1) Niệu đạo (urethra) là cái ống dẫn nước tiểu (từ bọng đái/bladder) và tinh dịch (lúc xuất tinh/ejaculation) đi ra ngoài. Tuyến tiền liệt nằm trên đường đi của niệu đạo, vì tuyến này tiết ra một số chất góp phần vào việc tạo nên tinh dịch và nuôi dưỡng tinh trùng.
Triệu chứng:
-mủ, mủ nhớt chảy ra từ niệu đạo (purulent or mucopurulent discharge)
-tiểu khó, tiểu đau
-ngứa đầu dương vật
-đau lúc giao hợp, đau lúc xuất tinh
-tiểu có máu, tinh dịch có máu
Thử nước tiểu (urinalysis) sẽ thấy hiện diện bạch cầu (white blood cells, do mủ), chất nitrites (do các vi khuẩn nhiễm trong nước tiểu sản xuất từ các chất nitrate có trong nước tiểu), các hồng cầu (red blood cells, do máu) là chỉ dấu gián tiếp có nhiễm trùng. Nên lấy mẫu nước tiểu đầu tiên buổi sáng (first void) thì kết quả tốt hơn. Nước tiểu trong ngày có thể không có những chất kể trên ở mức phát hiện được bằng các que thử nước tiểu (urine test strip, dipstick test) vì không đủ cô đọng.
Niệu đạo có thể bị viêm do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng thường gặp nhất là nhiễm trùng do đường tính dục (STD, sexually transmitted diseases); trước đây chúng ta gọi là bịnh phong tình (venereal diseases).
STD gồm những bịnh sau đây:
1) bịnh lậu (gonorrhea): do vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae. Trong các phương tiện thử nước tiểu tìm lậu, nucleic acid amplification testing (NAAT) là nhạy bén nhất.
2) một số vi khuẩn khác như Chlamydia trachomatis, Ureaplasma urealyticum được gọi là viêm niệu đạo không phải lậu (NGU)
Lậu có triệu chứng nhanh hơn sau khi giao hợp với người bịnh (3-4 ngày), rỏ ràng hơn (chảy mủ). Các vi khuẩn khác (NGU) có thể không có triệu chứng (16%), hay ít triệu chứng, thường chỉ có nước trong chảy ra từ niệu đạo; có thể định bịnh sau khi người bạn tình có triệu chứng nên đi khám bịnh.
Thường bịnh nhân không bị tiểu láu (đi tiểu hoài/ frequency) hay khó nín tiểu (urgency); hai dấu hiệu này chỉ về phía viêm bọng đái (cystitis) hoặc hay cùng với viêm tuyến tiền liệt (prostatitis).
Chữa trị:
a) Lậu (gonorrhea, do vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae), cần chữa bằng những kháng sinh như ceftriaxone 125mg IM (single dose); thuốc uống cefixime 400 mg PO (Các lựa chọn khác: cephalosporin, như ceftizoxime 500 mg IM, hay cefoxitin 2g chích IM với uống probenecid 1g PO, hay cefotaxime 500mg chích thịt (IM), hay một liều chích spectinomycin 2g (IM).
Những thuốc nhóm quinolon vì bị vi trùng kháng thuốc nhiều nhất là ở châu Á, vùng Thái Bình Dương không được cơ quan kiểm soát bịnh Mỹ CDC khuyến cáo dùng cho bịnh lậu nữa.(Như chỉ một liều duy nhất ciprofloxacin 500 mg [PO single dose], levofloxacin (TAVANIC) 250 mg [PO single dose], hay ofloxacin 400 mg [PO single dose]).
b) Viêm niệu đạo không phải lậu (non-gonococcal urethritis, NGU)
Theo CDC, nên dùng Azithromycin 1 gram; hay doxycycline 100mgx2 lần /ngày trong 7 ngày. Tuy nhiên, tỷ lệ thất bại khác cao sau khi chữa một đợt (nhất là đối với các vi khuẩn gây NGU như M. genitalum hay U. urealyticum).
Nếu triệu chứng vẫn dai dẳng, có thể nên gửi nước tiểu đi cấy để xem vi khuẩn nào, có phải gonorrhea hay không, có kháng thuốc hay không. Cũng có thể những nguyên nhân khác như ký sinh trùng T vaginalis (chữa bằng những kháng sinh như metronidazole hay tinidazole). Hay cần xét lại cách chữa trị những những viêm niệu đạo gây ra do các chủng loại Mycoplasma hay Ureaplasma species. Có thể thay vì dùng Azithromycin 1 gram chỉ 1 lần; thay bằng cách uống doxycyclin 100x2 lần/ngày x 7 ngày, hoặc Azithromycin x 5 (500mg ngày 1, sau đó 250mg/ngày trong 4 ngày).
Nói tóm lại:
-Các chuyên gia chữa cho vị thính giả đã nghĩ đến hầu hết những khía cạnh của vấn đề (viêm niệu đạo, viêm tiền liệt...), đang dùng đủ các trị liệu có thể áp dụng cho bịnh nhân. Cần theo dõi với họ để điều chỉnh theo tình huống. Nếu viêm tuyến tiền liệt (prostatitis), sẽ còn triệu chứng phiền phức trong tương lai, và cần bác sĩ theo dõi nhiều.
Genurin (Flavoxate) là thuốc giảm co thắt đường tiểu (urinary antispasmodics)
Myonal (nimesulide) là thuốc giảm viêm (NSAID) và giảm đau. Biến chứng: ói mửa,đau bụng, men gan tăng cao, chảy máu; không uống rượu lúc dùng thuốc (có thể gây bủn rủn, yếu ớt); không thấy dùng ở Mỹ.
Xatral (alfuzosin hydrochloride/Sanofi) là thuốc alpha 1-blocker, chữa tiền liệt phì đại lành tính (BPH, benign prostatic hypertrophy); phản ứng phụ là hạ áp huyết quá thấp, cẩn thận nếu đang uống thuốc chữa áp huyết cao. Thuốc loại Xatral XL (uống một lần/ ngày, tan chậm, “prolonged release Xatral XL” không được bẻ, cắn, nhai; phải uống nguyên viên thuốc). Thuốc có thể là giãn nở các mạch máu làm da mặt (hay chỗ khác) đỏ bừng và nóng (flushes).
Chú thích: alpha 1a blockers (alpha 1a adrenergic receptor): không làm tuyến teo lại mà làm giãn nở các cơ chung quanh tiền liệt và chung quanh cổ của bàng quang, làm nước chảy thông hơn.
Phản ứng phụ: chóng mặt (áp huyết thấp), nhức đầu, xáo trộn tiêu hoá, nghẹt mũi ( loại này cũng là thuốc dùng hạ huyết áp cao)
Vì thuốc cũng tác dụng trên cơ năng của mống mắt (iris,màng che của mắt phía trước thuỷ tinh thể điều tiết lượng ánh sáng vào mắt), làm cho cơ phụ trách giãn nở mống mắt yếu đi, thuốc có thể gây trở ngại cho bác sĩ giải phẫu cườm mắt hay glaucoma (nhãn áp quá cao). Lúc lấy thuỷ tinh thể bị đục ra ngoài trước khi nhét thuỷ tinh thể nhân tạo vào thay thế, vì con ngươi không nở ra đúng cách, phẫu thuật có thể khó khăn hơn và lành lâu hơn. Nếu bịnh nhân đang dùng thuốc tamsulosin (dù là mới dùng) phải cho bác sĩ giải phẫu mắt biết để đối phó với "hội chứng mống mắt yếu trong giải phẫu", intraoperative floppy iris syndrome [IFIS)
Một số bịnh nhân có thể bị chứng xuất tinh ngược. Lúc cao điểm tình dục, tinh dịch có thể không đi ra ngoài (xuất tinh) mà đi ngược vào bọng đái vì cơ tròn kiểm soát đường vào bọng đái không đóng lại (retrograde ejaculation).
-Ở người trẻ tuổi mạnh giỏi, với những kết quả thử nghiệm không có gì đặc biệt (theo như lời của bịnh nhân, nếu đúng; ví dụ thử nước tiểu bình thường ), điều quan trọng là tránh những thử nghiệm và trị liệu không cần thiết có thể tốn kém và gây những biến chứng, phản ứng phụ và lo âu, tệ hại hơn là các triệu chứng. Cũng như nhiều lần trước, theo tôi nghĩ, nếu không yên tâm hay có những triệu chứng không cải thiện với các trị liệu chuyên khoa, vị thính giả cần tìm cho mình một bác sĩ gia đình hay bác sĩ tổng quát xem xét lại hồ sơ, tìm hiểu về bịnh sử (ví dụ có "sex" với ai, người bạn tình có triệu chứng gì không, kiểu gì, có gây tổn thương cho niệu đạo hay không), về các kết quả khám nghiệm theo thời gian thay đổi như thế nào.
-Rất quan trọng, cần thực hành "an toàn tính dục" (safe sex) với những biện pháp như condom, nhất là nếu mình "gặp gỡ" nhiều bạn tình khác nhau.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền
No comments:
Post a Comment