Friday, September 30, 2016

Suy Thận Cấp Tính

Suy thận cấp tính xảy ra khi thận đột nhiên không thể lọc các chất thải ra từ máu, khiến mực chất thải trong máu tăng lên đến mức nguy hiểm, và cấu tạo hóa học của máu bị mất cân bằng.
Suy thận cấp tính phát triển nhanh chóng trong vòng một vài giờ hoặc vài ngày, thường xảy ra ở những người đang nằm bệnh viện, đặc biệt là ở những người bệnh nặng, cần chăm sóc đặc biệt.
Suy thận cấp tính có thể gây tử vong và đòi hỏi phải điều trị tích cực. Tuy nhiên, suy thận cấp tính có thể chữa được. Nếu có sức khỏe tốt, bệnh nhân có thể phục hồi chức năng thận bình thường hoặc gần như bình thường.
Triệu chứng
Gồm có:
- Giảm lượng nước tiểu, dù đôi khi lượng nước tiểu vẫn bình thường
- Giữ nước, gây sưng ở chân, mắt cá chân hoặc bàn chân
- Buồn ngủ
- Khó thở
- Mệt mỏi
- Lú lẫn
- Buồn nôn
- Co giật hoặc hôn mê trong trường hợp nghiêm trọng
- Đau ngực hoặc nặng ngực
Đôi khi suy thận cấp tính không có triệu chứng và được tìm ra nhờ các thử nghiệm được thực hiện vì lý do khác.
Nguyên nhân
Suy thận cấp tính có thể xảy ra khi:
- Một tình trạng nào đó làm chậm lưu lượng máu đến thận
- Thận bị hư hại trực tiếp
- Ống thoát nước tiểu từ thận bị tắc nghẽn khiến các chất thải không thể ra khỏi cơ thể qua nước tiểu
1) Lưu lượng máu đến thận bị suy giảm
Những bệnh hoặc điều kiện có thể làm chậm lưu lượng máu đến thận gồm có:
- Mất máu hoặc chất lỏng
- Thuốc huyết áp
- Đột quỵ tim
- Bệnh tim
- Nhiễm trùng
- Suy gan
- Sử dụng aspirin, ibuprofen (Advil, Motrin IB), naproxen (Aleve) hoặc thuốc liên quan
- Phản ứng dị ứng nặng (sốc phản vệ)
- Phỏng nặng
- Mất nước trầm trọng
2)Hư hại thận
Các bệnh hay điều kiện có thể gây hư hại thận và dẫn đến suy thận cấp tính:
- Cục máu đông trong các tĩnh mạch và động mạch trong và xung quanh thận
- Ngưng tụ cholesterol ngăn chặn dòng chảy của máu trong thận
- Viêm cầu thận, viêm các bộ lọc nhỏ trong thận
- Hội chứng urê huyết, một điều kiện kết quả từ sự hủy diệt sớm các hồng huyết cầu
- Nhiễm trùng
- Bệnh lupus, một rối loạn hệ thống miễn dịch gây viêm cầu thận
- Thuốc, chẳng hạn như một số thuốc hóa trị, trụ sinh, thuốc nhuộm sử dụng trong việc chụp quang tuyến, và zoledronic acid (Reclast, Zometa), được sử dụng để điều trị chứng loãng xương và tăng calcium trong máu.
- Multiple myeloma, một loại ung thư của các tế bào plasma
- Scleroderma (Xơ cứng bì), một nhóm các bệnh hiếm gặp ảnh hưởng đến da và kết mô
- Thrombotic thrombocytopenic purpura, một rối loạn máu hiếm thấy
- Độc tố, chẳng hạn như rượu, kim loại nặng và cocaine
- Viêm mạch máu
3)Nước tiểu bị tắc nghẽn ở thận
Những bệnh và điều kiện ngăn chặn nước tiểu ra khỏi cơ thể và có thể dẫn đến suy thận cấp tính gồm có:
- Ung thư bàng quang
- Cục máu đông trong đường tiết niệu
- Ung thư cổ tử cung
- Ung thư ruột kết
- Tuyến tiền liệt bị phình lớn
- Sỏi thận
- Tổn thương thần kinh liên quan đến các dây thần kinh kiểm soát bàng quang
- Ung thư tuyến tiền liệt
Suy thận cấp tính hầu như luôn luôn xảy ra kết nối với một điều kiện y tế hoặc sự kiện. Điều kiện có thể làm tăng nguy cơ suy thận cấp bao gồm:
- Đang nằm bệnh viện, nhất là vì một tình trạng nghiêm trọng đòi hỏi phải chăm sóc đặc biệt ở ICU
- Tuổi cao
- Tắc nghẽn trong các mạch máu ở cánh tay hoặc chân (bệnh động mạch ngoại vi)
- Bệnh tiểu đường
- Huyết áp cao
- Suy tim
- Bệnh thận
- Bệnh gan
Biến chứng
Biến chứng tiềm ẩn của suy thận cấp tính bao gồm:
- Sự tích tụ chất lỏng trong phổi, có thể gây khó thở.
- Tức ngực. Nếu lớp màng bao tim bị viêm, bệnh nhân có thể bị đau ngực.
- Yếu bắp thịt. Khi chất lỏng và chất điện giải của cơ thể bị mất cân bằng, suy nhược bắp thịt xảy ra. Nồng độ potassium trong máu lên cao nguy hiểm.
- Tổn thương thận vĩnh viễn. Thỉnh thoảng, suy thận cấp tính gây mất vĩnh viễn chức năng thận, hoặc bệnh thận giai đoạn cuối. Những người có bệnh thận giai đoạn cuối cần lọc máu hoặc ghép thận để tồn tại.
- Tử vong. Suy thận cấp tính có thể dẫn tới mất chức năng thận và cuối cùng là cái chết. Nguy cơ tử vong cao hơn ở những người có vấn đề về thận trước khi suy thận cấp tính.
Hầu hết mọi người thường là đang phải nhập viện khi họ phát triển suy thận cấp. Nếu bệnh nhân phát triển các triệu chứng suy thận, nên gọi bác sĩ hoặc y tá.
Nếu không ở trong bệnh viện nhưng có triệu chứng suy thận, nên hẹn gặp với bác sĩ gia đình. Nếu bác sĩ nghi ngờ bạn có vấn đề về thận, bạn có thể được giới thiệu đến một bác sĩ chuyên về bệnh thận.
Điều trị
Điều trị suy thận cấp tính thường đòi hỏi phải nằm nhà thương. Tuy nhiên, hầu hết những người bị suy thận cấp tính thường đã nhập viện vì những tình trạng bệnh khác. Thời gian ở lại bệnh viện tùy thuộc vào nguyên nhân suy thận và tốc độ thận hồi phục.
Trong một số trường hợp, bệnh nhân có thể phục hồi ở nhà.
Việc điều trị suy thận gồm điều trị các nguyên nhân căn bản gây ra suy thận và điều trị biến chứng cho đến khi thận phục hồi. Bác sĩ cũng sẽ làm việc để ngăn ngừa biến chứng, cho phép thận hồi phục.
Nếu các chất độc tích tụ trong máu, bệnh nhân có thể cần phải chạy thận nhân tạo (hay còn gọi là lọc máu) tạm thời để giúp loại bỏ độc tố và các chất lỏng dư thừa trong khi thận hồi phục. Trong thời gian lọc máu, máy sẽ bơm máu ra khỏi cơ thể và được cho chạy qua một thận nhân tạo để lọc các chất thải. Máu sau đó được trả lại cho cơ thể.
Trong thời gian phục hồi, bác sĩ có thể đề nghị một thực đơn đặc biệt để giúp hỗ trợ thận và hạn chế công việc nó phải làm:
- Chọn thực phẩm ít chất potassium như táo, bắp cải, đậu xanh, nho và dâu tây.
- Tránh các sản phẩm có thêm muối, nhất là các loại thức ăn nhanh, bữa tối đông lạnh, súp đóng hộp, các loại rau đóng hộp, các loại thịt chế biến và pho mát.
- Hạn chế phosphate. Phosphate là một khoáng chất được tìm thấy trong thực phẩm như sữa, pho mát, đậu khô, đậu phộng và bơ đậu phộng.

Phòng ngừa
Suy thận cấp tính thường rất khó để dự đoán hay ngăn chặn nhưng ta có thể làm giảm nguy cơ bằng cách chăm sóc thận. Nên:
- Đọc kỹ nhãn thuốc khi dùng thuốc giảm đau mua tự do over- the- counter (OTC) và theo đúng các hướng dẫn, Các thuốc này gồm có như aspirin, acetaminophen và ibuprofen. Uống quá nhiều các loại thuốc này có thể làm tăng nguy cơ suy thận cấp tính, nhất là khi bạn đang có bệnh thận, bệnh tiểu đường hoặc huyết áp cao.
- Làm việc với bác sĩ để quản lý các vấn đề về thận. Nếu bạn có bệnh thận hoặc một tình trạng bệnh dễ tăng nguy cơ suy thận cấp tính, chẳng hạn như tiểu đường hoặc huyết áp cao, nên theo đúng mục tiêu điều trị và theo khuyến cáo của bác sĩ quản lý tình trạng của bạn.
- Sống lành mạnh là một ưu tiên. Hãy vận động nhiều, ăn uống hợp lý và cân bằng, và uống rượu chỉ trong chừng mực.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Thursday, September 29, 2016

Khi bàng quang làm việc quá mức

Bàng quang làm việc quá mức là một vấn đề khá "nhạy cảm", xảy ra cho khá nhiều người, nhất là những người lớn tuổi. Chứng này làm nạn nhân cảm thấy thình lình rất muốn đi tiểu, đôi khi không thể kềm chế được, khiến họ phải bị són tiểu.
Triệu chứng
Gồm có:
- Thình lình cảm thấy thôi thúc muốn đi tiểu, thôi thúc này có thể khó kiểm soát
- Són tiểu không kiểm soát được ngay lúc cảm thấy mắc tiểu
- Đi tiểu thường xuyên, thường là tám hoặc nhiều lần trong 24 giờ
- Thức dậy hai hoặc nhiều lần trong đêm để đi tiểu
Mặc dù những người già thường bị chứng này nhưng việc bàng quang hoạt động quá mức không phải là một phần cần phải xảy ta trong tiến trình lão hóa. Nếu các triệu chứng này gây khó khăn trong cuộc sống, có thể tìm hiểu việc chữa trị bằng cách nói chuyện với bác sĩ của mình.
Khi bàng quang làm việc bình thường
Thận sản xuất nước tiểu, chảy vào bàng quang. Khi đi tiểu, nước tiểu từ bàng quang qua một lỗ ở phía dưới, vào một ống gọi là ống dẫn tiểu. Ở phụ nữ, chỗ ống dẫn tiểu thoát ra nằm ngay phía trên âm đạo. Ở nam giới, chỗ này ở đầu dương vật.
Khi bàng quang đầy, các tín hiệu thần kinh được gửi tới não gây ra cảm giác mắc tiểu. Khi đi tiểu, các tín hiệu thần kinh phối hợp sự thư giãn của bắp thịt ở sàn khung chậu và các cơ thắt của ống dẫn tiểu. Các cơ của bàng quang bóp lại, đẩy nước tiểu ra ngoài.
Nguyên nhân bàng quang làm việc quá mức
Bàng quang hoạt động quá mức xảy ra vì các cơ của bàng quang bắt đầu co thắt tự động dù lượng nước tiểu trong bàng quang còn thấp. Sự co thắt tự động này tạo ra nhu cầu cấp thiết đi tiểu.
Một số điều kiện có thể làm tăng triệu chứng bàng quang hoạt động quá mức, gồm có:
- Rối loạn thần kinh, chẳng hạn như bệnh Parkinson, tai biến mạch máu não và bệnh đa xơ cứng (multiple sclerosis).
- Sản xuất nước tiểu tăng cao, thí dụ như khi uống quá nhiều chất lỏng, chức năng thận bị suy giảm hoặc bị bệnh tiểu đường
- Một số các loại thuốc gây ra sự gia tăng sản xuất nước tiểu, hoặc cần phải uống chung với nhiều nước
- Nhiễm trùng đường tiểu cấp tính có thể gây ra các triệu chứng tương tự như khi bàng quang hoạt động quá mức
- Có sự bất thường trong bàng quang, chẳng hạn như khối u hoặc sạn bàng quang
- Các yếu tố gây cản trở dòng chảy bàng quang, thí dụ như tuyến tiền liệt phình lớn, táo bón hoặc những cuộc giải phẫu trước đó để điều trị són tiểu.
- Uống nhiều caffeine hoặc rượu
- Suy giảm chức năng nhận thức do lão hóa, làm bàng quang khó khăn hơn để hiểu các tín hiệu nhận được từ bộ óc
- Đi lại khó khăn, có thể dẫn đến cấp bách nếu không thể vào phòng tắm một cách nhanh chóng
- Không đi tiểu hết, có thể dẫn đến các triệu chứng bàng quang hoạt động quá mức, vì chỗ chứa nước tiểu bị ít đi.
- Táo bón
Nhưng thường thì người ta không tìm ra nguyên nhân cụ thể của chứng bàng quang hoạt động quá mức khiến bác sĩ phải làm nhiều thử nghiệm khác nhau mong tìm ra nguyên nhân.
Khi một người già đi, họ có nguy cơ bị chứng bàng quang hoạt động quá mức. Họ dễ bị các bệnh và các chứng rối loạn, chẳng hạn như tuyến tiền liệt phình lớn và tiểu đường, có thể góp phần vào việc gây ra các vấn đề chức năng bàng quang.
Nhiều người bị giảm nhận thức, do tai biến mạch máu não hoặc mắc bệnh Alzheimer, có thể bị bàng quang hoạt động quá mức. Trường hợp này có thể giải quyết bằng cách uống chất lỏng theo lịch trình, đi tiểu theo giờ và nhắc nhở, mặc đồ dễ thấm nước, và đi cầu theo giờ.
Một số người bị chứng bàng quang hoạt động quá mức cũng có vấn đề kiểm soát ruột; nên cho bác sĩ biết.
Ảnh hưởng
- Bất kỳ những chứng không thể kiểm soát chức năng nào cũng có thể ảnh hưởng đến phẩm chất cuộc sống. Nếu các triệu chứng bàng quang hoạt động quá mức gây ra gián đoạn đời sống, nạn nhân cũng có thể bị rối loạn xúc cảm, phiền muộn, rối loạn giấc ngủ và chu kỳ giấc ngủ bị gián đoạn. Bác sĩ có thể khuyên nên điều trị các chứng liên quan này, nhưng không chắc việc điều trị chúng có làm bớt những triệu chứng của bàng quang không.
Một số phụ nữ cũng có thể bị rối loạn hỗn hợp, tức gồm cả hai vấn đề là không kiểm soát do căng thẳng và không kiểm soát do bị quá thôi thúc. Không kiểm soát do căng thẳng là bị són tiểu khi vận động thể lý gây ra áp lực lên bàng quang, chẳng hạn như khi chạy nhảy. Điều trị chứng này cũng không làm giảm được các triệu chứng bàng quang hoạt động quá mức.
Những người già cũng có thể gặp vấn đề về sức chứa của bàng quang và đi tiểu không hết. Bàng quang có thể làm nạn nhân rất mắc tiểu hoặc són tiểu nhưng lại không đi tiểu cho hết được. Họ cần phải gặp bác sĩ chuyên khoa về các vấn đề bàng quang.
Điều trị
Bác sĩ có thể làm nhiều thử nghiệm khác nhau để hiểu rõ các vấn đề của bàng quang và đề nghị cách điều trị, có thể bao gồm:
- Những bài tập cần thiết để thay đổi các thói quen bài tiết như bài tập cơ sàn chậu Kegel, làm cơ sàn chậu và cơ thắt ống tiểu săn chắc hơn, có thể giúp ngăn chặn các cơn co thắt ngoài ý muốn của bàng quang. Bác sĩ hoặc một nhân viên trị liệu vật lý có thể giúp học cách thực hiện các bài tập Kegel đúng cách. Có thể mất sáu tới tám tuần trước khi nhận thấy một sự khác biệt trong các triệu chứng.
- Giữ cho cân nặng không quá cao. Nếu nạn nhân bị dư cân, việc giảm cân có thể làm giảm bớt các triệu chứng. Giảm cân cũng có thể giúp triệu chứng són tiểu khi vận động thể lý.
- Giảm uống chất lỏng. Bác sĩ có thể khuyên giới hạn lượng chất lỏng ở một mức nào đó và khuyên nên uống vào lúc nào.
- Tiểu hai lần. Để tiểu cho hết, nên chờ một vài phút sau khi tiểu xong và cố gắng tiểu thêm để chắc chắn là bàng quang đã hết nước tiểu.
- Lập lịch trình đi tiểu. Lập một lịch trình để đi tiểu, thí dụ tiểu mỗi 2- 4 giờ thay vì chờ đến mắc tiểu.
- Dùng ống lấy nước tiểu ra theo định kỳ. Hỏi bác sĩ phương pháp này có phù hợp không.
- Mặc thêm miếng thấm trong quần lót để bảo vệ quần áo và giúp tránh xấu hổ khi có "tai nạn" để có thể hoạt động bình thường, không bị giới hạn.
- Huấn luyện bàng quang. Tập trì hoãn khi cảm thấy muốn đi tiểu. Bắt đầu bằng cách trì hoãn ít, chẳng hạn như 30 phút, và dần dần tăng lên để đi tiểu mỗi 3- 4 giờ. Huấn luyện bàng quang chỉ thành công khi người bệnh có thể thắt chặt cơ sàn chậu.
Thuốc
Những loại thuốc làm thư giãn bàng quang có thể hữu ích cho việc làm giảm các triệu chứng của bàng quang hoạt động quá mức và giảm hối thúc đi tiểu.
Tác dụng phụ thường gặp của hầu hết các loại thuốc này gồm có khô mắt và khô miệng, nhưng uống thêm nước cho bớt khô miệng lại làm nặng thêm các triệu chứng của bàng quang hoạt động quá mức. Táo bón - một tác dụng phụ khác - có thể làm nặng thêm các triệu chứng bàng quang. Những hình thức có tác dụng kéo dài của các loại thuốc này, như miếng dán trên da hoặc gel, có thể gây ít tác dụng phụ hơn.
Thay đổi lối sống để trị bệnh
- Duy trì cân nặng vừa phải
- Uống nước theo lịch trình và chỉ uống đủ lượng cần thiết. Có thể hỏi bác sĩ về lượng chất lỏng bạn cần hàng ngày
- Tránh chất caffeine và rượu.
- Sống với bàng quang hoạt động quá mức có thể khó khăn.Các nhóm hỗ trợ có thể cung cấp các thông tin, kết nối những người bị chứng bàng quang hoạt động quá mức và tiểu són.
- Giáo dục gia đình và bạn bè về chứng bàng quang hoạt động quá và trải nghiệm của bạn có thể giúp bạn thiết lập mạng lưới hỗ trợ và giảm cảm giác xấu hổ. Một khi bắt đầu nói chuyện về nó, bạn có thể ngạc nhiên khi biết chứng này thực ra rất thông thường.
- Vận động thể chất hàng ngày thường xuyên và tập thể dục.
- Bỏ hút thuốc.
- Chữa trị các bệnh mãn tính như tiểu đường, có thể góp phần làm giảm triệu chứng bàng quang hoạt động quá mức.
- Làm các bài tập Kegel: thắt chặt cơ sàn chậu, giữ hai giây, sau đó thư giãn ba giây. Tăng dần đến giữ co thắt trong năm giây và sau đó 10 giây. Làm 10 co thắt, 3 lần mỗi ngày.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Bệnh GERD

GERD là chữ viết tắt của bệnh GastroEsophageal Reflux, tức trào ngược (reflux) từ dạ dày lên thực quản. Bệnh này rất thông thường và có thể gây ra nhiều biến chứng tai hại. Thoạt đầu có thể chỉ là trào ngược chất acid của bao tử thỉnh thoảng mới xẩy ra nhưng sau đó bệnh có thể tiến triển đến giai đoạn GERD, khi việc trào ngược các thứ trong bao tử lên thực quản gây ra loét lớp niêm mạc của thực quản.
Triệu chứng gồm có:
- Cảm giác bỏng rát trong lồng ngực (heart burn=ợ nóng), đôi khi lan tới cổ họng, cùng với vị chua trong miệng.
- Tức ngực
- Khó nuốt
- Thường ho khan
- Khàn tiếng hay đau họng
- Trào ngược thức ăn hoặc chất lỏng chua
- Có cảm giác một khối u trong cổ họng
Khi nào nên đi khám bệnh
- Nên tìm chăm sóc y tế ngay lập tức nếu bạn bị đau ngực, đặc biệt là khi bạn có các triệu chứng khác, chẳng hạn như khó thở hoặc đau hàm hoặc đau cánh tay. Đây có thể là dấu hiệu của một cơn đau tim (heart attack).
- Lấy hẹn với bác sĩ nếu các triệu chứng GERD nặng hay xảy ra thường xuyên. Nếu quý vị phải dùng thuốc mua tự do (over- the- counter) cho ợ nóng nhiều hơn hai lần một tuần, nên đi khám bệnh.
Nguyên nhân
GERD xảy ra khi bệnh nhân thường xuyên bị trào ngược axit - tức acid ở dạ dày hoặc mật bị đi ngược lên vào thực quản.
Khi bạn nuốt, cơ vòng thực quản phía dưới sẽ giãn ra, cho phép thực phẩm và chất lỏng chảy xuống dạ dày của bạn. Sau đó, nó sẽ đóng lại. Tuy nhiên, nếu cơ này giãn ra bất thường hay bị yếu, acid ở dạ dày có thể chảy ngược lại vào thực quản, gây ra chứng ợ nóng (heart burn) thường xuyên, đôi khi làm gián đoạn nhịp sống hàng ngày của bạn.
Việc acid liên tục trào ngược lên có thể gây ra viêm sưng lớp niêm mạc của thực quản. Theo thời gian, lớp niêm mạc thực quản bị bào mòn, gây ra các biến chứng như chảy máu, hẹp thực quản hoặc thực quản Barrett (một tình trạng tiền ung thư).
Yếu tố nguy cơ
Những tình trạng có thể làm tăng nguy cơ bị bệnh GERD gồm có:
- Béo phì
- Phần trên của dạ dày bị dồn lên bắp thịt hoành cách mô (hernia=thoát vị)
- Mang thai
- Hút thuốc
- Khô miệng
- Hen suyễn
- Bệnh tiểu đường
- Thức ăn ở lâu trong dạ dày
- Bệnh rối loạn mô liên kết, chẳng hạn như xơ cứng bì (scleroderma)
Biến chứng
Theo thời gian, tình trạng viêm mãn tính ở thực quản có thể dẫn đến các biến chứng như:
- Thực quản bị thu hẹp. Những tế bào ở phí dưới của thực quản liên tục tiếp xúc với acid, bị bào mòn và trở thành mô sẹo. Các mô sẹo này làm hẹp thực quản, gây khó nuốt.
- Loét thực quản. Acid của dạ dày có thể xoi mòn thực quản, gây thành một vết loét. Vết loét thực quản có thể chảy máu, gây đau và khó nuốt.
- Tình trạng tiền ung thư thực quản (thực quản Barrett). Mô lót phần dưới của thực quản bị biến dạng, gây tăng nguy cơ ung thư thực quản. Bác sĩ có thể sẽ khuyên nên làm nội soi thường xuyên để tìm những dấu hiệu báo động ung thư.
Điều nên làm khi đi khám bệnh
Nếu nghĩ rằng mình bị GERD, nên đến khám bệnh ở bác sĩ gia đình. Bác sĩ có thể khuyên bạn nên đi khám bác sĩ chuyên điều trị các bệnh tiêu hóa. Khi đi khám bệnh, nên
- Viết ra tất cả các triệu chứng, ngay cả các triệu chứng có vẻ không liên quan đến lý do đi khám.
- Viết ra các thông tin cá nhân chính, gồm cả các căng thẳng hoạc hoặc thay đổi trong cuộc sống gần đây.
- Ghi danh sách của tất cả các loại thuốc, kể cả vitamins và các thuốc mua tự do mà bạn đang dùng.
- Viết ra các câu hỏi muốn hỏi bác sĩ.
*Chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán GERD được dựa trên:
- Triệu chứng của bạn. Bác sĩ có thể chẩn đoán GERD dựa trên triệu chứng ợ nóng thường xuyên và các triệu chứng khác.
- Một thử nghiệm để theo dõi lượng acid trong thực quản của bạn.
- Ngoài ra còn một số thử nghiệm khác, làm khi bệnh nhân cần được giải phẫu
Điều trị
Điều trị chứng ợ nóng và các triệu chứng của GERD khác thường bắt đầu với những thuốc làm giảm acid bán tự do (over- the- counter). Nếu không bớt trong vòng một vài tuần, bác sĩ có thể đề nghị phương pháp điều trị khác, kể cả thuốc và giải phẫu.
Có thể dùng:
- Thuốc chống acid để trung hòa acid trong dạ dày: Maalox, Mylanta, Gelusil, Gaviscon, Rolaids và Tums, có thể hiệu quả nhanh chóng. Nhưng các thuốc này sẽ không chữa lành một thực quản bị viêm và hư hỏng vì acid của dạ dày. Lạm dụng một số thuốc chống acid có thể gây ra tác dụng phụ như tiêu chảy hoặc táo bón.
- Các thuốc làm giảm sản xuất acid. Được gọi là thuốc chống H- 2- receptor, các loại thuốc này bao gồm cimetidine (Tagamet HB), famotidine (Pepcid AC), nizatidine (acid AR) hoặc ranitidine (Zantac). Thuốc chống H- 2- receptor không tác dụng nhanh chóng như thuốc chống acid, nhưng hiệu quả kéo dài lâu hơn và có thể làm giảm sản xuất acid từ dạ dày lên đến 12 giờ.
- Thuốc ngăn chặn việc sản xuất acid và chữa lành thực quản. Thuốc ức chế bơm proton ngăn việc sản xuất acid mạnh hơn là H- 2- receptor blockers và dành thời gian cho mô thực quản chữa lành. Những thuốc này có thể mua tự do (over- the- counter), gồm có lansoprazole (Prevacid 24 HR) và omeprazole (Prilosec, Zegerid OTC).
Liên lạc với bác sĩ nếu cần phải dùng thuốc lâu hơn 2- 3 tuần hoặc các triệu chứng không thuyên giảm.
Tự giúp để giảm bệnh
Thay đổi lối sống có thể giúp làm giảm bớt chứng ợ nóng. Nên:
- Duy trì một trọng lượng khỏe mạnh. Nặng cân tạo áp lực lên bụng, đẩy dạ dày gây ra trào ngược acid vào thực quản.
- Tránh mặc quần áo bó sát. Quần áo quá chật đặt áp lực lên bụng và cơ vòng ở phần dưới thực quản.
- Tránh các loại thực phẩm và đồ uống gây ợ nóng như thức ăn chứa nhiều chất béo hoặc các loại thực phẩm chiên, xốt cà chua, rượu, chocolate, bạc hà, tỏi, hành tây, và caffeine. Nên tránh các loại thực phẩm bạn biết sẽ gây ợ nóng cho mình.
- Ăn nhiều bữa nhỏ. Tránh ăn quá nhiều một lúc.
- Đừng nằm ngay sau khi ăn. Chờ ít nhất ba giờ trước khi nằm xuống hoặc đi ngủ.
- Nâng cao đầu giường của bạn. Nếu bạn thường xuyên bị chứng ợ nóng vào ban đêm hoặc trong khi cố gắng ngủ, đặt gỗ hoặc khối xi măng dưới chân giường để nâng đầu cao cỡ 6- 9 inches. Nâng cao đầu bằng gối thường không có hiệu quả.
- Không hút thuốc. Hút thuốc làm cơ vòng thực quản không hoạt động tốt được.
- Dược thảo đôi khi được dùng cho các triệu chứng GERD. Dược thảo có thể có tác dụng phụ nghiêm trọng và có thể ảnh hưởng đến những thuốc đang uống. Nên hỏi bác sĩ về liều lượng an toàn trước khi bắt đầu bất cứ thứ nào.
- Thư giãn. Kỹ thuật để làm dịu căng thẳng và lo lắng có thể làm giảm các triệu chứng của GERD. Hãy hỏi bác sĩ của bạn về các kỹ thuật thư giãn, chẳng hạn như thư giãn bắp thịt dần dần hoặc hướng dẫn bằng hình ảnh.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Bệnh thấp khớp

Bệnh thấp khớp là một bệnh viêm kinh niên ảnh hưởng đến nhiều vùng cơ thể chứ không phải chỉ ở khớp xương như tên của nó. Ở một số người, bệnh này có thể gây tác hại trên một loạt các cơ quan, như da, mắt, phổi, tim và mạch máu.
Thấp khớp xảy ra khi hệ thống miễn dịch của một người tấn công nhầm các mô cơ thể của chính mình.
Các chứng viêm khác đi chung với bệnh thấp khớp có thể làm hư hại các bộ phận khác của cơ thể. Các loại thuốc mới hiện nay có thể giúp bệnh nhân rất nhiều so với trước kia nhưng bệnh nặng vẫn có thể đưa tới khuyết tật.

Triệu chứng
Gồm có:
- Khớp xương bị sưng, nóng, đau
- Các khớp xương bị cứng, nặng hơn vào buổi sáng và sau một thời gian không hoạt động
- Mệt mỏi, sốt và giảm cân
Bệnh thấp khớp thời gian đầu thuờng xảy ra ớ các khớp nhỏ - đặc biệt là các khớp gắn các ngón tay vào bàn tay hay các ngón chân vào bàn chaân.
Khi bệnh tiến triển xa hơn, các triệu chứng thường lan đến cổ tay, đầu gối, mắt cá chân, khuỷu tay, hông và vai. Trong hầu hết các trường hợp, các triệu chứng xảy ra ở các khớp giống nhau trên cả hai bên của cơ thể.
Khoảng 40 phần trăm bệnh nhân có các triệu chứng không liên quan đến các khớp ở các bộ phận sau đây của cơ thể: da, mắt, phổi, tim, thận, tuyến nước bọt, mô thần kinh, tủy xương, mạch máu.
Các triệu chứng có thể nặng nhẹ khác nhau, có thể xảy ra trong một thời gian rồi hết đi. Có những thời kỳ bệnh nặng lên, xen kẽ với những giai đoạn bệnh thuyên giảm tương đối, lúc này triệu chứng sưng và đau bớt đi hoặc biến mất. Theo thời gian, các khớp xương có thể biến dạng.
Nguyên nhân



Thấp khớp xảy ra khi hệ thống miễn dịch tấn công các lớp màng hoạt dịch bao quanh khớp xương. Hiện tượng viêm làm lớp màng này dày lên và cuối cùng có thể phá hủy sụn và xương trong khớp. Các gân và dây chằng giữ khớp xương bị suy yếu và căng ra. Dần dần, các khớp xương biến đổi hình dạng và không thẳng hàng.
Chưa hiểu được tại sao các tiến trình này bắt đầu, có thể có yếu tố di truyền. Các gene không thực sự gây ra bệnh nhưng có thể làm cho nạn nhân nhạy cảm hơn với các yếu tố môi trường - chẳng hạn như nhiễm vi trùng hay siêu vi - có thể gây ra bệnh.

Các yếu tố nguy cơ
Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm thấp khớp gồm có:
- Giới tính. Phụ nữ dễ bị hơn nam giới.
- Tuổi tác. Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng thường bắt đầu trong độ tuổi từ 40 đến 60.
- Bệnh sử gia đình. Nếu một thành viên của gia đình bị bệnh, bạn có thể nguy cơ cao mắc bệnh.
- Thuốc lá. Hút thuốc lá làm tăng nguy cơ phát triển bệnh nhất là khi bạn có một yếu tố di truyền khiến dễ mắc bệnh. Hút thuốc cũng liên quan tới mức độ nghiêm trọng của bệnh.
- Môi trường tiếp xúc. Mặc dù không chắc chắn và chưa hiểu rõ cơ chế, một số chất như abestos hoặc silica có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Nhân viên cấp cứu tiếp xúc với bụi từ sự sụp đổ của Trung Tâm Thương Mại Thế Giới có nguy cơ cao mắc các bệnh tự miễn như thấp khớp.
- Béo phì. Những người dư cân hoặc béo phì có nguy cơ khá cao mắc bệnh, đặc biệt là ở phụ nữ được chẩn đoán bệnh ở 55 tuổi trở xuống.
*Các biến chứng
- Loãng xương. Chính bệnh thấp khớp và một số loại thuốc điều trị viêm có thể làm tăng nguy cơ loãng xương, làm suy yếu xương và dễ bị gãy xương.
- Cục phong thấp. Những cục này thường nổi lên các vùng nhô ra dễ bị va chạm (điểm áp lực), chẳng hạn như khuỷu tay. Tuy nhiên, chúng có thể nổi lên ở bất cứ nơi nào trong cơ thể, bao gồm cả phổi.
- Khô mắt và miệng. Bệnh nhân thấp khớp dễ bị hội chứng Sjogren, một rối loạn làm giảm lượng ẩm trong mắt và miệng.
- Nhiễm trùng. Chính căn bệnh và nhiều loại thuốc chữa bệnh có thể làm suy giảm hệ thống miễn dịch, dẫn đến dễ bị nhiễm trùng.
- Thành phần cơ thể bất thường. Tỷ lệ chất béo thường cao hơn ở những người bị thấp khớp, ngay cả ở những người có chỉ số khối cơ thể bình thường (BMI).
- Hội chứng carpel tunnel. Nếu bệnh xảy ra ở cổ tay, hiện tượng viêm có thể đè nén các dây thần kinh ở các bàn tay và các ngón tay gây ra hội chứng này.
- Vấn đề tim mạch. Thấp khớp có thể làm tăng nguy cơ xơ cứng và nghẽn động mạch cũng như viêm màng bọc quanh trái tim.
- Bệnh phổi. Bệnh nhân bị tăng nguy cơ viêm và gây sẹo các mô phổi, có thể dẫn đến khó thở.
- Ung thư hạch. Viêm thấp khớp làm tăng nguy cơ ung thư hạch, một nhóm các bệnh ung thư máu phát triển trong hệ thống bạch huyết.
*Định bệnh
Viêm thấp khớp có thể khó chẩn đoán ở giai đoạn đầu vì những triệu chứng ban đầu giống triệu chứng của nhiều bệnh khác. Không có xét nghiệm máu riêng hay một dấu hiệu thể lý riêng để xác định chẩn đoán.
- Các xét nghiệm máu để định bệnh
Những người bị viêm khớp dạng thấp thường có một tỷ lệ hồng cầu lắng (ESR) cao hoặc protein phản ứng C (CRP) cao, dấu hiệu của một tiến trình viêm trong cơ thể. Các thử nghiệm khác gồm có rheumatoid factor và anti- CCP.
Điều trị
- Không có thuốc điều trị riêng biệt cho bệnh viêm thấp khớp. Hiện nay có rất nhiều thuốc khác nhau và mới hơn được sử dụng để làm giảm bớt triệu chứng bệnh. Những loại thuốc này có thể nhắm vào những phần của hệ thống miễn dịch đã tạo ra phản ứng viêm gây tổn thương khớp và các mô. Những loại thuốc này cũng làm tăng nguy cơ nhiễm trùng.
- Bác sĩ có thể gửi bạn tới các chuyên viên trị liệu thể lý hoặc nghề nghiệp để học những bài tập giúp giữ cho các khớp xương của bạn linh hoạt. Họ cũng có thể đề nghị những cách thức mới để làm việc hàng ngày giúp các khớp ít bị áp lực hơn. Ví dụ, nếu ngón tay của bạn bị đau, bạn có thể chọn dùng cánh tay để nhấc một vật gì lên.
- Những thiết bị trợ giúp có thể giúp bạn làm việc dễ dàng hơn và tránh áp lực lên những khớp đau. Ví dụ, một con dao nhà bếp được trang bị với một tay cầm giống như cán cưa giúp bảo vệ khớp ngón tay và cổ tay. Một số công cụ, như móc nút áo, có thể giúp việc mặc quần áo dễ dàng hơn. Nên xem các cuốn mẫu quảng cáo và đến các cửa hàng cung cấp y tế để tìm nhưng thiết bị này.
- Giải phẫu. Nếu thuốc không giúp ngăn chặn hoặc làm chậm tổn thương khớp, có thể phải cần đến giải phẫu để sửa chữa những hư hại hầu giúp khôi phục lại khả năng sử dụng khớp. Nó cũng có thể làm giảm đau và dị dạng. Nhưng giải phẫu có nguy cơ chảy máu, nhiễm trùng và đau đớn. Nên thảo luận kỹ về những lợi ích và rủi ro của giải phẫu với bác sĩ.

Trị liệu khác
Một số phương pháp điều trị khác có nhiều triển vọng cho bệnh thấp khớp bao gồm:
- Dầu cá. Một số nghiên cứu đầu tiên cho thấy uống thêm dầu cá có thể làm giảm đau thấp khớp và bớt độ cứng khớp. Các tác dụng phụ có thể là buồn nôn, ợ hơi và hương vị tanh trong miệng. Dầu cá có thể ảnh hưởng đến các thuốc đang uống, nên hỏi bác sĩ trước khi uống.
- Dầu thực vật. Các hạt giống hoa anh thảo, cây lưu ly và nho đen chứa một loại acid béo có thể giúp giảm đau và cứng khớp buổi sáng. Các tác dụng phụ có thể có là buồn nôn, tiêu chảy và tăng hơi. Một số loại dầu thực vật có thể gây tổn thương gan hoặc ảnh hưởng đến thuốc đang uống, nên hỏi bác sĩ của bạn trước.
- Tai Chi. Liệu pháp này sử dụng các bài tập nhẹ nhàng và trải dài kết hợp với thở sâu. Nhiều người sử dụng tai chi để giảm căng thẳng trong cuộc sống của họ. Nghiên cứu cũng cho thấy tai chi có thể làm giảm đau. Khi được dẫn dắt bởi một huấn luyện viên có kiến ​​thức, tai chi thường an toàn. Nhưng không nên làm bất kỳ chuyển động nào gây đau.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Đau thần kinh hông (sciatica)

Để cho dễ hiểu và dễ nhớ, cái tên la tinh sciatica này chỉ có nghĩa là đau do dây thần kinh hông [sciatic nerve] bị chèn ép, tổn thương ở vùng lưng, làm cho ta có cảm giác đau trên lộ trình của nó, dọc theo mông, phía sau đùi và cẳng chân. Chừng 13-40% người chúng ta từng bị sciatica trong đời.
Bây giờ chúng ta vào chi tiết hơn:
Sở dĩ chúng ta điều khiển được một số cơ, chúng ta có được những cảm giác ở đùi, cẳng, chân là do có những sợi dây thần kinh:
1. Đi từ ngoài (ví dụ xa nhất là đầu ngón chân, rồi đến cẳng, đùi) đem những tín hiệu vào tủy xương sống (spinal cord) rồi đi ngược lên bộ óc chúng ta, báo chúng ta biết: ví dụ chân đạp gai (đau), chân chạm ống khói xe gắn máy (nóng, phỏng), hay cho ta biết có gì đè (pressure) lên bàn chân.
2. Đồng thời óc gởi ra những tín hiệu đến các bắp cơ để thi hành những mệnh lệnh như nhón gót (dorsiflexion, L4), nhất bờ ngoài bàn chân (foot eversion, L5), duỗi ngón cái (S1).
Những sợi thần kinh này được tập hợp thành một dây thần kinh lớn tên là thần kinh hông lớn (sciatic nerve). Dây thần kinh này đi từ xương sống lưng đoạn ngang thắt lưng (lumbar, L4,5, S1), qua những lỗ nằm giữa các đốt xương sống thắt lưng.
Nếu bây giờ, những đốt xương sống đó bị bệnh, như đĩa đệm nằm giữa các đốt sống bị hư hại, lồi ra (herniation of an intervertebral disc, slipped disc); ống xương sống nơi chứa tuỷ sống quá hẹp (spinal stenosis); một đốt xương sống trược trên đốt dưới và xê dịch ra phía trước (spondylolisthesis); chấn thương (té trực tiếp làm hư hại các rễ thần kinh, hoặc gãy xương làm các mảnh xương đè trên rễ thần kinh); u bướu tuỷ sống; như vậy dây thần kinh sciatica bị đè lên trên lộ trình (đường đi) của nó, thì dây thần kinh này sẽ phát ra những tín hiệu báo cáo sai cho não bộ là có cái gì làm cho vùng phụ trách của nó (đùi, cẳng hoặc bàn chân) bị đau, bị tê, hoặc bị nóng buốt. Cho nên người bệnh sẽ "thấy"/có cảm giác mình đau ở chân, cẳng hay đùi trong lúc mà, trên thực tế nguyên nhân nằm tận vùng xương sống lưng hoặc trong vùng xương chậu (ví dụ đau xương sống lưng, bướu trong vùng xương chậu). Các bắp cơ liên hệ tới dây thần kinh này sẽ ít nhiều bị yếu đi.
3. Sau khi chui ra khỏi cột sống, sợi thần kinh sciatic nerve đi ngang qua hoặc đi xuyên qua một cơ bắp dài,hình trái lê nên được gọi là piriformis muscle, nằm sâu trong mông, mà đầu lớn đi từ xương thiêng, qua vùng xương chậu và đi xuống bám vào đầu xương đùi.Chứng này gọi là hội chứng piriformis.
Trong một số nhỏ bệnh sciatica, dây thần kinh sciatic bị bắp cơ này chèn ép, thường là lúc ngồi ghế xe, lúc chạy, bệnh nhân thấy ê, tê, đau nhiều ở mông,và cơn đau có thể chạy xuống phía dưới làm đau dọc theo sau cẳng chân. Định bệnh này khó. Chứng này gọi là hội chứng piriformis; có thể gây ra do chấn thương ở vùng mông,
Mấy chục năm nay, mỗi khi đau sciatica thì người ta gắn "tội" cho một cái đĩa đệm nằm không đúng chỗ (herniated disc) và can thiệp (phẫu thuật) trên vùng xương sống bị nghi ngờ đó. Tuy nhiên, gần đây, người ta khám phá một số trường hợp phẫu thuật trên xương sống không hiệu quả vì nguyên nhân thật sự nằm chỗ khác, ví dụ như trong hội chứng cơ piriformis. Chụp hình X quang đơn giản có thể không đủ để phát hiện các điểm bất bình thường của cột sống (như đĩa đệm bị rách),có thể cần các phương pháp hình ảnh khác nhất là MRI (cọng hưởng từ trường). Đối với những trường hợp như piriformis syndrome, có thể cần đến phương pháp mới gọi là Magnetic Resonance Neurography (MRN) để chụp hình dây thần kinh bằng cọng hưởng từ trường và xem nó hư hại chỗ nào. Phương pháp này có thể không được bảo hiểm trả tiền ở Mỹ vì quá mới.
4. Nói tóm lại, bệnh sciatica chỉ cho ta biết thần kinh sciatic bị tổn thương, và nguyên do có thể nhiều nguồn gốc khác nhau. Cột sống vùng lưng có những dấu hiệu thoái hóa (spondylosis) rất thường gặp trên XR của người có tuổi mạnh khoẻ không có triệu chứng xương khớp (không đau lưng, đau chân), 80% người trên tuổi có dấu hiệu thoái hóa cột sống trên quang tuyến nhưng không có nghĩa là cần phải chữa cho họ và sự hiện diện của các thay đổi này đi đôi với sciatica chưa chắc đã có nghĩa rằng nguồn gốc của cơn đau thần kinh nằm tại các bất thường trên xương sống mà chúng ta thấy.
Người bệnh có thể đau nhiều hơn:
- lúc ban đêm
- lúc đi nhiều, ngồi nhiều
- cúi xuống quá nhiều, bật người ra phía sau (bending backward)
- ho, nhảy mũi mạnh, rặn nhiều lúc đi cầu
Một số nguyên nhân khác nhau như thoát vị đĩa đệm (disc hernia), lệch đốt xương sống (spondylolisthesis), đau khớp háng, u bướu, cơ bắp chèn ép dây thần kinh đều có thể gây ra bệnh sciatica hoặc triệu chứng tương tự.
Tóm lại, nếu chữa trị thông thường bằng nghỉ ngơi, uống thuốc giảm đau, tập vật lý trị liệu mà không thấy kết quả, bệnh nhân cần đi khám lại bs gia đình để theo dõi, định bệnh lại, phối hợp điều trị và theo dõi bệnh tình.Có thể cần đên các bác sĩ chuyên khoa, và có thể cần chích thuốc vào sống lưng (thuốc corticoid chích vào khoảng trống chung quanh màng cứng tuỷ sống [epidural injection of corticosteroid], có thể giúp giảm nhưng ngắn hạn, không giảm khả năng phải giải quyết bằng phẫu thuật), hoặc giải phẫu nếu cần.
Chuyện bệnh có chữa hết hay không, nói chung đa số có dự liệu tốt, tuy nhiên tuỳ thuộc nguyên nhân gây ra, cũng như tuỳ hoàn cảnh tâm tính bệnh nhân vì có những người dễ bị đau mãn tính hay có những trường hợp bệnh nhân trong tiềm thức hưởng lợi từ tình trạng bệnh tật của mình. Châm cứu được một số người dùng vì không tuỳ thuộc vào thuốc; căn cứ trên y lý đông phương nên cần bác sĩ đông y hướng dẫn. Yoga có thể có ích đặc biệt trong hội chứng cơ piriformis gây ra sciatica vì có thể làm giãn cơ này. Tuy nhiên, những tư thế gập người ra phía trước, hay giãn các cơ phía sau đùi (hamstring muscles stretching) có thể là thần kinh sciatic khó chịu thêm. Tập các bắp cơ bụng và phía dưới lưng có khả năng giữ tonus các cơ bắp tốt hơn. Tuy nhiên, dùng tạ nặng bao nhiêu, tư thế tập lưng, bụng như thế nào cần chuyên viên vật lý trị liệu hướng dẫn, tránh những tư thế quá đáng, hoạt động làm đau nhiều thêm.
Bác sĩ Hồ văn Hiền.

U thần kinh lành tính ở nách

1. Chúng ta sẽ không bàn đến một bệnh di truyền, neurofibromatosis (NF), cũng gây ra những u bướu gọi là u xơ-thần-kinh (neurofibroma) bất cứ ở đâu có mô thần kinh (óc, tuỷ sống, dây thần kinh), biểu hiện bằng những vết màu cà phê sữa ngoài da (cafe-au-lait spots); những u bướu mọc dưới da và những chỗ khác, có khi rất lớn; u bướu dây thần kinh thị giác (optic glioma). NF thường được phát hiện từ lúc bệnh nhân còn nhỏ tuổi.
Ở đây chúng ta bàn về u bướu thần kinh riêng lẻ ở nách mà thôi. Bướu của hệ thần kinh thường nằm trong não bộ và tủy sống (brain and spinal cord) là nơi hiện diện các tế bào thần kinh (neuron). Tuy nhiên, có một loại tế bào cũng là gốc thần kinh, lại có thể được phân phối ra các chỗ xa hơn (như tay chân), đó là bướu do tế bào Schwann tạo nên, tạm dịch là u tế bào Schwann (UTBS, Schwannoma)). Đây là một loại bướu hiền, mọc chậm, có gốc gác từ tế bào thời còn phôi thai trong bụng mẹ, và là tế bào hiền, không phải ung thư.

2. Hệ thần kinh chúng ta gồm não bộ và tủy sống được tạo nên bằng những tế bào thần kinh (neuron). Các neuron này liên lạc với nhau, phát những tín hiệu đến (ví dụ đến các cơ bắp ra lệnh cho chúng co lại) hay nhận những tín hiệu từ các bộ phận khác (ví dụ từ da để biết tình hình bên ngoài như thế nào) là nhờ một sợi dây rễ mọc từ tế bào thần kinh gọi là axon, tương tự như dây tỏa ra từ một cái máy tính để đem tín hiệu từ máy tính ra các máy khác. Sợi dây này được một lớp mỡ bao bọc, gọi là myelin. Chất myelin này do một loại tế bào chuyên biệt sản xuất gọi là Schwann cell, đặt theo tên của một nhà khảo cứu về sinh lý người Đức tên Theodor Schwann tìm ra tế bào này. Tế bào Schwann có nguồn gốc từ một bộ phận của phôi thai tên là neural crest, được nhích ra (pinched out) tách rời từ ống thần kinh (neural tube, là nguồn gốc của tuỷ sống).

Các tế bào của neural crest được phân hoá thành nhiều bộ phận khác nhau trong cơ thể, như tế bào phụ trách màu da melanocyte, tế bào răng (odontoblasts), tế bào của màng óc (meninges) bao bọc che chở cho não bộ, và trong trường hợp chúng ta đang bàn, tế bào Schwann bao bọc và che chở cho các sợi dây thần kinh.
3. UTBS thường xảy ra ở đầu, các chi về phía lòng bàn tay và lòng bàn chân, phía khuỷu tay, đầu gối co lại [flexor surfaces of the extremities). Tuy nhiên trong trường hợp hiếm, UTBS có thể xảy ra ở nách (axillary schwannoma), là nơi tồn tại mạng thần kinh đi từ tủy sống ra phụ trách điều khiển chi trên (vai, cánh tay, cẳng tay, bàn tay; brachial plexus). UTBS ở đây mọc dọc theo sợi dây thần kinh. Nó mọc chậm và lúc tế bào chết vì mạch máu không cung cấp đủ dinh dưỡng lúc u bướu quá lớn, thoái hóa (degeneration), UTBS có thể được phát hiện như là một u nang (cyst) khó phân loại trên chẩn đoán hình ảnh như siêu âm, MRI.
4. Lúc bác sĩ tìm thấy một cục u ở nách bệnh nhân, không phải là bs biết ngay cục u bướu đó là loại gì. Ví dụ UTBS ở nách rất hiếm, nếu sờ được một khối u, bác sĩ sẽ trước tiên nghĩ đến sưng hạch (adenopathy) do nhiễm trùng, hay di căn ung thư vú (breast cancer metastasis) là những chuyện thường gặp hơn. Ngược lại nếu bệnh nhân có những triệu chứng đau cổ, vai, tay các bác sĩ trước tiên nghĩ các triệu chứng này do khớp xương sống hay khớp vai gây ra trước khi nghĩ đến u bướu do tế bào Schwann chèn ép các dây thần kinh và khám kỹ vùng nách.
Cho nên, cần phải phẫu thuật lấy u ra thử nghiệm bệnh học mới biết rõ là loại gì, có độc (ung thư) hay không.
5. Vấn đề cánh tay bị "tê bại" sau khi mổ có thể do dây thần kinh của mạng brachial plexus bị ảnh hưởng (phụ trách cảm giác và vận động cánh tay, bàn tay; brachial plexus injuries). Người duy nhất biết ảnh hưởng thế nào, và tiên lượng ra sao, là bác sĩ giải phẫu cho trường hợp này. Cần bao lâu mới phục hồi cũng do nguyên nhân gì làm tê bại, phương tiện y khoa vật lý trị liệu và phục hồi (physical therapy and rehabilitation) được dùng, tình trạng sức khoẻ bệnh nhân, những yếu tố mà chúng ta không thể bàn được.
6. Dây thần kinh (axon) bị hư hại có thể mọc lại, nhưng chậm, 1mm/ngày. Trong lúc đó vật lý trị liệu giúp bệnh nhân dùng tay kia để sinh hoạt, tập để tránh khớp bị co rút (contracture), cơ bị teo (atrophy), mang dây treo “sling” treo tay lên nếu cần cho bớt sưng. Một số trường hợp brachial plexus injury (ví dụ do tai nạn), bác sĩ có thể ghép, nối lại các dây thần kinh bị đứt đoạn, lý tưởng là trong vòng 6 tháng.
BS Hồ Văn Hiền

Bệnh tai biến não

1- Nguyên nhân stroke:
Động mạch chủ (aorta, mạch máu đem máu từ tim), cho 2 nhánh lên vùng cổ để nuôi đầu (gồm cả não bộ) gọi là động mạch cảnh (carotid arteries; cảnh=cổ), chia ra nhiều nhánh nhỏ hơn vào nuôi các phần khác nhau của não bộ.
(I) Ischemic stroke: đột quỵ do thiếu máu cục bộ
Một nhánh động mạch có thể bị nghẽn (động mạch hay “artery” là mạch máu đem máu đỏ giàu Oxy và chất dinh dưỡng đến nuôi tế bào óc):
a) Trong trường hợp embolic stroke: do một cục máu (clot, thrombus) bất thường đông từ chỗ khác đi đến (embolus), gặp một nhánh nhỏ thì nó kẹt lại.
Nguyên nhân thường gặp là rung tâm nhĩ (atrial fibrillation).
Tâm nhĩ (atrium) là một cái túi nhỏ phía trên trái tim, chứa máu từ cơ thể đi về tim, trước khi máu vào tâm thất (ventricle) và được bơm đi. Bình thường tâm nhĩ bóp nhịp nhàng theo tim đập; nếu rối loạn nhịp tâm nhĩ, nó rung hỗn độn, không hữu hiệu, làm máu lẫn quẩn quá lâu, dễ đóng cục (thrombus formation). Cục máu chạy lên mạch máu nuôi bộ óc (cerebral artery), nếu kẹt vào nhánh nào sẽ làm nghẽn nhánh đó (embolization).
Bỗng nhiên đi không được, đứng dậy không được có thể là dấu hiệu của stroke, nhất là nếu yếu chỉ một bên. Trong trường hợp TIA, một cục máu đông làm mạch máu tắc nghẽn rồi sau đó cục máu tan biến đi nhanh chóng. TIA, viết tắt của transient ischemic attack (còn gọi là mini-stroke, attack=tấn công, transient=thoáng qua, đi qua chốc lát, ischemic=do thiếu máu nuôi não bộ), triệu chứng đến rồi qua nhanh, người bệnh trở lại bình thường nhanh chóng, dưới 5 phút, trung bình là 1 phút. Có thể lúc đến gặp bác sĩ thì bác sĩ khám không thấy gì. Tuy nhiên, bệnh nhân có thể bị stroke trở lại sau đó, và bị nặng hơn, không thoáng qua như lần đầu. Cho nên TIA còn gọi là "warning stroke" (cảnh báo, báo động), cần có biện pháp ngăn chặn "permanent stroke" (tai biến "thường trực") có thể đi theo.
b) trong trường hợp thrombotic stroke: do một cục máu đông tại chỗ (thrombosis). Những người mỡ trong máu cao, tuổi già vách động mạch bị xơ vữa (atherosclerosis). Cơ thể xem những nơi này là những vết thương cần hàn gắn lại bằng cách cho các tiểu bản kết tụ (platelet agglutination), tạo một cục máu ở đó. Cục máu làm tắc nghẽn động mạch.
(II) Hemorrhagic stroke: đột quỵ do chảy máu (xuất huyết), động mạch có thể gián đoạn do một mạch máu nở ra bất thường (aneurysm), đã có sẵn (bẩm sinh) nhưng không có triệu chứng, áp huyết cao kinh niên có thể làm mạch máu hư hại thêm. Đến lúc vách động mạch không còn chịu đựng nổi áp suất trong mạch, mạch máu bể ra, cắt đường tiếp tế cho vùng tế bào não liên hệ.
2) Huyết áp cao là một yếu tố cơ nguy làm người bệnh dễ bị tai biến mạch máu não hơn. Mạch máu chịu stress từ áp suất cao hơn nên dễ bị xơ cứng hơn, bị hư hại, làm tế bào máu (tiểu bản) dễ tụ lại tạo nên một cục máu đông làm bít dòng máu đang đến nuôi một phần nào của của bộ óc. Ngoài ra, nếu áp huyết cao, mạch máu sẽ bị dãn nở, vách động mạch yếu đi, cho đến lúc vỡ ra, làm máu không đến nuôi được vùng tế bào thần kinh phía trước (hemorrhagic stroke).
3) Thuốc hạ huyết áp do đó làm giảm cơ nguy stroke. Người ta ước tính rằng lúc cho những người có dấu hiệu áp huyết bắt đầu lên cao (giữa 120/80 mmHg và 139/89 mmHg) dùng lâu dài, cơ nguy stroke giảm chừng 32%.
4) Thuốc chống tiểu bản như aspirin, Plavix; thuốc làm máu khó đông hơn như warfarin: làm giảm khả năng máu đóng cục và nghẽn động mạch gây thrombotic stroke.
5) Một người đang uống các thuốc trên, nếu ngưng thuốc lâu, vấn đề che chở do việc dùng thuốc sẽ giảm đi và ngưng lại, tuy nhiên những cơ nguy do biến chứng của thuốc cũng sẽ bớt đi. Ví dụ người bệnh ngưng dùng aspirin thì khả năng đông máu trở lại bình thường, khả năng máu đông thành cục tăng lên, nhưng ngược lại cơ nguy chảy máu ở dạ dày, ruột, chảy máu trong não bộ sẽ giảm đi.
6) Ở người bị rung tâm nhĩ, bệnh nhân bị máu đông tĩnh mạch sâu cẳng chân (deep vein thrombosis), bệnh nhân vừa mổ thay khớp đầu gối hoặc khớp háng bác sĩ có thể cho thuốc làm "loãng máu" mới tên Xarelto để ngừa máu đông thành cục gây tắc nghẽn mạch máu (thromboembolic events). Trong thông tin về thuốc này, có một 'hộp đen" (black box) ghi rõ cảnh báo không được tùy tiện ngưng thuốc làm cơ nguy stroke gia tăng, cũng như không được chọc lấy nước tuỷ sống (spinal puncture) hay để gây tê quanh tuỷ sống lúc giải phẫu (neuraxial anesthesia).
7) Khó có thể nói ngưng uống thuốc nào đó một liều hay bao nhiêu liều sẽ hậu quả ra sao, vì tuỳ theo thuốc đó có tác động gì, biến dưỡng thuốc (drug metabolism) đó trong cơ thể người bệnh ra sao. Nói chung một khi bác sĩ quyết định dùng một thuốc gì, nếu người bệnh muốn ngưng thuốc đó cần có ý kiến của bác sĩ những hậu quả quan trọng có thể xảy ra. Ví dụ, ngưng thuốc hạ huyết áp có thể làm áp huyết vọt lên quá cao một cách đột ngột; một người dùng thuốc corticoid lâu ngày có thể mất khả năng tự sản xuất chất hormone này lúc cần thiết như lúc bị nhiễm trùng, bị stress.
8) Người bệnh bị stroke có thể sưng phía bên bị liệt hay yếu, ví dụ hai bàn chân, bàn tay. Cơ chế tại sao chưa được giải thích đích xác. Tuy nhiên, có thể có những yếu tố sau đây:
Phần bị yếu, liệt, không được cử động, vận động vì các bắp thịt không nhúc nhích được; trong khi đó sự vận dụng các dịch trong những vùng thấp hơn trái tim tuỳ thuộc vào các cơ bắp vùng đó. Ví dụ, chúng ta đứng một chỗ lâu quá, hai bàn chân dễ bị sưng, vì dịch lâm ba trong các kênh lâm ba không được các bắp thịt lúc chúng co bóp đẩy về phía tim.
Vì não bộ bị tổn thương, các dây thần kinh kiểm soát tính cương (tone, tonus) các mạch máu có thể bị rối loạn, do đó các tĩnh mạch không còn đủ khả năng dẫn máu về tim một cách hoàn hảo.
Về vấn đề này, điều quan trọng là cần nhờ bác sĩ xem có phải là huyết khối tĩnh mạch sâu (deep vein thrombosis) hay không vì chứng này nguy hiểm. Còn không, thì nên kê chân, tay kê cao hơn lúc có thể để giúp máu, dịch chảy về tim, cũng như mang các vớ bó chặt hai cẳng chân để chân bớt sưng (tight stocking). Bác sĩ cũng có thể cho bệnh nhân mang những cái "sling", dụng cụ treo cánh tay lên để giữa khớp vai ổn định dưới sức kéo xuống do sức nặng của cánh tay.
9) Mặt có thể sưng vì nhiều lý do rất khác nhau. Người bệnh vì một lý do nào đó chỉ nằm nghiêng một bên mà không nhúc nhích nhiều, các dịch có thể ứ đọng qua một bên, là mặt sưng nhiều hơn là bên kia. Máu lưu thông trong tĩnh mạch bất bình thường cũng có thể làm sưng lên phía đó. Nếu là nhiễm trùng thì kèm theo đau, nóng sốt, da sờ nóng. Thường, sưng do dị ứng kèm theo triệu chứng ngứa, và lúc hỏi bệnh, bác sĩ có thể tìm hiểu bệnh nhân dị ứng với cái gì, chất gì và tại sao một bên mặt bị phản ứng mà bên kia lại không (ví dụ dị ứng với một thuốc chỉ thoa có một bên, hay nằm nghiêng trên gối có dính chất gây dị ứng.)
10) Một hai ngày sau khi bị stroke, bệnh nhân có thể hồi phục ít nhiều, lúc còn trong nhà thương. Sau đó là giai đoạn y khoa phục hồi 4-6 tuần, 5-6 ngày/tuần với chuyên viên vật lý trị liệu, trong nhà thương hoặc ngoại chẩn. Phần lớn các sự hồi phục xảy ra trong 6 tháng đầu. Sau đó, tùy bệnh nhân, tùy phương tiện phục vụ bệnh nhân.
Sau mấy ngày đầu:
  • 10% hồi phục hoàn toàn
  • 25% chỉ có vần đề nhỏ
  • 40% triệu chứng vừa hay nặng
  • 10% cần săn sóc lâu dài (long-term care), cần người khác giúp đỡ lúc mặc áo quần, tắm rửa, ăn uống, chuyển từ giường sang xe lăn, đi phòng vệ sinh (các sinh hoạt đời sống hằng ngày; activities of daily living hay ADLs).
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bệnh vẩy nến nếp gấp da (bệnh vẩy nến ngược)

Bệnh vẩy nến (psoriasis, tiếng Hy lạp, có nghĩa: ngứa) là một bệnh da mãn tính, do hiện tượng tự miễn nhiễm (autoimmune disease). Hệ miễn nhiễm rối loạn chống lại chính cơ thể mình, làm một số tế bào da sanh sản quá nhanh, đồng thời gây ra các hiện tượng viêm (inflammation) trong da cũng như một số bộ phận khác như khớp xương và mắt. Chừng 1-3% dân số mắc bệnh này, tùy theo địa phương. Ảnh hưởng di truyền đóng vai trò quan trọng. Đa số phát bệnh lúc tuổi đã trưởng thành (trung bình 28 tuổi) tuy trẻ em cũng có thể mắc bệnh. Stress về tâm lý, thương tích ngoài da có thể làm bệnh bộc phát hoặc nặng thêm. Bệnh khó chữa dứt, hay tái đi tái lại.
Triệu chứng:
Dạng thường gặp là những mảng đỏ hồng (màu thịt cá hồi salmon), có lắn ranh rỏ rệt, trên mặt phủ bằng những vảy ly ty, màu bạc, giống các vẩy đèn cầy (đèn sáp, nến) nên chúng ta gọi tên như vậy trong tiếng Việt. Thường gặp ở da đầu, cùi chỏ, đầu gối, lòng bàn tay, lòng bàn chân, và bộ phận sinh dục. Móng tay, móng chân lốm đốm những lổ nhỏ (pitting).
Có một loại vẩy nến hiếm hơn và có những triệu chứng khác bệnh vẩy nến điển hình gọi là bệnh vẩy nến nếp gấp da hay bệnh vẩy nến ngược (flexural psoriasis or inverse psoriasis). Thay vì nằm ở những chỗ da dày như cùi chỏ, đầu gối, lưng bàn tay, da đầu, trong trường hợp này, các vết thương nằm trong các nếp gấp/xếp của da như nách, háng, dưới vú, bộ phận sinh dục, kẻ giữa hai mông, sau hai vành tai, vùng dưới của cổ. Bệnh vẩy nến này không có hoặc có ít vảy màu bạc điển hình, nhưng vết thương vẫn đỏ, có bờ ranh giới rỏ rệt. Cần phân biệt với các bệnh thông thường như lác, seborrhea. Vì những vùng da này mỏng và ẩm ướt hơn, nên dễ khó chịu lúc trời nóng, ra mồ hôi nhiều dễ bị nhiễm nấm, nhiễm khuẩn, da dễ bị dày cộm lên từng mãng do gãi ngứa mãn tính(lichenification). Vì có thể xảy ra ở chỗ kínn, hay một số người chỉ có vết thương ngứa, sưng đỏ, chảy nước ở chỗ kín, có thể ảnh hưởng đến sinh hoạt tính dục của họ, có thể cần phân biệt với một số bệnh khác truyền nhiễm do đường tính dục, có thể gây những vấn đề nhạy cảm cho người bệnh hay người phối ngẫu nếu định bệnh sai.
Một số bệnh nhân còn bị viêm khớp (psoriatic arthritis). Một số bệnh nhân (10%) còn có triệu chứng ở mắt. Bệnh nhân psoriasis dễ bị trầm cảm (depression) cũng như dễ mắc chứng “hội chứng chuyển hóa” (metabolic syndrome, gồm áp huyết cao, mập, mỡ trong máu cao, đường máu cao, dễ bị bệnh tim mạch).
Trị liệu:
1) Bệnh nhẹ, với một số mảng nến (plaque) lớn, thường bác sĩ dùng những kem thoa có chất corticoid (hormone do vỏ tuyến thượng thận tiết ra, có khả năng làm giảm viêm) cực mạnh (ultra high potency corticosteroid) trong 2-3 tuần, sau đó dùng trong những “xung kích “(pulse) ngắn cuối tuần, rồi dần dần chuyễn qua corticoid loại trung bình,yếu hơn.
Tuy nhiên, corticoid chỉ cho thuyên giảm tạm thời, nên đồng thời người ta cũng dùng một thuốc thoa da (ointment, cream, lotion) thứ nhì tên calcipotriene (Dovonex) là một analog của vitamin D (vitamin D cũng làm psoriasis thuyên giảm, nhưng có tác dụng phụ nhiều hơn ở liều cao). Một số thuốc thoa kết hợp chất corticoid betamethasone với calcipotriol (Taclonex,Dovobet).
2) Đối với những mảng nhỏ psoriasis phân phối rải rác ở một vùng rộng lớn hơn, thoa thuốc corticoid trở thành bất tiện và người ta dùng ánh sáng trị liệu bằng tia cực tím (phototherapy with ultraviolet light/UV). Đã từ lâu, người ta đã dùng nắng (ánh sáng mặt trời) để trị một số bệnh ngoài da như bệnh vẩy nến. Tác dụng của nắng nhờ tia cực tím trong ánh sáng mặt trời. Tia cực tím làm giảm độ sinh sản bất bình thường của tế bào ngoài da và làm giảm các hiên tượng viêm (là hai yếu tố chính gây nên psoriasis).
3)Trường hợp nặng hơn, bs có thể dùng phương pháp kết hợp chất psoralen (thoa lên da hoặc uống rồi được hấp thụ rồi máu đem đến da) với rọi tia cực tím A (PUVA). Tia cực tím tác dụng lên trên chất psoralen trong da (photochemotherapy). Dùng PUVA lâu dài có thể tạo nguy cơ ung thư da, làm da già nhanh chóng (photoaging), bỏng da, cho nên bs bệnh da cần theo dõi bệnh nhân theo định kỳ.
4) Gần đây, người ta dùng excimer laser để chữa psoriasis (từ 1997).Tia cực tím trong tia laser tác động chính xác hơn vào các vết vảy nến.
5) Những thuốc có khả năng làm giảm hoạt động của các hiện tượng phòng thủ của cơ thể (thuốc ức chế miễn nhiễm/immunosuppressive agents) như
  • methotrexate,
  • acitretin (Soriatane) (2 chất này có thể độc gan),
  • cyclosporine (có thể độc thận) được dùng trong những trường hợp nặng và tùy trường hợp có thể dùng song song với ánh sang trị liệu bằng tia cực tím.
  • Đặc biệt dùng acitretin cần phải tránh có bầu trong 3 năm sau khi ngưng thuốc, vì khả năng gây quái thai (teratogenic).
6) Ngoài ra, trong những trường hợp nặng không thuyên giảm với các trị liệu trên, hoặc tránh các phản ứng phụ nguy hiểm của corticoid, có những thuốc mới hơn gọi là ‘biologic” ( tác nhân sinh học).Ví dụ: thuốc chống lại yếu tố “Tumor Necrosis Factor” (TNF là yếu tố gây viêm trong psoriasis)] như Remicade (infliximab), cần chích tĩnh mạch (truyền IV trong 2 tiếng, nhiều lần, và rất đắt tiền (trên 1000 dollars/liều).
7) Chữa bệnh inverse psoriasis có những thách thức đặc biệt:
  • Vì khó định bệnh hơn, không có các vảy điển hình như vẩy nến thường, có thể giống hoặc đi đôi với bệnh bã nhờn (seborrhea) thường gặp hơn và cũng xảy ra ở các vùng da xếp lại. Trong bệnh sebopsoriasis cả 2 bệnh đi đôi với nhau. Có thể bác sĩ cần sinh thiết (biopsy) mới xác định được.
  • Da mỏng, ướt dễ nhạy cảm với các thuốc thoa, như corticoid, charcoal (than), photochemotherapy; tia cực tím khó hiẹu nghiệm vì khó đi vào các kẽ da (có thể làm tại phòng mạch bác sĩ thì tốt hơn).
  • Một loại thuốc thoa gọi là calcineurin inhibitor ("ức chế calcineurin", thuộc loại ức hế hệ miễn nhiễm) như tacrolimus (Protopic 0.1% ointment)hay pimecrolimus (Elidel ointment). (Hai thuốc này đắt tiền; nguyên là thuốc dùng trong ghép nột tạng, thuốc thoa được dùng cho bệnh lác [eczema], viêm da cơ địa [atopic dermatitis]).
  • Có báo cáo khoa học cho thấy dùng dapsone (thuốc dùng trị bệnh cùi/bệnh Hansen) có kết quả đảo ngược những trường hợp inverted psoriasis nặng, khó trị của vùng sinh dục của phụ nữ. (Guglielmetti)
8) Vệ sinh trong sinh hoạt hàng ngày như giải quyết các vấn đề gây stress, uống dầu cá (fish oil), vitamin A và D (liều vừa phải), tập thể dục, ra nắng, ngưng hút thuốc lá, cai rượu, giảm cân nếu quá mập đều có thể có tác dụng tốt trong việc chữa trị psoriasis.
Bs Hồ Văn Hiền

Bệnh Multiple Sclerosis (MS) (đa xơ cứng)

Bệnh này gọi là Multiple Sclerosis (MS) (đa xơ cứng), nhưng xin chú ý đây không nói về xơ cứng xương khớp, mà từ "xơ cứng" (sclerosis) được các bác sĩ giải phẫu học thế kỷ thứ 19 dùng để mô tả những mảng (plaque) mô sờ cưng cứng như mô thẹo , rải rác trong não bộ và tủy sống bệnh nhân lúc giải phẫu tử thi (multiple = đa; sclerosis, từ la-tin có nghĩa là thẹo [scar]).
Các sợi trong bó dây thần kinh được bao bọc bởi một chất mỡ bảo vệ gọi là myelin, và dòng điện dẫn truyền riêng rẽ theo từng sợi thần kinh. Cũng giống như dây cáp video có lớp nhựa bao bọc mỗi sợi dây điện trong đó, làm điện không bị "mát dây". Trong bệnh MS, các tế bào hệ miễn nhiễm (immune system) phá hủy chất myelin của dây thần kinh, và phá hủy các tế bào sản xuất chất myelin này (oligodendrocytes).
Các tế bào phòng thủ tấn công chất myelin trong não bộ, dây thần kinh thị giác và tủy xương sống, tạo nhiều hư hại, trong vùng chất trắng (white matter) cũng như chất xám(grey matter) của bộ não và gây những triệu chứng thần kinh như mất khả năng trí tuệ (loss of cognitive abilities), mệt mỏi (fatigue), chóng mặt, trầm cảm (depression), liệt các cơ của cơ thể (paralysis).Viêm dây thần kinh thị giác (optic neuritis) có thể là triệu chứng đầu tiên của MS, một bệnh của hệ thần kinh (nervous system), bao gồm bộ óc (brain) và tủy sống (spinal cord).
Yếu tố di truyền
Bệnh MS có thể gắn liền với một số yếu tố di truyền. Tính theo thống kê thì bà con người bệnh (cha mẹ, anh chị em, cô dì chú bác) có thể bị MS nhiều hơn là những người mà gia đình không mắc bệnh. Anh chị em ruột của người bệnh MS (siblings) có xác suất bệnh (nguy cơ) chừng 3-5%.
Người ta nghĩ rằng có nhiều gene khác nhau quyết định có phát bệnh MS trong một cá nhân.
Hoàn cảnh môi trường
Có thuyết cho rằng người mắc bệnh sinh ra với một xu hướng bẩm sinh, làm cho người đó phản ứng thế nào đó với một yếu tố nào đó trong môi trường sống và do đó gây ra bệnh MS; nói một cách khác có một khuynh hướng bẩm sinh do di truyền nhưng cũng cần hoàn cảnh môi trường thích hợp thì bệnh MS mới phát ra được.
Có một số nghiên cứu làm cho người ta nghi rằng một số virus có thể là nguyên nhân gây MS như Epstein Barr (gây ra bệnh sưng họng rất truyền nhiễm của thanh thiếu niên, gọi là mononucleosis hay “bệnh hôn” [kissing disease]); virus bệnh viêm gan; hay virus bệnh trái rạ (thuỷ đậu, chickenpox), nhưng chưa có bằng chứng rõ rệt về tương quan nhân quả giữa các virus này và bệnh MS.
Hormone nam, testosterone có khả năng giảm các hiện tượng tự miễn nhiễm, có lẽ vì vậy mà nam giới ít bị MS hơn nữ giới. Hormon nữ estrogen và progesterone cũng có tác dụng che chở đối với hiện tượng tự nhiễm, có thể giải thích phụ nữ thấy bệnh MS của mình giảm đi đáng kể lúc có bầu, do hai hormone kể trên gia tăng nhiều lúc thai kỳ.
Chẩn đoán bệnh đa xơ cứng(MS)
Dựa trên các tiêu chuẩn:
- Bằng chứng khách quan chứng minh có hai, hoặc nhiều hơn, dấu hiệu tổn thương ở não bộ hoặc tủy sống
- Các dấu hiệu này trải dài trong thời gian và không gian: có nghĩa là các tổn thương xảy ra trên hai vùng khác nhau của hệ thần kinh trung ương, và cách nhau trên ba tháng.

Chữa trị bệnh MS
Trong 10 năm qua, chữa trị bệnh MS đã cải thiện hơn nhiều, nhờ những thuốc mới được dùng ngay sau khi bệnh nhân được xác nhận là mắc bệnh đa xơ cứng (MS), và các tiến bộ về chẩn đoán hình ảnh (imaging) bằng MRI, tuy chúng ta vẫn cần những liệu pháp tốt hơn, hữu hiệu hơn.
Cần bác sĩ chuyên khoa thần kinh (neurologist) có kinh nghiệm chữa MS.
Có những thuốc mới (immunomodulators) đắt tiền có thể cải thiện các cơn bệnh, làm tiến trình chậm lại.
1)Những “thuốc biến đổi bệnh" được chứng minh làm giảm các cơn cấp tính (thuốc chích) (Disease-modifying drugs that reduce the number of exacerbations )
●interferon beta 1b (Betaseron, Extavia)(subcutaneous injection)
●glatiramer acetate (Copaxone)(subcutaneous injection)

2)Những “thuốc biến đổi bệnh" được chứng minh làm giảm các cơn cấp tính và làm chậm sự tiến triển của bệnh: (Disease-modifying drugs that have been shown to reduce exacerbations and slow the progression of MS):
●interferon beta-1a (Avonex, Rebif) (Intramuscular injection, oncea week)
●peginterferon beta-1a (Plegridy)
●teriflunomide (Aubagio)
●fingolimod (Gilenya), thuốc uống
●mitoxantrone (Novantrone). Cho trường hợp rất nặng. Thuốc cũng dùng trị ung thư, có thể gây độc cho tim và gây ung thư máu. (intravenous every 3 months)
●dimethyl fumarate (Tecfidera), thuốc uống
●natalizumab (Tysabri) Thuốc này ngăn chặn các tế bào phòng thủ của hệ miễn nhiễm không cho chúng vào hệ thần kinh trung ương, vì thế chúng không tấn công các tế bào thần kinh. Tuy nhiên, chỉ dùng khi các thuốc khác thất bại. Thuốc này liên quan đến một số trường hợp nhiễm trùng não.(PML: progressive Multifocal Leukoencephalopathy). (Intravenous every 28 days).

Trong đó, có 3 thứ thuốc uống để giúp MS không bị tái lại (relapses):
1)Aubagio (teriflunomide) (Cảnh báo của FDA: cần theo dõi cơ năng gan và ảnh hưởng trên thai nhi đối với người có bầu,không được dùng cho người có bầu). Tác dụng phụ: tiêu chảy, ói, rụng tóc, cơ năng gan bất bình thường.
2)Gilenya (fingolimod): uống 1 viên/ngày. Phản ứng phụ: tiêu chảy, nhức đầu, đau lưng, ho, cơ năng gan ảnh hưởng; bệnh nhân phải chủng ngừa.
3)Tecfidera: uống 2 lần/ngày; cần theo dõi các tế bào bạch cầu máu. Phản ứng phụ: đau bụng, tiêu chảy, ói. Một hoạt chất liên hệ có thể liên hệ đến một số trường hợp nhiễm trùng não.

Có những biện pháp giúp cải thiện đời sống hàng ngày của bệnh nhân, do đó cần cộng tác với bác sĩ gia đình, chuyên viên vật lý trị liệu, bác sĩ tâm thần, etc.
Nói tóm lại, multiple fibrosis do hệ miễn nhiễm tấn công các sợi thần kinh và cả tế bào thần kinh. Bịnh bớt rồi tái lại từng cơn (relapses, exacerbations), triệu chứng đi từ bộ phận này qua bộ phận khác, trải dài trong thời gian.
Định bệnh căn cứ phần lớn trên bệnh sử các triệu chứng, cho nên bác sĩ cần nhiều thì giờ điều tra và theo dõi mới chẩn đoán chính xác, phân biệt với nhiều bệnh tương tự.
Cần bác sĩ chuyên khoa thần kinh (neurologist) có kinh nghiệm chữa MS. Có những thuốc mới (immunomodulators) đắt tiền có thể cải thiện các cơn bệnh, làm tiến trình chậm lại.
Bác sĩ Hồ văn Hiền

Bệnh viêm gan B

Hiện nay các thuốc dùng chữa bệnh viêm gan B mãn tính gồm:
1) Các chất điều hành hệ miễn nhiễm (immunomodulatory agents) như interferon alfa-2b (Intron A); Pegasys (Pegylated Interferon): chất tổng hợp giống như chất tự nhiên của cơ thể sản xuất để chống nhiễm khuẩn, thuốc chích, dùng cho người trẻ không muốn dùng thuốc lâu dài, muốn có thai kịp thời. Có thể gây trầm cảm, khó thở.
2) Các chất oral nucleoside/nucleotide analog như lamivudine (Epivir), tenofovir, adefovir (Hepsera), telbivudine (Tyzeka) và entecavir (Baraclude), những thuốc uống, ức chế men (enzyme) DNA polymerase của siêu vi HBV, ngăn chặn không cho nó sinh sản và giảm thiểu tác hại trên gan. Thuốc thịnh hành vì có thể uống mỗi ngày một lần và ít phản ứng phụ. Bất tiện chính là dễ lờn thuốc do siêu vi đột biến, và bệnh tái phát (relapses).
Thuốc Baraclude (tên thương mại của Entecavir) được cơ quan quản trị thuốc của Hoa kỳ là FDA chấp thuận được dùng để chữa những trường hợp viêm gan B mà virus sinh sản tích cực (active viral replication) cộng với tổn thương ở gan, chứng minh bằng các xét nghiệm cơ năng gan (enzyme ALT hoặc AST lên cao) hoặc sinh thiết tế bào gan cho thấy bệnh đang ở giai đoạn tích cực, hoạt động (active liver disease). Năm 2010, FDA, chấp thuận việc dùng entecavir cho các trường hợp suy gan (liver failure) do siêu vi gan B.
Xin trích dẫn một số điểm công bố trong package insert được FDA chấp thuận:
- Các biến chứng thường gặp nhất: nhức đầu, mệt mỏi, buồn nôn, ói.
- Uống entecavir nếu ngừng đột ngột có thể là bệnh nhiễm trở nặng hơn, nhất là trong 6 tháng đầu.
- Thuốc thải ra ngoài do thận, nên nếu cơ nặng thận yếu, giảm thấp do tuổi già, phải điều chỉnh liều thuốc.Thuốc lại có khả năng gây độc gan (hepatotoxicity): nếu da vàng, buồn nôn, phân mất màu, trở nên trắng, phải cho bác sĩ mình biết.
- Thuốc không có khả năng trị dứt (cure) nhiễm trùng siêu vi gan B mà chỉ làm giảm lượng virus trong cơ thể, giảm khả năng nhiễm những tế bào gan mới.
- Thuốc có thể làm cơ năng gan tốt hơn.
- Tuy nhiên theo kiến thức hiện nay, không biết thuốc có giảm nguy cơ ung thư và xơ gan do viêm gan B mãn tính gây ra hay không.

Khác với entecavir, birinapant (đang trong vòng thử nghiệm [investigational drug], của Tetralogic Pharmaceuticals, USA) tấn công trên tế bào gan bị nhiễm khuẩn thay vì tấn công trên virus. Bình thường, tế bào cơ thể của chúng ta có hiện tượng tự sát, gọi là "apoptosis". Tế bào tự huỷ diệt một cách đều đặn có kiểm soát, chừng 50-70 tỷ tế bào tự huỷ diệt mỗi ngày trong cơ thể một người lớn. Tế bào tự sát có thể vì lý do nội tại (stress) hay vì lý do ngoại lai, lúc mà các tế nào khác ra lệnh cho nó tự sát. Các chất enzyme phụ trách tiêu hoá các protein trong tế bào được kích hoạt, làm "nổ tung" tế bào ra từng mảnh được các tế bào phụ trách dọn dẹp (đại thực bào, macrophage) nuốt vào và thanh toán sạch sẽ không để lại dấu vết.
Apoptosis quá nhiều thì bộ phận teo lại, quá ít thì tế bào sinh sản quá nhiều, là hoàn cảnh bệnh ung thư, cho nên cơ thể lành mạnh phải giữ mức tạo tế bào mới quân bình với sự tự huỷ hoại của tế bào cũ hay bệnh hoạn.
Trong trường hợp tế bào nhiễm virus viêm gan B mãn tính, virus có khả năng ngăn chặn hiện tượng apoptosis này (Cellular Inhibitors of Apoptosis Proteins or cIAP), giữ cho tế bào gan sống để chúng khai thác và sinh sôi nẩy nở theo, vì bản thân virus không thể sống độc lập được. Thuốc birinapant có khả năng đảo ngược tác dụng này của virus (cIAP antagonist) và làm cho những tế bào bị virus nhiễm phải tự huỷ, tự sát, làm cho virus không còn nơi chốn để ẩn núp, ăn bám. Theo Tiến sĩ Marc Pellegrini, tác giả chính của khảo cứu được công bố trên báo Proceedings of the National Academy of Sciences (Mỹ), thì trong lúc đó, thuốc không hại đến các tế bào gan bình thường. Đồng thời, dùng với kháng sinh khống HBV, các virus được thanh toán nhanh gấp hai lần nếu dùng một mình birinapant.

Đứng về phương diện chiến lược, tấn công hai mặt một bên là thuốc chống virus (antiviral agent), bên kia là tấn công sào huyệt của nó (tế bào bệnh bị huỷ diệt) là một chiến lược tốt trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, khi đem áp dụng trên người bệnh thật (clinical trial), thì gặp những biến chứng về thần kinh (hình như bệnh nhân bị liệt thần kinh sọ [cranial nerve]), cho nên các thử nghiệm lâm sàng bị ngưng lại. Cho đến bây giờ, thì tôi không tìm được tin tức nào mới về các thử nghiệm lâm sàng này nữa. Có thể trong tương lai, sẽ có những cố gắng mới, nhưng có lẽ mất nhiều năm mới ngã ngũ. Tetralogic Pharmaceuticals loan báo trên trang web của họ là dự định vào tháng 7-2015 sẽ dùng birinapant (một thuốc thôi) trong một clinical study cho viêm gan B mãn tính nhưng không cung cấp chi tiết.
Tôi không biết đây có phải là tin tức vị thính giả muốn biết hay không. Tuy nhiên, đây là một trường hợp thú vị, điển hình cho bao trường hợp khác mà báo chí và các phương tiện truyền thông làm bệnh nhân phấn khởi quá sớm về các kết quả trong phòng thí nghiệm. Đem các nghiên cứu từ thú vật qua con người là một con đường dài và chông gai, và rất tốn kém cho các nhà sản xuất thuốc. Đây là lúc chúng ta nhớ đến câu “Trăm lần gãy, nghìn lần mài”, “bách chiết thiên ma”, càng thất bại càng phải kiên nhẫn cố gắng làm lại thì mới được các thành quả khoa học như hiện nay.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền