gồm có mắt mờ, nôn mửa, đau ngực hay hồi hộp.
Theo định nghĩa, cao huyết áp khi áp suất máu tăng trên 130/ 80 mmHg. Áp suất máu có thể đo được bằng các dụng cụ đo áp suất máu thông dụng. Áp suất máu có thể thay đổi thường xuyên trong ngày tùy thuộc vào hoạt động, tình trạng nước trong cơ thể, mức độ thoải mái hay sợ hãi, và nhiều lý do khác nhau. Áp suất máu đo tại phòng mạch bác sĩ thường là không chính xác lắm do hồi hộp vì sợ… bác sĩ! Áp suất máu trung bình trong ngày sẽ chính xác hơn. Để gọi là cao huyết áp, áp suất máu trung bình phải được đo tối thiểu 3 lần trên mức 130/80 và đo trong vòng một tuần lễ.
Bệnh cao huyết áp có thể phân loại thành hai thời kỳ
-Cấp 1: chỉ số trên trong khoảng 130 đến 139 mmHg, và chỉ số dưới trong khoảng 80-89 mmHg.
-Cấp 2: chỉ số trên cao hơn 139 mmHg, và chỉ số dưới cao hơn 89mmHg.
Trong trường  hợp khẩn cấp, áp suất máu có thể lên đến 180/120 mmHg.
Bác sĩ có khi phải cho thử nghiệm để tìm hiểu thêm nguyên nhân bị bệnh cao huyết áp. Một số thử máu căn bản gồm có: thử lượng electrolytes, thử đường, hormone tuyến giáp trạng, và các thử máu liên hệ đên sự hoạt động của trái thận. Một đôi khi bác sĩ cho đo điện tâm đồ (Echocardiogram), siêu âm tim và thận, cũng như CAT Scan hoặc MRI.
Một số nguyên nhân gây ra bệnh cao huyết áp do từ các bệnh khác cũng cần phải được loại trừ để chữa tận gốc, gồm có: phản ứng phụ của thuốc bao gồm các loại thuốc dược thảo, thuốc giảm đau, thuốc an thần, hoặc ma túy; bệnh suy thận cũng làm cho cao huyết áp, và bệnh cường tuyến giáp. Có khi bị bướu tuyến thượng thận gọi là pheochromocytoma cũng làm tăng huyết áp.
Chữa trị bệnh cao huyết áp
Bệnh cao huyết áp về cơ bản có thể chữa trị bằng cách thay đổi lề lối sống trước khi phải sử dụng thuốc men. Hầu hết bệnh nhân bị cao huyết áp có thể kiểm soát được với các loại thuốc như thuốc lợi tiểu (diuretics), thuốc điều chỉnh áp suất máu ở trái thận gọi là ACE inhibitors, thuốc điều chỉnh nhịp đập của tim và độ co thắt của mạch máu gọi là beta-blockers, hay calcium channel blockers.
Thay đổi nếp sống bao gồm: bỏ thuốc lá, ăn uống điều độ, bớt ăn muối, xuống cân, và tăng cường vận động, tập thể dục thể thao đều đặn mà đơn giản nhất vẫn là đi bộ mỗi ngày 30 phút. Dĩ nhiên, stress, thiếu bình an, và những sợ hãi thường xuyên trong cuộc sống cũng làm tăng huyết áp.
Khi phải sử dụng thuốc men, mục đích tối hậu vẫn là giữ cho được áp suất máu dưới mức 130/80. Đa phần, một khi phải dùng thuốc, bệnh nhân phải uống thuốc đều đặn mỗi ngày, trọn đời. Không nên, và không bao giờ ngưng uống thuốc nếu không có sự đồng ý của bác sĩ. Tai biến não xảy ra khi ngưng thuốc trị cao huyết áp.
1. Thuốc lợi tiểu (diuretics), làm cho trái thận thải nhiều nước tiểu ra ngoài để giảm bớt thể tích máu. Thuốc cũng dùng cho trường hợp bệnh nhân ăn mặn quá độ. Loại thuốc thông dụng nhất hiện nay là hydrochlorothiazide. Ngoài ra còn có các thương hiệu khác như: Diamox (acetazolamide), Thalidone, Tenoretic, and Clorpres (chlorthalidone), HydroDiuril, Microzide, and Esidrix (hydrochlorothiazide), Lozol (indapamide), Zaroxolyn, Mykrox (metolazone).
2. Thuốc Angiotensin-converting enzyme (ACE) inhibitors, giảm áp suất máu bằng cách làm cho mạch máu giãn nở to ra. Các loại thuốc trong nhóm này gồm có: Lotensin (benazepril), Capoten (captopril), Vasotec, Vaseretic (enalapril), Monopril (fosinopril), Prinivil, Zestril (lisinopril), Univasc (moexipril), Accupril (quinapril), Altace (Ramipril), Mavik (trandolapril).
3. Thuốc Calcium channel blockers giảm áp suất máu bằng cách làm giãn nở mạch máu và giảm bớt sức co bóp của trái tim. Thuốc trong nhóm này gồm có Norvasc, Caduet, and Lotrel (amlodipine), Cardizem, Dilacor, and Tiazac (diltiazem), Plendil (felodipine), DynaCirc (isradipine), Cardene (nicardipine), Procardia XL, Adalat (nifedipine), Sular (nisoldipine), Isoptin, Calan, Verelan, and Covera (verapamil hydrochloride).
4.Thuốc Beta blockers giảm áp suất máu bằng cách giảm bớt nhịp đập trái tim. Các thuốc trong nhóm này gồm có Tenormin (atenolol), Normodyne, Trandate (labetalol), Lopressor, Toprol (metoprolol), Corgard (nadolol), Inderal, Inderal LA (propranolol), Blocadren (timolol).
5. Thuốc Angiotensin II receptor blockers (ARBs) giảm áp suất máu bằng cách làm giãn nở mạch máu. Các loại thuốc trong nhóm này gồm có Atacand (candesartan), Avapro (irbesartan), Cozaar (losartan), Micardis (telmisartan), Diovan (valsartan).
Ngoài ra, nên tránh uống các loại thuốc giảm đau như Ibuprofen, thuốc trị nghẹt mũi có chứa pseudoephedrine, hay bớt uống cà phê, hoặc các loại thuốc “tăng cường sinh lực.”
Có khi bác sĩ chỉ sử dụng một loại thuốc, nhưng cũng có những trường hợp phải kết hợp hai loại thuốc lại với nhau.
Hầu hết các loại thuốc trên đây đều có các phản ứng phụ như hồi hộp, chóng mặt, nhức đầu, sưng phù tay chân, và gây ra chứng liệt dương.
Nói chung, để tránh uống thuốc thì nên bắt đầu bằng những thay đổi nhỏ trong đời sống. Nên để ý đến những yếu tố làm kích động áp suất, thí dụ như stress, ăn nhiều muối, uống thuốc dược thảo và tìm cách thay đổi, điều chỉnh. (Bác Sĩ Hồ Ngọc Minh)

Wednesday, November 14, 2018

Co thắt cơ mí mắt sau khi liệt dây thần kinh số 7 (Post Bell’s palsy blepharospasm)

Trước hết chúng ta bàn về bệnh tê liệt dây thần kinh số 7 ngoại biên (peripheral facial paralysis) còn gọi là tê liệt loại Bell (Bell’s palsy).
Sir Charles Bell (1774 to 1842): Nhà cơ thể học, phẫu thuật, nghệ sĩ người Scotland, chuyên nghiên cứu về nét mặt và giải phẫu của mặt. Ông tìm ra cơ năng riêng biệt của dây thần kinh số 5 (phần lớn phụ trách cảm giác) và thần kinh số 7 (phần lớn phụ trách vận động các cơ). Loại liệt cơ do mặt dây thần kinh số 7 ngoại biên bị viêm được đặt tên theo tên của ông là người mô tả bịnh này đầu tiên.
Nên nhắc lại là chúng ta có 2 dây thần kinh gọi là dây thần kinh sọ số 7 (7th cranial nerve, bên trái và bên phải) hay còn được gọi là dây thần kinh mặt đi từ não bộ ra về phía mặt và điều khiển các cơ ở trên mặt. Dây thần kinh này, nếu bị tổn thương sẽ không truyền dẫn tín hiệu ra lệnh cho những cơ mặt (cùng một bên trái hay phải) co nữa, mà những cơ này lại điều khiển những cử động, nét mặt của chúng ta . Nếu cơ một bên bị liệt và cơ bên phía kia vẫn bình thường thì cơ phía bên bình thường sẽ kéo lệch nét mặt về phía bên đó và phía bên bị bệnh sẽ có vẻ cứng đơ (stiff) hay lệch, xệ xuống. Nguyên nhân gây liệt thần kinh số 7 loại Bell’s palsy là dây thần bị viêm. Trong đa số trường hợp chúng ta chưa giải thích được lý do chính xác. Người ta nghĩ là trong một số trường hợp virus Herpes 1 làm cho dây thần kinh số 7 viêm. Vì dây thần kinh này đi qua một khoảng chật hẹp nằm trong xương, sự truyền dẫn thần kinh bị gián đoạn khi dây thần kinh bị chèn ép. Cho nên trong một số trường hợp bác sĩ sẽ dùng thuốc corticoid để giảm viêm và đồng thời dùng thuốc kháng sinh chống virus để tri những trường hợp tê liệt thần kinh số 7 loại Bell palsy.
Bệnh nhân nếu thấy một bên mặt của mình bị liệt hay là mặt mình bị kéo qua một bên có thể nghĩ rằng mình bị tai biến mạch máu não (stroke). Tuy nhiên khác với tai biến mạch máu não, chứng liệt dây thần kinh số 7 ngoại biên chỉ làm cho một nửa của mặt bị tê liệt chứ phần còn lại của cơ thể không bị ảnh hưởng.
Những triệu chứng khác của chứng tê liệt thần kinh số 7 này gồm có:
1) Đau một bên tai 1-2 ngày trước khi có triệu chứng yếu các cơ trên mặt; âm thanh có thể nghe lớn hơn bình thường trong những ngày trước khi những triệu chứng xuất hiện
2) Bênh nhân cũng có thể nhận xét những dấu hiệu sau đây: không nhắm chặt mắt được hoặc không chớp mắt (blink) được, nước mắt chảy nhiều hơn hoặc ít hơn bình thường ( có nghĩa là mắt khô hơn); bệnh nhân có thể nhiễu nước miếng (không giữ được nước miếng ở trong miệng); gặp khó khăn lúc nhai đồ ăn; cảm thấy vị giác (khả năng nếm) của mình bị thay đổi; những cơ bắp thịt nhỏ ở trên mặt có vẻ như co giật ; và cảm thấy tê hay là đau ở phía sau tai. Các triệu chứng thấy yếu ở mặt hoặc là một bên mặt sà xuống biểu hiện ở mức cao nhất chỉ sau 1-2 ngày, có nghĩa là xảy ra một cách cấp tính.
Trong đa số trường hợp các bệnh nhân sẽ cảm thấy cải thiện trong vòng vài tuần lễ và đại đa số hồi phục hoàn toàn trong vòng 3 tháng, dù có chữa bệnh hay không. Một số người sẽ hồi phục sau thời gian lâu hơn hoặc không hồi phục hoàn toàn và sẽ có một số di chứng còn sót lại, như là nửa mặt còn yếu, hay là giật ở trên mặt, hay là nhắm mắt không chặt.
Trị liệu hiện nay chúng ta không có phương tiện nào chặn ngay bệnh được. Nếu bác sĩ tin rằng triệu chứng do virus Herpes loại 1 gây ra hay là do virus của bệnh trái rạ (thuỷ đậu, varicella zoster virus) gây ra bác sĩ có thể cho bệnh nhân dùng kháng sinh chống lại virus (ví dụ acyclovir, valacyclovir), kháng sinh chống virus hữu hiệu nhất nếu chữa trị bắt đầu nội trong 72 giờ sau khi triệu chứng xuất hiện. Bác sĩ cũng có thể cho bệnh nhân uống một thời gian ngắn thuốc corticoid như prednisone để làm giảm viêm ở trong dây TK 7.
Co quắp mí mắt (blepharospasm)
Mắt chúng ta có mí trên và mí dưới. Một số cơ phụ trách nhắm mắt (protractors: orbicularis oculi, corrugator, and procerus muscles). Corrugator muscle có nghĩa cơ làm nhăn, cơ nhỏ nằm phía trong của mí mắt, dưới lông mày, kéo hai lông mày chụm lại, nhăn dọc trên trán; phụ trách nhíu mày, lúc đau, nheo mắt lúc chói. Và một số cơ phụ trách mở mắt (retractors). Hai nhóm này hoạt động đối nghịch chiều với nhau, khi nhóm này co thì nhóm kia giãn ra, hoặc ngược lại. Cảm giác nhận từ mắt đi vào não bộ trung ương, và tín hiệu xuất phát theo dây thần kinh số 7 (thần kinh mặt, facial nerve) ra lệnh cho các cơ nhắm mắt co vào.
Có lẽ rối loạn gốc nằm ở các phần nằm sâu trong não bộ gọi là "nhân cơ bản" (basal ganglion, nucleus basalis) điều tiết các vận động có ý thức cũng như một số vận động theo thói quen như tật nghiến răng (teeth grinding, bruxism), chớp mắt. Lúc cơ chế này hoạt động không nhịp nhàng (defective circuit), mức quân bình các lực giữa các cơ quanh mắt bị rối loạn (dystonia), và người bịnh sẽ cảm thấy một vùng nào đó hay nhiều vùng trong một hoặc hai mí mắt co, giật, hoặc co quắp lại không phải lúc, và chúng ta gọi là bịnh co quắp mí mắt (blepharospasm: blepharo= mí mắt, spasm: co quắp, co thắt).
Đa số không có nguyên nhân rõ rệt ( BEB: Benign Essential Blepharospasm).
Tuổi thường gặp là 50-70, đàn bà nhiều gần gấp đôi đàn ông.
Triệu chứng:
Lúc đầu có thể chỉ là mắt chớp nhanh hơn, thấy giật mí mắt (twitching), cảm giác co bóp (eyelid spasm), hay giật giật mí mắt (eye tic) không kiểm soát được. Có thể giật ở vùng giữa mặt hoặc vùng dưới mặt.
Bịnh nặng có thể làm bịnh nhắm mắt chặt lại, khó mở mắt ra, hoặc mở mắt ra thì đau nhức, nhất là nhìn lên phía trên. Bịnh nhân có thể tránh xem tivi, đọc sách vì khó chịu hay đau. Mắt có thể khô, khó chịu lúc ra ánh sáng, và bác sĩ có thể định bịnh lầm là bịnh dị ứng mắt, bịnh khô mắt vì thiếu nước mắt (dry eyes).
Bịnh nhân có thể dễ chịu hơn sau khi ngủ một giấc, thư giãn, nhìn xuống, hát, nói hay humming (hát hư hư không ra lời).
Một số thuốc bịnh nhân dùng liên hệ với chứng này, ví dụ: thuốc chữa Parkinson; lúc bịnh nhân ngưng thuốc an thần.
Chữa trị:
  1. Mang kính mát (màu xám/gray) chặn các tia cực tím, làm giảm bịnh mắt đau do nhạy cảm với ánh sáng (oculodynia due to photosensitivity).
  2. Đội nón che nắng. Tránh stress, giảm stress.
  3. Tập trung vào một việc gì đó như đan, may, làm vườn, nấu ăn (nhìn xuống làm đỡ triệu chứng hơn). Có thể thử hút gió, hát, “humming”, đàn. Một số người giảm triệu chứng tạm thời nếu uống diphenhydramine (Benadryl).
  4. Chữa các bịnh về mắt như viêm các phần khác nhau của mắt nếu có ( vd:viêm mí mắt/blepharitis), khô mắt , dị ứng mắt.
  5. Thuốc men: thường không hiệu nghiệm lắm vì thuốc tác dụng trên não bộ trung ương, nên cơ chế tác dụng chưa hiểu rõ. Những thuốc như thuốc chống trầm cảm ba vòng (tricyclic antidepressant), thuốc an thần như lorazepam, clonazepam; thuốc chống spasm dùng trong bịnh Parkinson (Artane). Thuốc men chỉ hiệu nghiệm chừng 15% trường hợp, theo Viện Mắt của Mỹ.
  6. Chích botulinum A toxin (Botox) là biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Thuốc do một con vi khuẩn sản xuất, chích vào cơ liên hệ làm gián đoạn truyền dẫn thần kinh từ dây thần kinh qua cơ và làm cho cơ tê liệt. Thông thường dùng với mục đích thẩm mỹ, xoá các vết nhăn trên mặt. Trong trường hợp này cơ làm giật mí mắt không giật nữa (orbicularis oculi muscle, corrugator, procerus m.). Sau 2-3 ngày, bịnh nhân cảm thấy thuyên giảm. Thuốc tác dụng tối đa sau 5-7 ngày, được vài tháng (6-9) thì hết hẳn tác dụng, thường vài tháng phải chích lại ngăn chặn co giật tái xuất hiện.
  7. Trường hợp hiếm hơn, nếu Botox không hiệu nghiệm trong một số trường hợp mắt đau nhiều, khó mở ra bác sĩ có thể cắt bỏ (myomectomy) một số cơ nhỏ phụ trách nhắm mắt (protractor muscles).
Bịnh co thắt cơ nửa mặt.
Các cử động các cơ trên mặt chúng ta phụ trách biểu lộ các nét mặt khác nhau (cười, nhăn mặt, hút gió) được điều khiển do dây thần kinh mặt (thần kinh sọ số 7, TK7), một dây TK7 bên phải và một dây bên trái. Dây thần kinh số 7 phần lớn phụ trách vận động. Dây thần kinh này đem mệnh lệnh từ não bộ đi ra khỏi cuống não (brainstem), thoát ra khỏi hộp xương sọ dưới tai, đi về hướng phía trước và chia thành 5 nhánh thần kinh đến các cơ liên hệ: cơ làm cho lông mày nhúc nhích, nhắm mắt, cử động các cơ chung quanh miệng. Nói chung là các cơ phụ trách biểu hiện trên khuôn mặt (facial expression).
Trong một số trường hợp hiếm, do thần kinh số 7 làm việc bất bình thường, nó có thể phát ra những tín hiệu làm cho các cơ mặt trong vùng nó kiểm soát co giật ngoài ý muốn (“misfire”). Lúc đầu có thể ( trong 92% trường hợp) chỉ co giật vùng chung quanh mắt, sau đó có thể lan ra toàn mặt. Thiểu số còn lại lan chiều ngược, từ dưới cằm lan lên phía mắt. Thường chỉ xảy ra một bên , cho nên từ y học gọi là co thắt nửa mặt (hemifacial spasm/ HFS), tuy hiếm hơn nữa có người bị cả hai bên trái và phải , do cả hai thần kinh số 7 đều bị bịnh.
Dịch học:
-Bịnh này hiếm (8/100,000 người ở Mỹ)
-Thường người tuổi 40-60
-Phụ nữ nhiều hơn nam giới
Triệu chứng:
-Triệu chứng duy nhất là một bên nửa mặt có những cử động không kiểm soát được; cử động như co giật liên hồi (clonus), có thể nảy sinh lúc bịnh nhân mệt mỏi, lo âu, hay đọc sách báo. Một số người bị liệt thần kinh số 7 do chấn thương hay bịnh liệt Bell (Bell Palsy rồi sau đó bị co giật nửa bên mặt.
-Có thể nghe những âm thanh bất bình thường trong tai.
-Có thể yếu nửa mặt.
Định bịnh:
Thường bịnh nhân cần được bác sĩ chuyên khoa thần kinh khám để phân biệt với những bịnh khác có thể gây ra những cử động bất bình thường trên mặt.
Chẩn đoán bằng hình ảnh quan trọng nhất là dùng cọng hưởng từ trường (MRI) để nghiên cứu tình trạng của dây thần kinh số 7, xem TK7 có bị chèn ép bởi một mạch máu ở vị trí bất bình thường (vascular compression by an aberrant branch of the inferior cerebellar artery or the vertebral artery), hay một u bướu nào đè lên trên dây thần kinh (mass compression), hay một hư hại trong não bộ nơi thần kinh 7 xuất phát (vd: stroke, multiple sclerosis).
Chữa trị:
1) Đối với trường hợp dây thần kinh số 7 không bị chèn ép, đè nén và triệu chứng còn nhẹ, giới hạn:
  • Dùng thuốc uống, loại thuốc chống co giật như carbamazepine (Tegretol), gabapentin.
  • Thuốc an thần loại benzodiazepine như clonazepam (Klonopin).
  • Thuốc làm cơ giãn (muscle relaxant, antispasmodic) như baclofen (Lioresal).
  • Thuốc có thể làm phản ứng chậm, mệt mỏi; tuỳ thuộc vào thuốc (drug dependence); không được uống rượu trong lúc uống thuốc baclofen.
  • Không ngưng thuốc đột ngột.
  • Haloperidol
2) Giải phẫu [1,2,4]:
  • Giải quyết những chỗ dây thần kinh số 7 bị đè, chèn ép do mạch máu (microvascular decompression).
  • Bác sĩ khoan một lỗ vào xương sọ, đến chỗ TK7 chui ra từ cuống não, nhét một miếng teflon vào giữa mạch máu đang đè lên TK7 để TK7 không bị áp lực nữa.
  • Khỏi hẳn hoặc thấy giảm bớt triệu chứng trong 80-90%; một số ít có thể triệu chứng trở lại.
  • Giải phẫu có thể phức tạp, người mổ phải có chuyên môn cao về giải phẫu thần kinh; tốn kém.
  • Biến chứng: mất thính giác, tổn thương tiểu não, rò rỉ nước tuỷ sống (tổng cọng dưới 5%).(Theo Tan .[4])
3) Giải pháp hiện nay được ưa chuộng: chích độc tố botulinum vào các bắp thịt ở mặt với hướng dẫn bằng máy đo điện các cơ (botox injection with electromyographic guidance) [3,4].
Kết quả tốt trong 75-100% trường hợp [4]. Trong trường hợp hiếm, sau nhiều năm dùng thuốc có thể thuốc sẽ giảm hiệu nghiệm do cơ thể sinh ra kháng thể chống lại thuốc (immunoresistance) [4].
Tóm lại, nếu mắt giật nhẹ, có thể chứng này từ từ sẽ khỏi. Nên nhờ bs chuyên khoa mắt khám nếu dài hay nặng hơn. Nếu bịnh nặng hay co giật lan ra phía dưới mặt, hay nếu liệt TK7 trở lại, cần đi khám bs chuyên khoa thần kinh.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Viêm đa cơ tự miễn

  • Viêm đa cơ là một chứng bịnh mãn tính, làm viêm, làm yếu đi, và làm teo nhiều cơ.
  • Đây là một bịnh hiếm; trong 1 triệu người mới xảy ra vài trường hợp mỗi năm (incidence 0.5-8.4/ 1 million)
  • Bịnh xảy ra trên người trẻ (>20t) và trung niên (45-60 t), đàn bà nhiều hơn đàn ông (2:1 ratio).
  • Cơ chế bịnh: tự miễn nhiễm (autoimmune disease).
  • Miễn nhiễm (immunity): cơ chế phòng thủ cơ thể; lúc cơ thể bị xâm nhập (ví dụ, vi trùng, chất lạ từ ngoài vào [antigen, kháng sinh=chất sinh ra đề kháng] thì cơ thể sản xuất những kháng thể [antibodies] để chống lại, vô hiệu hoá, phá huỷ chúng.
  • Tuy nhiên, trong một số trường hợp, một số bộ phận đang lành mạnh của cơ thể có thể bị các kháng thể "bạn" này tấn công nhầm. Trường hợp này bịnh gây ra không phải do bên ngoài vào, mà do những sản phẩm của hệ phòng thủ, nghĩa là hệ miễn nhiễm gây ra, chúng ta từ đó gọi là bịnh tự miễn nhiễm (auto=tự mình, immune= miễn nhiễm).
  • Trong bịnh polymyositis, các cơ (muscles) bị tấn công; tương tự như vậy, nếu các kháng thể tấn công các khớp xương, thì lại sinh ra bịnh thấp khớp mãn tính (rheumatoid arthritis).
  • Các yếu tố cơ nguy (risk factors): nhiễm virus (virus coxsackie, HIV, virus viêm gan B), bịnh ung thư (cancer), di truyền (có bịnh tự miễn nhiễm trong gia đình), một số thuốc men (như thuốc hạ áp huyết ACE inhibitors, thuốc chữa sốt rét hydroxychloroquine)
Triệu chứng
  • Các cơ lớn vùng vai, vùng háng và đùi là chính. Các cơ bị yếu đều hai bên (symmetrical weakness). Các cơ nhỏ ở xa thân như bàn tay vẫn hoạt động tốt (như gài nút áo, may vá, cầm đũa)
  •  Thường các cơ vùng xương chậu và đùi bị ảnh hưởng trước. Người bịnh gặp khó khăn lúc ngồi xuống đứng dậy, bước lên thang lầu, quỳ xuống, bước lên lề đường. Sau đó cơ vùng vai yếu đi, gặp khó khăn nâng một đồ vật, chải tóc; lúc cơ ở cổ bị yếu thì không ngẩng đầu cổ lên được.
  • Tuy nhiên những cơ khác cũng có thể bị tác dụng , như cơ của lồng ngực phụ trách hô hấp (cơ kéo các xương sườn lên xuống để dãn lồng ngực), các cơ của thực quản (oesophagus, trong vách ống nối miệng với bao tử, cần những cơ phụ trách đẩy thức ăn chạy xuống về phía bao tử, cho nên dù chúng ta nằm xuống vẫn nuốt thức ăn, uống được), cơ tim.
  • Cho nên,nếu bịnh nặng, người bịnh có thể khó thở, nuốt khó, ăn uống bị nghẹn, sặc, nhiễm trùng phổi do hô hấp kém và mất phản xạ nuốt, thức ăn uống đi lạc vào phổi (aspiration pneumonia), viêm cơ tim (myocarditis).
  • Thường thì những bắp cơ phụ trách các vận động của tròng mắt (extraocular movements), và những cơ trên mặt phụ trách nhai, nét mặt, nhắm mắt, mở mắt không bị ảnh hưởng ( điểm này giúp bs phân biệt viêm đa cơ với một bịnh khác, myasthenia gravis [bịnh nhược cơ nặng], cũng hay xảy ra ở đàn bà hơn đàn ông, cũng làm yếu các cơ, nhưng lại gây ra do điểm nối dây thần kinh với bắp cơ bị gián đoạn ).
Định bịnh:
Bác sĩ căn cứ trên các triệu chứng, thử nghiệm đo các enzyme trong máu chứng tỏ các tế bào cơ bị huỷ hoại (CK), có thể cần MRI để thấy các tổn thương trong các cơ lớn, đo điện cơ đồ (EMG, electromyogram).
Chữa trị:
Thuốc được dùng có mục đích giảm viêm gây ra do hiện tượng tự miễn nhiễm.
  • Corticoid: hormon gốc tuyến thượng thận , vd: prednisone, có khả năng giảm viêm mạnh, nhưng có biến chứng như lên cân, cao huyết áp, yếu xương (osteopenia), dễ nhiễm trùng, và chính corticoid cũng gây ra viêm cơ (steroid myopathy).
  • Thường chữa thuốc prednisone liều cao chừng 4-8 tuần. Bác sĩ theo dõi tiến triển sức lực các cơ, sức chịu đựng dẻo dai (endurance) của bịnh nhân, và biến chứng của thuốc. Sau đó sẽ cho liều giảm dần, đến mức thấp nhất bịnh nhân có thể chịu đựng được về lâu dài. (Theo Medscape)
  • Nói chung , người ta bắt đầu bằng thuốc prednisone liều cao (60-80mh/ngày). Lúc đầu có thể chuyển tĩnh mạch (methylprednisolon 1gram/day x3-5 days) , sau đó uống prednisone, trong 6 tuần. Nếu sức mạnh các cơ tốt hơn, giảm liều prednisone từ từ xuống. Nếu không cải thiện về sức mạnh các cơ, dùng immunoglobulin truyền tĩnh mạch (IVIg, dose 2gram/kg )).Đồng thời giảm liều prednisone nhanh hơn.
  • Nếu thể lực không cải thiện (thấy mạnh hơn), người ta khuyên nên xét lại chẩn đoán xem có đúng (chính xác) hay không, có thể cần sinh thiết cơ bắp lại để xác nhận (consider repeat muscle biopsy). Nếu sức mạnh cơ tốt hơn, có thể lập lại chích IG đường tĩnh mạch ((5-8 tuần một lần), và dùng thêm các thuốc áp chế miễn nhiễm (miễn dịch)(immunosuppressant). (Xem sơ đồ sau đây của Nat Rev Rheumatology)
  • Các thuốc áp chế miễn dịch (ức chế hệ miễn nhiễm) (Immunosuppressant) có thể dùng phụ thêm từ đầu để giảm liều prednisone cần thiết ở mức tối thiểu: Azathioprine (có thể độc trên gan), Mycophenolate mofetil (triệu chứng tiêu hoá, có thể làm giảm bạch cầu trong máu), Methotrexate (có thể độc gan và tủy xương).
  • Trường hợp không có kết quả với prednison và IVIg: bác sĩ có thể dùng:
Rituximab (RITUXAN)(monoclonal antibody against CD20+ B cells that results in B-cell depletion for at least 6 months). Thuốc này cũng có chỉ định trị một số ung thư, với cảnh báo có thể gây phản ứng chết người lúc truyền dịch, làm bịnh viêm gan siêu vi B thức dậy, viêm não (FATAL INFUSION REACTIONS, SEVERE MUCOCUTANEOUS REACTIONS, HEPATITIS B VIRUS REACTIVATION and PROGRESSIVE MULTIFOCAL LEUKOENCEPHALOPATHY)
Cyclophosphamide (CYTOXAN) (an alkylating agent that inhibits lymphopoietic cells without affecting hematopoietic cells). Thuốc này cũng có chỉ định trị một số ung thư. Có thể độc cho bọng đái, tuỷ xương, gan.
Tacrolimus (binds to the immunophilin FKBP12 and inhibits calcineurin) cho những trường hợp viêm đa cơ khó trị. Thuốc này được dùng cho mục đích ngăn ngừa bộ phận ghép bị cơ thể người nhận chống lại, từ chối (organ rejection).

  • Bịnh nhân cần được chuyên viên vật lý trị liệu theo dõi, để trị giảm đau (vd bằng sức nóng), giúp vận động các cơ bắp (thụ động/passive movements, hoặc chủ động để tránh đừng để cơ bắp co rút lại (contracture), teo lại (atrophy) vì không dùng tới, và giúp cơ bắp sớm phục hồi cơ năng lúc bịnh thuyên giảm.
  • Những bịnh nhân bị yếu tim, hô hấp, ăn uống khó khăn cần những bác sĩ chuyên về những lãnh vực này.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Monday, October 22, 2018

Bịnh cường tuyến giáp Basedow và kinh nguyệt quá nhiều (Graves' disease and menorrhagia)

Bịnh Basedow (Graves' disease)(1) một bệnh tự miễn dịch (autoimmune disease), gồm 3 chứng: cường tuyến giáp (hyperthyroidism), bướu cổ (goiter), và lồi mắt (exophthalmos).
1) Tuyến giáp trạng (thyroid gland) là một tuyến nội tiết (endocrine gland) nằm trước cổ, hình giống như chữ H hoa, với hai thuỳ (lobe) hai bên nối với nhau bằng một cái eo (isthmus) ở giữa, nằm vắt ngang phía trước của ống khí quản. Bề cao mỗi thuỳ chừng 5-6cm, tuyến nặng chừng 25-30 gram, lúc phụ nữ có thai hay có kinh nguyệt thì to hơn bình thường một chút. Lúc do bịnh nào đó, tuyến lộ, to lên, chúng ta thường gọi là bướu cổ (goiter). Bướu giáp nặng 4kg được cắt ra từ một bịnh nhân Ấn Độ mang bịnh đã 40 năm (2). Tuyến tiết ra một hormon gọi là hormon tuyến giáp (thyroid hormone).
2) Bình thường hormon tuyến giáp cần thiết cho sức khỏe chúng ta và cho sự tăng trưởng, phát triển của trẻ em: kích thích sự tiêu dùng oxy cho biến dưỡng, tổng hợp protein.
3) Sản xuất hormon tuyến giáp được điều tiết bởi một hormon khác, gọi là TSH (thyroid stimulating hormone) kích thích các thụ thể (receptor) trong tuyến giáp. TSH do một cái tuyến khác nằm dưới não bộ (tuyến yên trước, anterior pituitary) tiết ra. Nếu có quá nhiều TSH thì tuyến giáp trạng sẽ làm việc nhiều hơn, quá mức bình thường, tình trạng đó gọi là cường giáp (cường =mạnh)(hyperthyroidism).
4) Trong bịnh Basedow (Graves disease trong Anh ngữ), cơ thể người bịnh sản xuất những kháng thể có khả năng kích thích các thụ thể (receptor) trong tuyến giáp tương tự như TSH (thyroid stimulating immunoglobulins), và có tác dụng làm tuyến giáp sản xuất thêm hormon tuyến giáp, quá nhiều, cao hơn là mức vừa phải (bình thường) tạo nên tình trạng cường giáp hay nhiễm độc giáp (thyrotoxicosis).
TSI/Thyroid-stimulating Immunoglobulins test / Xét nghiệm Immunoglobulins kích thích tuyến giáp
Immunoglobulin kích thích Tuyến giáp — TSI — là các kháng thể kích thích tuyến giáp làm tuyến giáp phì đại (to ra, hypertrophy) và giải phóng hormone tuyến giáp quá nhiều, dẫn đến cường giáp. Xét nghiệm này đôi khi còn được gọi là “kháng thể kích thích thụ thể TSH” (TSH receptor stimulating antibodies).

Phạm vi tham khảo: Nhỏ hơn hoặc bằng 1,3
Giải thích: Mức TSI được nâng lên từ 75 đến 90% ở các bệnh nhân mắc bệnh Graves. Mức TSI càng cao thì bệnh Graves càng được cho là hoạt động hơn. (Sự vắng mặt của các kháng thể này không loại trừ bệnh Graves.) Lưu ý: một số người bị bệnh Hashimoto cũng có những kháng thể này, và điều này có thể gây ra các đợt ngắn ngủi định kỳ của cường giáp.

Các thử nghiệm TSI thường được thực hiện để phát hiện bệnh Graves và để đánh giá bướu cổ độc (toxic multinodular goiter). Cũng thường được thực hiện ở phụ nữ mang thai bị bệnh Graves, trong ba tháng cuối của thai kỳ, để đánh giá nguy cơ sinh ra bị cường giáp hoặc bệnh Graves.

5)Cường giáp có nghĩa rối loạn tuyến giáp hoạt động quá mức, có quá nhiều hormon tuyến giáp được tạo ra. Tắt kinh hay hoặc kinh nguyệt bất thường là những biểu hiện thường thấy nhất với bịnh cường giáp. Gia tăng hormone tuyến giáp gián tiếp gây ra sự gia tăng trong máu của protein có khả năng liên kết với hormon giới tính (SHBG, sex hormone-binding globulin), có thể ngăn chặn sự rụng trứng.

Tuyến giáp hoạt động quá mức dẫn đến tắt kinh hay hiếm kinh nguyệt, làm giảm khả năng sinh sản. Ngoài ra, cường giáp hay nhiễm độc giáp (thyrotoxicosis) trong khi mang thai làm tăng nguy cơ sẩy thai.
6) Ở trẻ em, bịnh Basedow là nguyên nhân thường gặp nhất của bịnh cường tuyến giáp. Cao điểm ở trẻ 11-15 tuổi; ở con gái gấp 5 lần con trai. Trong gia đình, thường có một người khác cũng bịnh tuyến giáp do tự miễn dịch (autoimmune thyroid disease)
7) Ngoài triệu chứng do cường giáp , bịnh nhân Basedow còn có triệu chứng mắt do các kháng thể tác dụng trên các cơ và mô khác trong hốc mắt.
Mắt lồi (exophthalmos):
-lúc bịnh nhân nhìn xuống đất thì mí mắt trên sụp xuống chậm hơn;
-mí mắt trên rút vào, không đóng hẳn được;
-bịnh nhân khó và ít khi chớp mắt làm mắt khô.

8) Gia đình và bác sĩ có thể không nhận ra ngay là đứa bé bị bịnh Basedow; những dấu hiệu lâm sàng có thể rất mơ hồ, ví dụ:
-cháu có thể tính tình thay đổi,
-rối loạn cảm xúc (emotional disturbances),
-quậy hơn, năng động hơn trước (hyperactivity),
-tối ngủ nằm không yên, đá mền chăn ra khỏi giường,

-khó chú tâm vô bài học, bị nghi là mắc chứng thiếu chú ý (inattention).
Lần lần, bịnh rõ hơn, cháu ăn rất nhiều mà lại sụt cân, tim đập nhanh, da ướt, ngón tay run rẩy lúc dang tay ra. Cổ có thể bắt đầu to lên, tuyến giáp to hơn, đầy ra, bs khám thấy tuyến lớn , phình lên thành cái u đều đặn (diffuse goiter).

Trị liệu:

1) Thuốc làm cho tuyến giáp không dùng iod để tạo ra hormon tuyến giáp, và đồng thời ức chế hoạt động tự miễn nhiễm trong tuyến giáp (inhibition of intrathyroidal autoimmunity).
Propylthiouracil (PTU), uống 3 lần /ngày
Methimazole (Tapazole) uống 1 lần/ ngày
Biến chứng: độc tế bào máu (agranulocytosis) (dưới 0,5%); độc gan (hepatitis)(dưới 1%); thường do PTU)
Có thể cần uống thuốc 5 năm hoặc lâu hơn vì bịnh có thể tái phát mấy tháng (3-6 thang) sau khi ngưng thuốc.

2) Chất iod có phóng xạ (radioiodine treatment) cho bịnh nhân trên 10 tuổi.
3) Giải phẫu cắt bỏ một phần tuyến giáp (subtotal thyroidectomy) nếu chữa thuốc không hiệu quả.
Biến chứng giải phẫu: cường giáp còn sót, suy tuyến giáp (hypothyroidism), suy tuyến phó giáp (hypoparathyroidism), liệt thần kinh thanh quản (paralysis of vocal cords)
4) mắt lồi (exophthalmos): nếu sau khi chữa tuyến giáp, mắt lồi không giảm, bs mắt có thể dùng corticoid liều cao, giải phẫu cho bớt lồi( surgical decompression).

Chúng ta vừa điểm qua một số khái niệm căn bản giúp gia đình bịnh nhân và thính giả ý thức và tìm hiểu thêm về trường hợp bịnh phức tạp này.
Chúc bịnh nhân may mắn.

Notes:
(1)Robert James Graves: 1796-1853
“Graves gave one of the first descriptions of the association of goiter, generalized increase in metabolism and ocular abnormalities, which have come to be known as thyroid ophthalmopathy,” McKenna said. “Graves described florid thyrotoxicosis in a woman who, in retrospect, had autoimmune mediated thyrotoxicosis.”
The disease would later be identified as the most common form of hyperthyroidism. Trousseau suggested the eponym Graves’ disease. In Europe, the condition is now frequently referred to as von Basedow’s disease after Karl Adolph von Basedow. The eponym Graves’ disease is more commonly used in the United States.”
https://www.healio.com/endocrinology/thyroid/news/print/endocrine-today/%7B0e74c29f-a62b-45cc-8215-06f6771df9db%7D/robert-james-graves-1796-1853

2)https://indianexpress.com/article/india/india-news-india/himachal-pradesh-largest-ever-goiter-in-country-removed-by-igmc-doctors-2767188/
BS Hồ Văn Hiền

Viêm niệu đạo, đi tiểu nhiều

1) Niệu đạo (urethra) là cái ống dẫn nước tiểu (từ bọng đái/bladder) và tinh dịch (lúc xuất tinh/ejaculation) đi ra ngoài. Tuyến tiền liệt nằm trên đường đi của niệu đạo, vì tuyến này tiết ra một số chất góp phần vào việc tạo nên tinh dịch và nuôi dưỡng tinh trùng.
Triệu chứng:
-mủ, mủ nhớt chảy ra từ niệu đạo (purulent or mucopurulent discharge)
-tiểu khó, tiểu đau
-ngứa đầu dương vật
-đau lúc giao hợp, đau lúc xuất tinh
-tiểu có máu, tinh dịch có máu

Thử nước tiểu (urinalysis) sẽ thấy hiện diện bạch cầu (white blood cells, do mủ), chất nitrites (do các vi khuẩn nhiễm trong nước tiểu sản xuất từ các chất nitrate có trong nước tiểu), các hồng cầu (red blood cells, do máu) là chỉ dấu gián tiếp có nhiễm trùng. Nên lấy mẫu nước tiểu đầu tiên buổi sáng (first void) thì kết quả tốt hơn. Nước tiểu trong ngày có thể không có những chất kể trên ở mức phát hiện được bằng các que thử nước tiểu (urine test strip, dipstick test) vì không đủ cô đọng.
Niệu đạo có thể bị viêm do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng thường gặp nhất là nhiễm trùng do đường tính dục (STD, sexually transmitted diseases); trước đây chúng ta gọi là bịnh phong tình (venereal diseases).
STD gồm những bịnh sau đây:
1) bịnh lậu (gonorrhea): do vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae. Trong các phương tiện thử nước tiểu tìm lậu, nucleic acid amplification testing (NAAT) là nhạy bén nhất.
2) một số vi khuẩn khác như Chlamydia trachomatis, Ureaplasma urealyticum được gọi là viêm niệu đạo không phải lậu (NGU)
Lậu có triệu chứng nhanh hơn sau khi giao hợp với người bịnh (3-4 ngày), rỏ ràng hơn (chảy mủ). Các vi khuẩn khác (NGU) có thể không có triệu chứng (16%), hay ít triệu chứng, thường chỉ có nước trong chảy ra từ niệu đạo; có thể định bịnh sau khi người bạn tình có triệu chứng nên đi khám bịnh.
Thường bịnh nhân không bị tiểu láu (đi tiểu hoài/ frequency) hay khó nín tiểu (urgency); hai dấu hiệu này chỉ về phía viêm bọng đái (cystitis) hoặc hay cùng với viêm tuyến tiền liệt (prostatitis).
Chữa trị:
a) Lậu (gonorrhea, do vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae), cần chữa bằng những kháng sinh như ceftriaxone 125mg IM (single dose); thuốc uống cefixime 400 mg PO (Các lựa chọn khác: cephalosporin, như ceftizoxime 500 mg IM, hay cefoxitin 2g chích IM với uống probenecid 1g PO, hay cefotaxime 500mg chích thịt (IM), hay một liều chích spectinomycin 2g (IM).
Những thuốc nhóm quinolon vì bị vi trùng kháng thuốc nhiều nhất là ở châu Á, vùng Thái Bình Dương không được cơ quan kiểm soát bịnh Mỹ CDC khuyến cáo dùng cho bịnh lậu nữa.(Như chỉ một liều duy nhất ciprofloxacin 500 mg [PO single dose], levofloxacin (TAVANIC) 250 mg [PO single dose], hay ofloxacin 400 mg [PO single dose]).
b) Viêm niệu đạo không phải lậu (non-gonococcal urethritis, NGU)
Theo CDC, nên dùng Azithromycin 1 gram; hay doxycycline 100mgx2 lần /ngày trong 7 ngày. Tuy nhiên, tỷ lệ thất bại khác cao sau khi chữa một đợt (nhất là đối với các vi khuẩn gây NGU như M. genitalum hay U. urealyticum).
Nếu triệu chứng vẫn dai dẳng, có thể nên gửi nước tiểu đi cấy để xem vi khuẩn nào, có phải gonorrhea hay không, có kháng thuốc hay không. Cũng có thể những nguyên nhân khác như ký sinh trùng T vaginalis (chữa bằng những kháng sinh như metronidazole hay tinidazole). Hay cần xét lại cách chữa trị những những viêm niệu đạo gây ra do các chủng loại Mycoplasma hay Ureaplasma species. Có thể thay vì dùng Azithromycin 1 gram chỉ 1 lần; thay bằng cách uống doxycyclin 100x2 lần/ngày x 7 ngày, hoặc Azithromycin x 5 (500mg ngày 1, sau đó 250mg/ngày trong 4 ngày).
Nói tóm lại:
-Các chuyên gia chữa cho vị thính giả đã nghĩ đến hầu hết những khía cạnh của vấn đề (viêm niệu đạo, viêm tiền liệt...), đang dùng đủ các trị liệu có thể áp dụng cho bịnh nhân. Cần theo dõi với họ để điều chỉnh theo tình huống. Nếu viêm tuyến tiền liệt (prostatitis), sẽ còn triệu chứng phiền phức trong tương lai, và cần bác sĩ theo dõi nhiều.
Genurin (Flavoxate) là thuốc giảm co thắt đường tiểu (urinary antispasmodics)
Myonal (nimesulide) là thuốc giảm viêm (NSAID) và giảm đau. Biến chứng: ói mửa,đau bụng, men gan tăng cao, chảy máu; không uống rượu lúc dùng thuốc (có thể gây bủn rủn, yếu ớt); không thấy dùng ở Mỹ.
Xatral (alfuzosin hydrochloride/Sanofi) là thuốc alpha 1-blocker, chữa tiền liệt phì đại lành tính (BPH, benign prostatic hypertrophy); phản ứng phụ là hạ áp huyết quá thấp, cẩn thận nếu đang uống thuốc chữa áp huyết cao. Thuốc loại Xatral XL (uống một lần/ ngày, tan chậm, “prolonged release Xatral XL” không được bẻ, cắn, nhai; phải uống nguyên viên thuốc). Thuốc có thể là giãn nở các mạch máu làm da mặt (hay chỗ khác) đỏ bừng và nóng (flushes).
Chú thích: alpha 1a blockers (alpha 1a adrenergic receptor): không làm tuyến teo lại mà làm giãn nở các cơ chung quanh tiền liệt và chung quanh cổ của bàng quang, làm nước chảy thông hơn.
Phản ứng phụ: chóng mặt (áp huyết thấp), nhức đầu, xáo trộn tiêu hoá, nghẹt mũi ( loại này cũng là thuốc dùng hạ huyết áp cao)
Vì thuốc cũng tác dụng trên cơ năng của mống mắt (iris,màng che của mắt phía trước thuỷ tinh thể điều tiết lượng ánh sáng vào mắt), làm cho cơ phụ trách giãn nở mống mắt yếu đi, thuốc có thể gây trở ngại cho bác sĩ giải phẫu cườm mắt hay glaucoma (nhãn áp quá cao). Lúc lấy thuỷ tinh thể bị đục ra ngoài trước khi nhét thuỷ tinh thể nhân tạo vào thay thế, vì con ngươi không nở ra đúng cách, phẫu thuật có thể khó khăn hơn và lành lâu hơn. Nếu bịnh nhân đang dùng thuốc tamsulosin (dù là mới dùng) phải cho bác sĩ giải phẫu mắt biết để đối phó với "hội chứng mống mắt yếu trong giải phẫu", intraoperative floppy iris syndrome [IFIS)
Một số bịnh nhân có thể bị chứng xuất tinh ngược. Lúc cao điểm tình dục, tinh dịch có thể không đi ra ngoài (xuất tinh) mà đi ngược vào bọng đái vì cơ tròn kiểm soát đường vào bọng đái không đóng lại (retrograde ejaculation).

-Ở người trẻ tuổi mạnh giỏi, với những kết quả thử nghiệm không có gì đặc biệt (theo như lời của bịnh nhân, nếu đúng; ví dụ thử nước tiểu bình thường ), điều quan trọng là tránh những thử nghiệm và trị liệu không cần thiết có thể tốn kém và gây những biến chứng, phản ứng phụ và lo âu, tệ hại hơn là các triệu chứng. Cũng như nhiều lần trước, theo tôi nghĩ, nếu không yên tâm hay có những triệu chứng không cải thiện với các trị liệu chuyên khoa, vị thính giả cần tìm cho mình một bác sĩ gia đình hay bác sĩ tổng quát xem xét lại hồ sơ, tìm hiểu về bịnh sử (ví dụ có "sex" với ai, người bạn tình có triệu chứng gì không, kiểu gì, có gây tổn thương cho niệu đạo hay không), về các kết quả khám nghiệm theo thời gian thay đổi như thế nào.
-Rất quan trọng, cần thực hành "an toàn tính dục" (safe sex) với những biện pháp như condom, nhất là nếu mình "gặp gỡ" nhiều bạn tình khác nhau.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Friday, October 12, 2018

Bệnh lupus

Một trong những bệnh làm cho các bác sĩ và những nhà nghiên cứu đau đầu nhất là bệnh “lupus”. Đây là một bệnh kinh niên rất nặng và phát tác ở nhiều cơ phận của thân thể như khớp xương, da, thận, máu, tim, phổi... Bệnh thường xẩy ra nhiều cho các bà, không hiểu vì sao. Tuy nhiên, với những tiến bộ của khoa học, bệnh nhân lupus hiện tại có thể có một cuộc sống khá tốt so với thời xưa.
Triệu chứng
Một trong những cái lạ của bệnh này là không trường hợp bệnh nào giống trường hợp nào. Triệu chứng có thể đến từ từ hay bất thình lình, có thể nặng hay rất nhẹ, có thể thoáng qua rồi hết hoặc kéo dài vĩnh viễn. Tuy nhiên đa số mang bệnh nhẹ và bị những cơn bệnh nặng phát tác với triệu chứng nặng rồi lại hết đi một thời gian. 
Triệu chứng bệnh xẩy ra tùy theo lúc ấy cơ phận nào đang bị hại. Nói chung, bệnh lupus có những triệu chứng:
- Mệt mỏi
- Sốt
- Xuống hay lên cân
- Khớp xương đau, cứng, sưng lên
- Nổi vết đỏ như hình cánh bướm trên mặt, che hai má và sống mũi
- Nổi vết trên da khi ra nắng
- Lở trong miệng
- Rụng tóc
- Ngón tay và ngón chân trắng hay xanh tái khi lạnh hay khi bị stress
- Thở dốc
- Đau ngực
- Mắt bị khô
- Dễ bị bầm
- Bồn chồn lo lắng
- Trầm cảm
- Giảm trí nhớ
Khi nào nên gặp bác sĩ?
Như vậy, khi bạn mọc những vết trên da, sốt kéo dài, nhức mỏi và mệt kinh niên, bạn nên gặp bác sĩ để được định bệnh. 
Nếu bạn đã được định bệnh lupus, bạn cần gặp bác sĩ định kỳ để theo dõi bệnh trạng thường xuyên. Mỗi khi có triệu chứng gì mới, bạn cũng cần gặp bác sĩ.
Nguyên nhân
Lupus là một bệnh tự miễn nhiễm (autoimmune) tức là thay vì tấn công những vật lạ xâm nhập vào như vi trùng hay siêu vi trùng, hệ miễn nhiễm của bạn lại tấn công những cơ phận lành mạnh của cơ thể bạn, gây ra hư hoại cho khớp xương, da, thận, tim, phổi, mạch máu và óc. Hiện nay người ta vẫn chưa hiểu được tại sao hệ miễn nhiễm lại phản ứng như vậy và gây ra nhiều chứng bệnh tự miễn nhiễm mà lupus là một. Có thể nguyên nhân là di truyền và môi trường cộng lại. Những nhà khảo cứu cho rằng bạn có thể bị di truyền khả năng bị bệnh lupus chứ không phải chính bệnh ấy. Khi bị di truyền khả năng bị lupus, bệnh nhân sẽ phát bệnh khi gặp phải những yếu tố khác trong môi trường, thí dụ như thuốc men hay siêu vi nào đó.
Các loại bệnh lupus
Có bốn loại bệnh lupus, mỗi loại có cách chữa và dự đoán bệnh (prognosis) khác nhau.
1. Bệnh lupus toàn thân: xẩy ra hầu như trên tất cả các phần thân thể. Thường nhất là da, khớp xương, phổi, thận và máu. 
2. Bệnh lupus da: chỉ xẩy ra trên da. Bệnh nhân bị nổi vết hình tròn trên da mặt, cổ, đầu. Một số bệnh nhân lupus da sau đó bị bệnh toàn thân nhưng thường không thể đoán trước ai sẽ tiến tới bệnh toàn thân. 
3. Bệnh lupus của trẻ sơ sinh: hiếm và chỉ xẩy ra ở trẻ sơ sinh. Người mẹ có một số kháng thể liên quan tới bệnh tự miễn nhiễm và truyền qua cho thai nhi dù mẹ không bị bệnh. Kháng thể này có thể gây ra bệnh lupus trẻ sơ sinh. Em bé có thể nổi vết trên da trong những tuần sau khi em được sinh ra. Bệnh có thể kéo dài vài tháng trước khi biến mất. Bệnh nặng hơn có thể gây ra thất nhịp tim.
Ai dễ bị bệnh?
- Đàn bà dễ bị lupus hơn đàn ông.
- Bệnh thường xẩy ra nhất ở khoảng tuổi 15 tới 40 tuy rằng tuổi nào cũng có thể bị bệnh.
- Người da đen, Mễ và Á châu dễ bị bệnh hơn.
- Ra nắng có thể khởi lên bệnh lupus da hoặc những phản ứng nội tạng nơi một số người. Tại sao thì chưa được biết rõ tuy các nhà nghiên cứu nghĩ rằng ánh sáng mặt trời có thể làm các tế bào da tiết ra một số chất đạm kết hợp với những kháng thể có sẵn trong người gây ra những phản ứng viêm. Những tế bào da cũng chết sớm hơn nơi người bệnh lupus, gây ra thêm nhiều phản ứng viêm.
- Một số thuốc có thể gây ra bệnh lupus như thuốc chống bệnh điên chlorpromazine, thuốc trị bệnh cao máu hydralazine, thuốc ngừa lao isoniazid, thuốc tim procainenamide. Người ta bị bệnh lupus sau khi uống những thuốc này lâu năm. Tuy nhiên chỉ một số phần trăm nhỏ uống những thuốc này mắc bệnh.
- Nhiễm siêu vi Epstein- Barr. Hầu như ai cũng đã từng mắc bệnh siêu vi E. Barr. Siêu vi này gây ra những bệnh nhẹ như sốt, đau cổ. Sau khi bệnh hết, con siêu vi này vẫn còn nằm trong những tế bào của hệ miễn nhiễm cho đến khi khởi lên lại và làm tăng nguy cơ bị bệnh lupus.
- Bị nhiễm hóa chất. Một số hóa chất như thủy ngân và silica có thể gây ra bệnh lupus cho những công nhân làm trong nhà máy sử dụng những chất này. Hút thuốc cũng có thể làm tăng nguy cơ bị lupus.
Biến chứng
Bệnh lupus phát ra ở nhiều nơi trên thân thể người bệnh
- Thận: bệnh lupus gây ra bệnh thận rất nặng và suy thận là một trong những nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất cho bệnh nhân lupusGần ba phần tư bệnh nhân lupus sẽ bị bệnh thận trong 2 năm đầu sau khi định bệnh. Tuy nhiên có nhiều thuốc để chữa bệnh này. Triệu chứng của bệnh thận gồm có ngứa ngáy toàn thân, đau ngực, buồn nôn, ói mửa, sưng phù chân, lên cân.
- Hệ thần kinh: triệu chứng gồm có nhức đầu, chóng mặt, thay đổi tính tình, bị ảo giác và làm kinh. 80% bệnh nhân lupus thần kinh có thể bị lú lẫn, trí nhớ sút giảm và khó khăn khi diễn tả ý tưởng.
- Máu và mạch máu: Bệnh nhân lupus có thể bị thiếu máu, dễ chảy máu và máu khó đông. Họ cũng có thể bị viêm mạch máu, nguyên nhân của 7% các trường hợp tử vong.
- Phổi: Bệnh nhân lupus dễ bị viêm màng bọc phổi khiến bị đau nhức khi thở. Bệnh nhân cũng dễ bị sưng phổi. Đa số bệnh nhân phổi có thể được định bệnh nhờ những thử nghiệm. Biến chứng phổi ít khi nặng và thường không có dấu hiệu báo trước.
- Tim: Bệnh nhân lupus có thể bị viêm cơ tim, viêm động mạch vành tim hay màng bọc tim. Họ cũng dễ bị các bệnh tim mạch và dễ bị đột quỵ tim. Gần 40% bệnh nhân lupus bị bệnh cứng động mạch sớm trước tuổi so với tỉ lệ chỉ 15% cho người không bị lupus. Giữ cho huyết áp và mực cholesterol không tăng cao, không hút thuốc và vận động thân thể thường xuyên là những cách giúp giảm nguy cơ bệnh tim.
- Bệnh nhiễm trùng: Bệnh nhân lupus rất dễ bị nhiễm trùng vì cả bệnh lẫn thuốc chữa đều ảnh hưởng đến hệ miễn nhiễm. Đã vậy, nhiễm trùng còn làm cho bệnh phát tác nặng lên khiến càng dễ bị nhiễm trùng thêm. Những bệnh nhiễm trùng thông thường nhất cho bệnh nhân lupus gồm có nhiễm trùng đường tiểu, những bệnh hô hấp thông thường như cảm, bệnh nhiễm vi nấm, nhiễm vi trùng salmonella, siêu vi herpes, và bệnh giời leo. Những bệnh nhiễm trùng nặng hơn như sung phổi gây khoảng 1/3 số tử vong.
- Ung thư: Bệnh nhân lupus dễ bị ung thư, nhiều nhất là ung thư hạch bạch huyết loại non- Hodgkin và ung thư phổi. Thuốc làm giảm miễn nhiễm, đôi khi dùng để chữa bệnh lupus, cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư.
- Mô tế bào xương bị chết: Gây ra do bệnh hay do thuốc steroid dùng chữa bệnh lupus. Máu đến nuôi xương bị giảm xuống khiến có những lỗ hổng trong xương và cuối cùng là xương bị gãy. Khớp xương háng dễ bị nhất. Khoảng 1 trong 10 bệnh nhân lupus bị biến chứng này.
- Biến chứng khi mang thai: Bệnh nhân lupus dễ bị sẩy thai. Họ cũng bị bệnh nặng lên khi mang thai, dễ bị tăng huyết áp và sinh non. Bác sĩ thường khuyên bệnh nhân lupus chờ cho đến khi bệnh giảm hẳn ít nhất là được 1 năm trước khi tính chuyện có thai.
Định bệnh
Định bệnh lupus rất khó vì triệu chứng ở mỗi người đều khác nhau, lại có thể thay đổi theo thời gian và nhiều khi giống với triệu chứng những bệnh khác. Do đó nhiều khi lúc đầu bác sĩ không nghĩ là bệnh lupus cho dến khi triệu chứng trở nên rõ rệt. Ngay cả lúc này, định bệnh cũng khó vì đa số bệnh nhân lupus bị bệnh lúc nặng lúc nhẹ, có lúc lại hoàn toàn khỏe mạnh.

Hội Phong Thấp Hoa Kỳ đã đưa ra những tiêu chuẩn định bệnh lupus. Trong bảng danh sách triệu chứng bệnh sau, nếu bệnh nhân có 4/11 triệu chứng thì nhiều phần là họ đang bị lupus. Đôi khi bác sĩ cũng có thể nghi ngờ bạn bị lupus dù bạn có ít hơn 4 triệu chứng. Những tiêu chuẩn định bệnh của Hội Phong Thấp gồm có:
- Nổi đỏ trên mặt, hình như con bướm vắt ngang hai gò má và sống mũi.
- Nổi mẩn đỏ như vảy cá
- Nổi mẩn đỏ sau khi ra nắng
- Lở miệng nhưng không đau
- Sưng và đau ở hai khớp xương hay nhiều hơn
- Sưng màng bọc phổi hay tim
- Bệnh thận
- Bệnh hệ thần kinh, thí dụ như làm kinh hay bị điên
- Các tế bào máu như hồng huyết cầu, tiểu cầu hay bạch huyết cầu bị giảm đi 
- Thử nghiệm antinuclear antibody dương tính
- Các thử nghiệm về bệnh tự miễn nhiễm khác cũng dương tính
Chữa trị
Cách chữa trị tùy theo lúc ấy triệu chứng gì xuất hiện. Bệnh nhân nên bàn luận với bác sĩ về các triệu chứng của mình cũng như các thuốc men và cách chữa trị. Khi triệu chứng giảm xuống hay mất đi, bệnh nhân cũng cần bàn luận với bác sĩ về chuyện thay đổi chữa trị.
1. Những thuốc thường dùng chữa lupus: 
Những thuốc này dùng chữa bệnh nhẹ hay nặng vừa phải. Nếu bệnh nặng hơn, có thể phải dùng những thứ thuốc khác.
- Thuốc chống viêm không phải là steroids (non steroidal anti- inflammatory) hay NSAIDs như Advil, Naproxen... Những thuốc này bán tự do nhưng bệnh nhân cần hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng vì những phản ứng phụ rất nặng xẩy ra cho người bệnh lupus.
- Thuốc chữa sốt rét: Tuy 2 bệnh không liên quan gì với nhau nhưng người ta đã thấy tác dụng tốt của thuốc chữa sốt rét trên bệnh nhân lupus. Thuốc này cũng có những phản ứng phụ tai hại
- Thuốc corticosteroid: Những thuốc này chống lại nhưng phản ứng viêm của bệnh lupus nhưng dùng lâu ngày sẽ đưa đến những tác dụng tai hại như lên cân, dễ bị bầm, xương bị rỗng, cao huyết áp, tiểu đường, và dễ bị nhiễm trùng. Bác sĩ sẽ phải cố gắng dùng liều nhỏ nhất có thể chữa được bệnh để giảm thiểu tai hại.
2. Chữa theo triệu chứng
- Sưng và đau khớp xương: Lúc đầu thường được chữa bằng NSAIDs nhưng nếu không bớt, có thể phải dùng thuốc sốt rét hay thuốc corticosteroids.
- Mẩn đỏ trên da: Ánh nắng mặt trời có thể gây ra mẩn đỏ nhưng đôi khi ngay cả đèn nê ông cũng có thể làm bệnh nhân nổi đỏ. Mẩn đỏ được chữa bằng thuốc bôi có chất steroids hoặc thuốc uống giống trên.
- Mệt mỏi: Chữa theo nguyên nhân, có thể là do khó ngủ, trầm cảm hay đau nhức. Nếu không có nguyên nhân gì rõ rệt, bác sĩ có thể dùng thuốc như trên.
- Sưng chung quanh tim và phổi: Cũng chữa bằng những thuốc trên.
3. Chữa bệnh nặng nguy đến tính mạng
Bệnh lupus trở nặng làm nguy tính mạng khi gây bệnh thận, sưng trong các mạch máu hoặc bệnh hệ thần kinh, cần được chữa mạnh mẽ hơn bằng liều cao thuốc corticosteroids hay thuốc chống miễn nhiễm hoặc dùng cả hai một lúc để làm bớt liều lượng, bớt tác dụng phụ. Ngay cả khi dùng thuốc với liều cao, bệnh nhân vẫn có thể bị bại thận cần phải đi lọc hay thay thận. Hiện người ta đang nghiên cứu nhiều loại thuốc mới nhưng phải cần có thời gian thử nghiệm.
4. Chữa bằng ngoại khoa (alternative medicine)
Ngoài những cách chữa trên, nếu bệnh nhân không thấy thuyên giảm hoặc nếu muốn, bệnh nhân có thể theo chữa những phương pháp khác. Có thể bàn luận với bác sĩ để tìm hiểu xem các phương pháp mình muốn dùng có ảnh hưởng đến các thuốc đang uống hay có gì tai hại không vì phần nhiều các cách chữa ngoại khoa chưa được kiểm chứng rõ rệt. Những cách chữa này thường gồm có uống dầu cá hay flaxseed.
Tự giúp
Bệnh nhân lupus có thể sống một cuộc sống tương đối thoải mái nếu chịu theo những cách tự giúp sau đây:
- Nghỉ ngơi đầy đủ: bệnh nhân lupus thường bị mệt mỏi thường xuyên, khác với cái mệt mỏi của người không bệnh. Họ nên ngủ đầy đủ hoặc nghỉ ngơi thêm trong ngày. Người thân và bạn bè nên để cho họ ngủ nghỉ đủ.

- Tránh mặt trời: Luôn mặc quần áo kín, đội nón, áo tay dài, quần dài và bôi kem chống nắng chỉ số ít nhất là 15, mỗi lần ra khỏi nhà, dù chỉ là ít phút. Phải bảo vệ cả tai, da đầu và lưng bàn tay. Lúc mặt trời nóng nhất là từ 10 giờ sáng tới 4 giờ chiều nên tránh ra khỏi nhà. Ngay cả đèn huỳnh quang trong nhà cũng có thể gây ra cơn bệnh, họ cũng phải mặc đồ kín và bôi kem chống nắng trong nhà hoặc dùng thiết bị chắn tia UV từ các đèn này.

- Vận động thân thể: Tập thể dục giúp bệnh nhân mau lành bệnh khi bị cơn bệnh nặng, giúp giảm nguy cơ đột quị tim, chống trầm cảm và cảm thấy vui khỏe hơn. Vận động thân thể theo sức chịu đựng của mình, ít nhất 30 phút mỗi ngày chia ra làm nhiều lần. Nếu thấy mệt quá thì có thể nghỉ.

- Không hút thuốc vì thuốc lá có thể làm tăng tai hại của bệnh lupus trên tim mạch.
- Ăn uống lành mạnh tức nhiều trái cây, rau và ngũ cốc nguyên hạt. Đôi khi bệnh nhân phải ăn kiêng nếu bị cao huyết áp, hư thận hay bệnh đường tiêu hóa. Tránh những thức ăn có vẻ làm triệu chứng bệnh tăng lên.
- Tránh bị trầm cảm hay lo lắng quá độ và mặc cảm bằng cách tìm hiểu kỹ về bệnh của mình trong sách vở hay internet. Viết xuống giấy những thắc mắc để hỏi bác sĩ trong những lần đi khám bệnh. Càng hiểu biết nhiều về bệnh, bạn càng tự tin trong việc chọn lựa những cách chữa trị cho mình. Cũng nên nói chuyện nhiều với bạn bè người thân để họ cũng hiểu rõ về bệnh lupus. Họ có thể hiểu sai về mình vì đôi khi bệnh nhân lupus trông rất khỏe mạnh. Dành thì giờ cho chính mình để tập cho bớt stress. Bệnh nhân có thể đọc sách, thiền, nghe nhạc hoặc viết lách. Tìm những hoạt động êm ả hợp với mình. Bệnh nhân cũng nên gia nhập các nhóm hỗ trợ người bệnh lupus đề tiếp xúc với những người đồng bệnh và chia sẻ cảm xúc cũng như những tin tức mới về bệnh.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Khát nước sau khi gội đầu

Trong cơ thể chúng ta, hết 70% trọng lượng là nước. Nếu thiếu nước, lượng máu sẽ thu nhỏ lại, nhiệt độ cơ thể không ổn định, áp huyết tụt xuống (hypotension), tim, thận, não bộ không làm việc bình thường được. Chỉ thiếu nước vài ngày là có thể chết được. Do đó chúng ta có khả năng biết lúc nào cơ thể cần nước thêm, đó là lúc chúng ta thấy khát nước. Nói chung, lúc chúng ta thấy khát nước là lúc cơ thể đã bắt đầu thiếu nước rồi. Đọc báo hay internet, sẽ có nhiều người nhắc đến nhu cầu phải uống 8oz nước 8 lần/ ngày cho người lớn ("luật" 8x8). Tuy nhiên, không có cơ sở chắc chắn và còn tùy trường hợp. Có lẽ hướng dẫn an toàn nhất là uống nước lúc khát nước và trong những trường hợp đặc biệt như thể thao kéo dài nhiều giờ (ví dụ chạy marathon, bịnh tiêu chảy nặng) cần để ý bổ sung các chất điện giải bị mất qua mồ hôi hay phân lỏng.
Lúc nào chúng ta thấy khát nước:
1) Lúc máu chúng ta đậm đặc hơn bình thường. Ví dụ người ra nắng, chạy marathon, mồ hôi ra nhiều . Những chất muối (dưới hình thức là chất điện giải/electrolytes) như sodium ( Natri, Na+), hay những chất khác như đường tạo nên một áp suất thẩm thấu (osmotic pressure) có khuynh hướng rút thêm nước từ chỗ khác vào nếu chỗ đó có osmolality thấp hơn. Trong tình trạng quân bình, mức thẩm thấu (osmolality [osm/kg] hay osmolarity[osm/liter]) trong tế bào (intracellular osmolality) ngang với mức ngoài tế bào (extracellular osmolality) và trong mạch máu (intravascular osmolality). Não bộ chúng ta có một bộ phận tên hypothalamus, trong đó có những "trung tâm" hay nhóm tế bào phụ trách nhiệt độ cơ thể , giấc ngủ và khẩu vị (làm chúng ta muốn thèm ăn hay không). Ở hypothalamus còn có một trung tâm kiểm soát chúng ta có "khát" hay không, cần uống nước hay không. Tuỳ theo các tín hiệu nhận được từ các thụ thể đo Natri và các chất khác trong máu cho biết các chất này lên quá cao (vì máu quá cô đọng lúc bị mất nước, osmolality cao), cũng như từ những thụ thể ở nơi khác gửi về báo cho biết là thể tích máu bị giảm quá thấp (hypovolemia, vì mất nước hay chảy máu), hay áp huyết bị sa sút (hypotension), hypothalamus sẽ cho não bộ cao cấp hơn tín hiệu là chúng ta cần uống nước thêm vào, nghĩa là chúng ta ý thức thấy khát nước. (Để cho dễ hiểu, tương tự như lúc chúng ta nấu một nồi cháo. Nếu chúng ta thấy cháo quá đặc nghĩa là osmolality lên cao, hay nếu mức nước trong nồi quá thấp, có nghĩa là thể tích cháo giảm quá thấp, đó là những dấu hiệu cho thấy người nấu bếp cần cho thêm nước vào nồi, tương tự như khát nước, phải uống thêm nước để tái lập quân bình trong cơ thể.)
2) Tuy nhiên, cần uống nước loại gì cũng là vấn đề quan trọng. Ví dụ những người chạy marathon, đa xe đạp trong nhiều giờ liên tiếp mất nước nhiều vì chảy mồ hôi, thở nhanh và nước mất qua mồ hôi và hơi thở. Nhưng trong mồ hôi có rất nhiều muối (dạng electrolytes như Natri (Na+) , potassium (K+), magnesium (Mg++), calcium (Ca++)), nên nếu uống nước lã (plain water) không tốt, phải là dung dịch có chứa những chất điện giải thay thế, ví dụ những dung dịch bào chế cho vận động viên (vd Gatorade). Những người bị tiêu chảy nhiều cũng mất các chất điện giải, nhất là potassium, và trong nước họ uống cần có những chất này để thay thế (vd Pedialyte, nước canh, cháo, chanh muối). Nếu chỉ dùng nước lã, nhất là uống nước nhiều quá, có thể gây biến chứng nguy hiểm do rối loạn các chất điện giải.
3) Ngoài ra , hypothalamus sản xuất thêm chất nội tiết vasopressin, chất này được tuyến yên (pituitary gland) tiết vào máu, đi đến thận và ra lệnh cho thận giữ nước lại nhiều hơn, giảm bớt lượng nước bị thải trong nước tiểu.
4) Một số người già , vì lý do không rõ, không nhận được tín hiệu từ hypothalamus biểu họ phải uống thêm nước, họ có thể bị mất nước hay thiếu nước, sụt cân, tụt áp huyết, nếu không có người theo dõi lượng nước tiểu, lần đi tiểu và nhắc nhở họ uống nước.
5) Hay các thụ thể (receptors) đo nồng độ muối của hypothalamus bị hư, hay tuyến yên (pituitary gland) của họ bị hư hại, hay thận của họ không đáp ứng với "lệnh" từ chất vasopressin làm cho bịnh nhân đi tiểu quá nhiều, làm họ mất nước nhiều, cần phải uống đến 1-20 lít nước mỗi ngày mới đủ nhu cầu quân bình nước trong cơ thể. Đây là bịnh "đái tháo nhạt" (diabetes insipidus), khác với bịnh "tiểu đường" hay “đái tháo đường” (diabetes mellitus). Người bịnh tiểu đường (diabetes) cũng mất nước nhưng do đường glucose quá nhiều trong máu, tràn vào nước tiểu và kéo theo một lượng nước lớn. Cả hai loại bịnh nhân đều uống nhiều nước (polydipsia).
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Cơn tim đập mạnh, choáng váng, hoa mắt, đi xiêu xiêu

1) Áp huyết thấp (hypotension), thường được định nghĩa như là áp suất kỳ thu tâm = hoặc < 90mm thuỷ ngân (systolic pressure = or <90 mmHg), áp suất trương tâm= hoặc < 60 mmHg (diastolic pressure = or <60 mm Hg). tuy nhiên cũng tùy theo bịnh nhân, tuổi bịnh nhân, áp huyết thông thường của người đó. Có nhiều nguyên nhân, giản dị như bịnh nhân thiếu nước, bị xúc động, ngâm nước nóng quá lâu (mạch máu giãn nở), có thai, ít vận động. Phức tạp hơn ví dụ bịnh nhân thiếu máu (anemia, bần huyết, lượng hồng cầu quá thấp), chảy máu đâu đó (ví dụ rong kinh, chảy máu bao tử, ruột), hay suy cơ năng tuyến giáp (hypothyroidism), nang thượng thận (adrenal glands, bịnh Addison: đi đôi với da sẫm màu [hyperpigmentation], các vùng niêm mạc như miệng cũng đen hơn bình thường), nhiễm trùng máu, phản ứng thuốc, dị ứng, phản vệ (anaphylaxis=huyết áp hạ nhanh, shock kèm theo khó thở, nổi mẩn ngoài da). Cũng nên nêu rõ áp huyết thấp (hypotension) và thiếu máu (anemia) là hai bịnh khác nhau, mặc dù thiếu máu có thể gây ra áp huyết thấp, chóng mặt, xỉu.
Nói chung chúng ta không muốn áp huyết cao, và áp suất thấp là mục đích của chữa trị bịnh cao áp huyết. Tuy nhiên, nếu áp huyết thấp kèm theo các chứng như chóng mặt, muốn xỉu, mờ mắt, ói, tay chân lạnh, xanh xao, thở khó hay yếu, chán nản, trầm cảm (depression), nên đi khám bác sĩ.
2) Bịnh nhân ăn uống thất thường, người già ăn không ngon miệng, không muốn ăn, có thể làm đường trong máu xuống thấp (hypoglycemia). Ăn những món rất ngọt (như bánh ngọt, chè, cháo, cà phê pha sữa đặc có đường) đi nhanh vào ruột non đường được hấp thụ,có thể làm đường máu tăng nhanh, cơ thể sản xuất insulin để kéo mức đường thấp xuống, do phản ứng quá độ, mức đường có thể tụt xuống quá nhanh một thời gian. Một đến 3 giờ sau khi ăn uống, làm chóng mặt, lạnh tay chân, tim đập nhanh, muốn xỉu ("late dumping syndrome"/hội chứng "trút" đường vào máu trễ). Phân biệt với "dumping syndrome' thường, với triệu chứng tương tự, với tiêu chảy,đau bụng nhưng xảy ra 10-30 phút sau khi ăn uống, hay nhanh hơn, ở người từng bị phẫu thuật cắt bỏ dạ dày hay thu hẹp dạ dày để sụt cân.
3) TIA (Transient Ischemic Attack), tạm giải nghĩa giản dị là những cơn óc thiếu máu một cách thoáng qua, nghĩa là triệu chứng thần kinh nhẹ thôi, và đảo ngược nhanh chóng [<24 h]; còn gọi là mini-strokes. Triệu chứng có thể là: mờ mắt, nhức đầu, chóng mặt, ù tai, trầm cảm. Bác sĩ có thể dùng các phương tiện hình ảnh để khảo sát bộ óc và các mạch máu liên hệ (angiography): MRI, MRA (magnetic resonance arteriography), CT, siêu âm (sonography).
Thường mạch máu bị nghẽn là động mạch carotid ở cổ đem máu vào óc, phụ trách phần trước của não bộ. Một số trường hợp máu vào bộ óc phía sau không đủ do động mạch từ xương sống (vertebral arteries) vào đáy não bị nghẽn (vertebrobasilar insufficiency). Vùng sau của não bộ quan trọng cho ý thức về thăng bằng cho nên triệu chứng quan trọng nhất là chóng mặt, cảm giác xoay quanh. Lúc bịnh nhân quay đầu, vì động mạch xương sống có thể bị nghẽn ở vị trí này, máu lên đầu không đủ, làm cho bịnh nhân chóng mặt, nhìn một vật thành hai, yếu các cơ 4 đầu ở đùi, khuỵu xuống và có thể té. Các triệu chứng này chỉ xảy ra trong thời gian ngắn (nôi trong 24 giờ).
Bác sĩ có thể dùng aspirin để làm tiểu cầu (platelets) bớt co cụm, dính lại và giải phẫu bóc các plaque xơ vữa trong động mạch carotid bị nghẽn 70-99% (CEA), (carotid endarterectomy). Nếu không chữa được bằng thuốc, người ta chữa những trường hợp này bằng cách nối một động mạch lành mạnh ngoài da đầu vào óc để nuôi phần óc bị thiếu máu ( micro revascularization procedures).

Những biện pháp giảm thiểu các yếu tố cơ nguy như giảm huyết áp nếu quá cao, dùng thuốc statin giảm cholesterol trong máu, giảm cơ năng làm đông máu của tiểu cầu bằng aspirin, thay đổi nếp sống cho lành mạnh hơn (lifestyle modification) như vận động nhiều hơn, tránh ngồi một chỗ, bỏ thuốc lá.
Những người bị thiếu máu não bộ do các động mạch ở cổ bị xơ vữa (atherosclerosis) cần cẩn thận lúc đi làm tóc ngưỡng cỗ gội đầu (Beauty Parlour Syndrome; BPS), lúc ngắm nhìn một vật gì trên cao ( Golden Gate Bridge Syndrome) , tập yoga; ngưỡng cổ ra nhiều quá có thể làm trở ngại cho máu lưu thông trong các mạch cổ nếu chúng đã từng bị hư hại sẵn.
4) Bịnh chóng mặt (vertigo, dizziness) có nhiều nguyên nhân khác nhau. Nguyên nhân có thể do một rối loạn của bộ phận tai trong (inner ear), phụ trách về các cảm nhận về vị trí đầu và cơ thể, thay đổi về gia tốc (acceleration), hay về trọng lượng, sức hút của quả đất (gravity, lực hấp dẫn). Nguyên nhân cũng có thể do rối loạn ở não bộ, là nơi tiếp nhận và xử lý cuối cùng của các tín hiệu từ tai trong vào. (ví dụ, chóng mặt là một trong những triệu chứng đầu tiên của bịnh Parkinson). Phân biệt các nguyên nhân khác nhau rất khó, bác sĩ tai mũi họng và bác sĩ thần kinh (neurologist) cần thu thập nhiều dữ kiện và nhiều khi không kết luận được dứt khoát.
5) Bịnh chóng mặt từng cơn kéo dài hàng tuần có thể là một triệu chứng của bịnh đau đầu migraine (mà chúng ta gọi là bịnh nhức đầu một bên, nhưng không phải luôn luôn như vậy) Migraine có thể biểu hiện nhiều cách khác nhau, có lúc khó phân biệt với tai biến mạch máu não (stroke). Migraine có thể được báo trước bằng những âm thanh , mùi vị và ánh sáng (như sáng chớp), hay có khi bằng những ảo giác gọi là aura (theo nghĩa thường ngoài y khoa, “aura” có nghĩa là hào quang).
6) Chứng chóng mặt cũng có thể do một rối loạn ở tai trong gọi là bịnh Ménière (Meniere’s disease), gồm những triệu chứng sau đây:
a) Chóng mặt xoay vòng vòng (rotational vertigo), thường trong vài phút hay vài giờ, nhưng có thể kéo dài vài ngày, vài tuần.
b) Giảm thính giác lúc nhiều lúc ít (fluctuating hearing loss), âm thanh bị biến dạng, hay nhạy cảm quá mức với tiếng động (hypersensitivity to noises)
c) Nghe những âm thanh bất bình thường trong tai (tinnitus)
d) Cảm giác nặng, áp suất trong tai (một hay 2 bên) (sensation of fullness or pressure).
7) Những triệu chứng như chóng mặt , nhức đầu, tay chân co rút, ù tai, mệt mỏi (“co giật các cơ tay, chân, mắt ... tôi cũng bị đau vai gáy” ) có thể dính líu tới bịnh trầm cảm (depression).
8) Bịnh nhân có bịnh tim hay triệu chứng tim trong quá khứ hay không, hay trong gia đình?
Các triệu chứng có thể do một rối loạn nào đó của nhịp tim(arrhythmia). Có thể bs đã đo tâm điện đồ (ECG). Nếu ECG bình thường, vẫn còn khả năng tim gây ra các triệu chứng.
Có thể bác sĩ gia đình sẽ giới thiệu với bs chuyên về tim mạch (cardiologist) và bịnh nhân được đo tim trong lúc đang exercise, ví dụ chạy trên treadmill, xem lúc mức dùng sức lực nhiều, nhu cầu máu vào nuôi tim có được đáp ứng đầy đủ không, có rối loạn trong ECG hay không (stress test). BS chuyên tim mạch cũng có thể cho bịnh nhân mang một máy theo dõi ECG trong thời gian vài ngày hay cả tháng; máy thu lại các dữ kiện về tim lúc người bịnh đang ở những tư thế, hoạt động khác nhau (ngủ, làm việc, tập thể dục, ăn..); nếu có hiện tượng bất thường bs có thể liên hệ với hoạt động nào, thời điểm nào (Holter monitoring).

Nói tóm lại, cần một bác sĩ riêng để nghiên cứu hồ sơ tường tận. Nếu cần nhờ các bác sĩ chuyên khoa về thần kinh , bác sĩ tai mũi họng, và bác sĩ chuyên về tim mạch, bác sĩ thần kinh (neurologist). Nói chung, chữa huyết áp cao (nếu có), hạ mức cholesterol và mỡ trong máu. Nếu bác sĩ thấy có ích dùng aspirin để giảm khả năng máu đóng cục. Vận động cơ thể, bỏ thuốc lá, bỏ hay giảm rượu, sinh hoạt nhiều hơn với gia đình, cọng đồng có thể đem lại tình trạng sức khỏe tốt hơn.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền