Monday, October 22, 2018

Bịnh cường tuyến giáp Basedow và kinh nguyệt quá nhiều (Graves' disease and menorrhagia)

Bịnh Basedow (Graves' disease)(1) một bệnh tự miễn dịch (autoimmune disease), gồm 3 chứng: cường tuyến giáp (hyperthyroidism), bướu cổ (goiter), và lồi mắt (exophthalmos).
1) Tuyến giáp trạng (thyroid gland) là một tuyến nội tiết (endocrine gland) nằm trước cổ, hình giống như chữ H hoa, với hai thuỳ (lobe) hai bên nối với nhau bằng một cái eo (isthmus) ở giữa, nằm vắt ngang phía trước của ống khí quản. Bề cao mỗi thuỳ chừng 5-6cm, tuyến nặng chừng 25-30 gram, lúc phụ nữ có thai hay có kinh nguyệt thì to hơn bình thường một chút. Lúc do bịnh nào đó, tuyến lộ, to lên, chúng ta thường gọi là bướu cổ (goiter). Bướu giáp nặng 4kg được cắt ra từ một bịnh nhân Ấn Độ mang bịnh đã 40 năm (2). Tuyến tiết ra một hormon gọi là hormon tuyến giáp (thyroid hormone).
2) Bình thường hormon tuyến giáp cần thiết cho sức khỏe chúng ta và cho sự tăng trưởng, phát triển của trẻ em: kích thích sự tiêu dùng oxy cho biến dưỡng, tổng hợp protein.
3) Sản xuất hormon tuyến giáp được điều tiết bởi một hormon khác, gọi là TSH (thyroid stimulating hormone) kích thích các thụ thể (receptor) trong tuyến giáp. TSH do một cái tuyến khác nằm dưới não bộ (tuyến yên trước, anterior pituitary) tiết ra. Nếu có quá nhiều TSH thì tuyến giáp trạng sẽ làm việc nhiều hơn, quá mức bình thường, tình trạng đó gọi là cường giáp (cường =mạnh)(hyperthyroidism).
4) Trong bịnh Basedow (Graves disease trong Anh ngữ), cơ thể người bịnh sản xuất những kháng thể có khả năng kích thích các thụ thể (receptor) trong tuyến giáp tương tự như TSH (thyroid stimulating immunoglobulins), và có tác dụng làm tuyến giáp sản xuất thêm hormon tuyến giáp, quá nhiều, cao hơn là mức vừa phải (bình thường) tạo nên tình trạng cường giáp hay nhiễm độc giáp (thyrotoxicosis).
TSI/Thyroid-stimulating Immunoglobulins test / Xét nghiệm Immunoglobulins kích thích tuyến giáp
Immunoglobulin kích thích Tuyến giáp — TSI — là các kháng thể kích thích tuyến giáp làm tuyến giáp phì đại (to ra, hypertrophy) và giải phóng hormone tuyến giáp quá nhiều, dẫn đến cường giáp. Xét nghiệm này đôi khi còn được gọi là “kháng thể kích thích thụ thể TSH” (TSH receptor stimulating antibodies).

Phạm vi tham khảo: Nhỏ hơn hoặc bằng 1,3
Giải thích: Mức TSI được nâng lên từ 75 đến 90% ở các bệnh nhân mắc bệnh Graves. Mức TSI càng cao thì bệnh Graves càng được cho là hoạt động hơn. (Sự vắng mặt của các kháng thể này không loại trừ bệnh Graves.) Lưu ý: một số người bị bệnh Hashimoto cũng có những kháng thể này, và điều này có thể gây ra các đợt ngắn ngủi định kỳ của cường giáp.

Các thử nghiệm TSI thường được thực hiện để phát hiện bệnh Graves và để đánh giá bướu cổ độc (toxic multinodular goiter). Cũng thường được thực hiện ở phụ nữ mang thai bị bệnh Graves, trong ba tháng cuối của thai kỳ, để đánh giá nguy cơ sinh ra bị cường giáp hoặc bệnh Graves.

5)Cường giáp có nghĩa rối loạn tuyến giáp hoạt động quá mức, có quá nhiều hormon tuyến giáp được tạo ra. Tắt kinh hay hoặc kinh nguyệt bất thường là những biểu hiện thường thấy nhất với bịnh cường giáp. Gia tăng hormone tuyến giáp gián tiếp gây ra sự gia tăng trong máu của protein có khả năng liên kết với hormon giới tính (SHBG, sex hormone-binding globulin), có thể ngăn chặn sự rụng trứng.

Tuyến giáp hoạt động quá mức dẫn đến tắt kinh hay hiếm kinh nguyệt, làm giảm khả năng sinh sản. Ngoài ra, cường giáp hay nhiễm độc giáp (thyrotoxicosis) trong khi mang thai làm tăng nguy cơ sẩy thai.
6) Ở trẻ em, bịnh Basedow là nguyên nhân thường gặp nhất của bịnh cường tuyến giáp. Cao điểm ở trẻ 11-15 tuổi; ở con gái gấp 5 lần con trai. Trong gia đình, thường có một người khác cũng bịnh tuyến giáp do tự miễn dịch (autoimmune thyroid disease)
7) Ngoài triệu chứng do cường giáp , bịnh nhân Basedow còn có triệu chứng mắt do các kháng thể tác dụng trên các cơ và mô khác trong hốc mắt.
Mắt lồi (exophthalmos):
-lúc bịnh nhân nhìn xuống đất thì mí mắt trên sụp xuống chậm hơn;
-mí mắt trên rút vào, không đóng hẳn được;
-bịnh nhân khó và ít khi chớp mắt làm mắt khô.

8) Gia đình và bác sĩ có thể không nhận ra ngay là đứa bé bị bịnh Basedow; những dấu hiệu lâm sàng có thể rất mơ hồ, ví dụ:
-cháu có thể tính tình thay đổi,
-rối loạn cảm xúc (emotional disturbances),
-quậy hơn, năng động hơn trước (hyperactivity),
-tối ngủ nằm không yên, đá mền chăn ra khỏi giường,

-khó chú tâm vô bài học, bị nghi là mắc chứng thiếu chú ý (inattention).
Lần lần, bịnh rõ hơn, cháu ăn rất nhiều mà lại sụt cân, tim đập nhanh, da ướt, ngón tay run rẩy lúc dang tay ra. Cổ có thể bắt đầu to lên, tuyến giáp to hơn, đầy ra, bs khám thấy tuyến lớn , phình lên thành cái u đều đặn (diffuse goiter).

Trị liệu:

1) Thuốc làm cho tuyến giáp không dùng iod để tạo ra hormon tuyến giáp, và đồng thời ức chế hoạt động tự miễn nhiễm trong tuyến giáp (inhibition of intrathyroidal autoimmunity).
Propylthiouracil (PTU), uống 3 lần /ngày
Methimazole (Tapazole) uống 1 lần/ ngày
Biến chứng: độc tế bào máu (agranulocytosis) (dưới 0,5%); độc gan (hepatitis)(dưới 1%); thường do PTU)
Có thể cần uống thuốc 5 năm hoặc lâu hơn vì bịnh có thể tái phát mấy tháng (3-6 thang) sau khi ngưng thuốc.

2) Chất iod có phóng xạ (radioiodine treatment) cho bịnh nhân trên 10 tuổi.
3) Giải phẫu cắt bỏ một phần tuyến giáp (subtotal thyroidectomy) nếu chữa thuốc không hiệu quả.
Biến chứng giải phẫu: cường giáp còn sót, suy tuyến giáp (hypothyroidism), suy tuyến phó giáp (hypoparathyroidism), liệt thần kinh thanh quản (paralysis of vocal cords)
4) mắt lồi (exophthalmos): nếu sau khi chữa tuyến giáp, mắt lồi không giảm, bs mắt có thể dùng corticoid liều cao, giải phẫu cho bớt lồi( surgical decompression).

Chúng ta vừa điểm qua một số khái niệm căn bản giúp gia đình bịnh nhân và thính giả ý thức và tìm hiểu thêm về trường hợp bịnh phức tạp này.
Chúc bịnh nhân may mắn.

Notes:
(1)Robert James Graves: 1796-1853
“Graves gave one of the first descriptions of the association of goiter, generalized increase in metabolism and ocular abnormalities, which have come to be known as thyroid ophthalmopathy,” McKenna said. “Graves described florid thyrotoxicosis in a woman who, in retrospect, had autoimmune mediated thyrotoxicosis.”
The disease would later be identified as the most common form of hyperthyroidism. Trousseau suggested the eponym Graves’ disease. In Europe, the condition is now frequently referred to as von Basedow’s disease after Karl Adolph von Basedow. The eponym Graves’ disease is more commonly used in the United States.”
https://www.healio.com/endocrinology/thyroid/news/print/endocrine-today/%7B0e74c29f-a62b-45cc-8215-06f6771df9db%7D/robert-james-graves-1796-1853

2)https://indianexpress.com/article/india/india-news-india/himachal-pradesh-largest-ever-goiter-in-country-removed-by-igmc-doctors-2767188/
BS Hồ Văn Hiền

Viêm niệu đạo, đi tiểu nhiều

1) Niệu đạo (urethra) là cái ống dẫn nước tiểu (từ bọng đái/bladder) và tinh dịch (lúc xuất tinh/ejaculation) đi ra ngoài. Tuyến tiền liệt nằm trên đường đi của niệu đạo, vì tuyến này tiết ra một số chất góp phần vào việc tạo nên tinh dịch và nuôi dưỡng tinh trùng.
Triệu chứng:
-mủ, mủ nhớt chảy ra từ niệu đạo (purulent or mucopurulent discharge)
-tiểu khó, tiểu đau
-ngứa đầu dương vật
-đau lúc giao hợp, đau lúc xuất tinh
-tiểu có máu, tinh dịch có máu

Thử nước tiểu (urinalysis) sẽ thấy hiện diện bạch cầu (white blood cells, do mủ), chất nitrites (do các vi khuẩn nhiễm trong nước tiểu sản xuất từ các chất nitrate có trong nước tiểu), các hồng cầu (red blood cells, do máu) là chỉ dấu gián tiếp có nhiễm trùng. Nên lấy mẫu nước tiểu đầu tiên buổi sáng (first void) thì kết quả tốt hơn. Nước tiểu trong ngày có thể không có những chất kể trên ở mức phát hiện được bằng các que thử nước tiểu (urine test strip, dipstick test) vì không đủ cô đọng.
Niệu đạo có thể bị viêm do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng thường gặp nhất là nhiễm trùng do đường tính dục (STD, sexually transmitted diseases); trước đây chúng ta gọi là bịnh phong tình (venereal diseases).
STD gồm những bịnh sau đây:
1) bịnh lậu (gonorrhea): do vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae. Trong các phương tiện thử nước tiểu tìm lậu, nucleic acid amplification testing (NAAT) là nhạy bén nhất.
2) một số vi khuẩn khác như Chlamydia trachomatis, Ureaplasma urealyticum được gọi là viêm niệu đạo không phải lậu (NGU)
Lậu có triệu chứng nhanh hơn sau khi giao hợp với người bịnh (3-4 ngày), rỏ ràng hơn (chảy mủ). Các vi khuẩn khác (NGU) có thể không có triệu chứng (16%), hay ít triệu chứng, thường chỉ có nước trong chảy ra từ niệu đạo; có thể định bịnh sau khi người bạn tình có triệu chứng nên đi khám bịnh.
Thường bịnh nhân không bị tiểu láu (đi tiểu hoài/ frequency) hay khó nín tiểu (urgency); hai dấu hiệu này chỉ về phía viêm bọng đái (cystitis) hoặc hay cùng với viêm tuyến tiền liệt (prostatitis).
Chữa trị:
a) Lậu (gonorrhea, do vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae), cần chữa bằng những kháng sinh như ceftriaxone 125mg IM (single dose); thuốc uống cefixime 400 mg PO (Các lựa chọn khác: cephalosporin, như ceftizoxime 500 mg IM, hay cefoxitin 2g chích IM với uống probenecid 1g PO, hay cefotaxime 500mg chích thịt (IM), hay một liều chích spectinomycin 2g (IM).
Những thuốc nhóm quinolon vì bị vi trùng kháng thuốc nhiều nhất là ở châu Á, vùng Thái Bình Dương không được cơ quan kiểm soát bịnh Mỹ CDC khuyến cáo dùng cho bịnh lậu nữa.(Như chỉ một liều duy nhất ciprofloxacin 500 mg [PO single dose], levofloxacin (TAVANIC) 250 mg [PO single dose], hay ofloxacin 400 mg [PO single dose]).
b) Viêm niệu đạo không phải lậu (non-gonococcal urethritis, NGU)
Theo CDC, nên dùng Azithromycin 1 gram; hay doxycycline 100mgx2 lần /ngày trong 7 ngày. Tuy nhiên, tỷ lệ thất bại khác cao sau khi chữa một đợt (nhất là đối với các vi khuẩn gây NGU như M. genitalum hay U. urealyticum).
Nếu triệu chứng vẫn dai dẳng, có thể nên gửi nước tiểu đi cấy để xem vi khuẩn nào, có phải gonorrhea hay không, có kháng thuốc hay không. Cũng có thể những nguyên nhân khác như ký sinh trùng T vaginalis (chữa bằng những kháng sinh như metronidazole hay tinidazole). Hay cần xét lại cách chữa trị những những viêm niệu đạo gây ra do các chủng loại Mycoplasma hay Ureaplasma species. Có thể thay vì dùng Azithromycin 1 gram chỉ 1 lần; thay bằng cách uống doxycyclin 100x2 lần/ngày x 7 ngày, hoặc Azithromycin x 5 (500mg ngày 1, sau đó 250mg/ngày trong 4 ngày).
Nói tóm lại:
-Các chuyên gia chữa cho vị thính giả đã nghĩ đến hầu hết những khía cạnh của vấn đề (viêm niệu đạo, viêm tiền liệt...), đang dùng đủ các trị liệu có thể áp dụng cho bịnh nhân. Cần theo dõi với họ để điều chỉnh theo tình huống. Nếu viêm tuyến tiền liệt (prostatitis), sẽ còn triệu chứng phiền phức trong tương lai, và cần bác sĩ theo dõi nhiều.
Genurin (Flavoxate) là thuốc giảm co thắt đường tiểu (urinary antispasmodics)
Myonal (nimesulide) là thuốc giảm viêm (NSAID) và giảm đau. Biến chứng: ói mửa,đau bụng, men gan tăng cao, chảy máu; không uống rượu lúc dùng thuốc (có thể gây bủn rủn, yếu ớt); không thấy dùng ở Mỹ.
Xatral (alfuzosin hydrochloride/Sanofi) là thuốc alpha 1-blocker, chữa tiền liệt phì đại lành tính (BPH, benign prostatic hypertrophy); phản ứng phụ là hạ áp huyết quá thấp, cẩn thận nếu đang uống thuốc chữa áp huyết cao. Thuốc loại Xatral XL (uống một lần/ ngày, tan chậm, “prolonged release Xatral XL” không được bẻ, cắn, nhai; phải uống nguyên viên thuốc). Thuốc có thể là giãn nở các mạch máu làm da mặt (hay chỗ khác) đỏ bừng và nóng (flushes).
Chú thích: alpha 1a blockers (alpha 1a adrenergic receptor): không làm tuyến teo lại mà làm giãn nở các cơ chung quanh tiền liệt và chung quanh cổ của bàng quang, làm nước chảy thông hơn.
Phản ứng phụ: chóng mặt (áp huyết thấp), nhức đầu, xáo trộn tiêu hoá, nghẹt mũi ( loại này cũng là thuốc dùng hạ huyết áp cao)
Vì thuốc cũng tác dụng trên cơ năng của mống mắt (iris,màng che của mắt phía trước thuỷ tinh thể điều tiết lượng ánh sáng vào mắt), làm cho cơ phụ trách giãn nở mống mắt yếu đi, thuốc có thể gây trở ngại cho bác sĩ giải phẫu cườm mắt hay glaucoma (nhãn áp quá cao). Lúc lấy thuỷ tinh thể bị đục ra ngoài trước khi nhét thuỷ tinh thể nhân tạo vào thay thế, vì con ngươi không nở ra đúng cách, phẫu thuật có thể khó khăn hơn và lành lâu hơn. Nếu bịnh nhân đang dùng thuốc tamsulosin (dù là mới dùng) phải cho bác sĩ giải phẫu mắt biết để đối phó với "hội chứng mống mắt yếu trong giải phẫu", intraoperative floppy iris syndrome [IFIS)
Một số bịnh nhân có thể bị chứng xuất tinh ngược. Lúc cao điểm tình dục, tinh dịch có thể không đi ra ngoài (xuất tinh) mà đi ngược vào bọng đái vì cơ tròn kiểm soát đường vào bọng đái không đóng lại (retrograde ejaculation).

-Ở người trẻ tuổi mạnh giỏi, với những kết quả thử nghiệm không có gì đặc biệt (theo như lời của bịnh nhân, nếu đúng; ví dụ thử nước tiểu bình thường ), điều quan trọng là tránh những thử nghiệm và trị liệu không cần thiết có thể tốn kém và gây những biến chứng, phản ứng phụ và lo âu, tệ hại hơn là các triệu chứng. Cũng như nhiều lần trước, theo tôi nghĩ, nếu không yên tâm hay có những triệu chứng không cải thiện với các trị liệu chuyên khoa, vị thính giả cần tìm cho mình một bác sĩ gia đình hay bác sĩ tổng quát xem xét lại hồ sơ, tìm hiểu về bịnh sử (ví dụ có "sex" với ai, người bạn tình có triệu chứng gì không, kiểu gì, có gây tổn thương cho niệu đạo hay không), về các kết quả khám nghiệm theo thời gian thay đổi như thế nào.
-Rất quan trọng, cần thực hành "an toàn tính dục" (safe sex) với những biện pháp như condom, nhất là nếu mình "gặp gỡ" nhiều bạn tình khác nhau.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Friday, October 12, 2018

Bệnh lupus

Một trong những bệnh làm cho các bác sĩ và những nhà nghiên cứu đau đầu nhất là bệnh “lupus”. Đây là một bệnh kinh niên rất nặng và phát tác ở nhiều cơ phận của thân thể như khớp xương, da, thận, máu, tim, phổi... Bệnh thường xẩy ra nhiều cho các bà, không hiểu vì sao. Tuy nhiên, với những tiến bộ của khoa học, bệnh nhân lupus hiện tại có thể có một cuộc sống khá tốt so với thời xưa.
Triệu chứng
Một trong những cái lạ của bệnh này là không trường hợp bệnh nào giống trường hợp nào. Triệu chứng có thể đến từ từ hay bất thình lình, có thể nặng hay rất nhẹ, có thể thoáng qua rồi hết hoặc kéo dài vĩnh viễn. Tuy nhiên đa số mang bệnh nhẹ và bị những cơn bệnh nặng phát tác với triệu chứng nặng rồi lại hết đi một thời gian. 
Triệu chứng bệnh xẩy ra tùy theo lúc ấy cơ phận nào đang bị hại. Nói chung, bệnh lupus có những triệu chứng:
- Mệt mỏi
- Sốt
- Xuống hay lên cân
- Khớp xương đau, cứng, sưng lên
- Nổi vết đỏ như hình cánh bướm trên mặt, che hai má và sống mũi
- Nổi vết trên da khi ra nắng
- Lở trong miệng
- Rụng tóc
- Ngón tay và ngón chân trắng hay xanh tái khi lạnh hay khi bị stress
- Thở dốc
- Đau ngực
- Mắt bị khô
- Dễ bị bầm
- Bồn chồn lo lắng
- Trầm cảm
- Giảm trí nhớ
Khi nào nên gặp bác sĩ?
Như vậy, khi bạn mọc những vết trên da, sốt kéo dài, nhức mỏi và mệt kinh niên, bạn nên gặp bác sĩ để được định bệnh. 
Nếu bạn đã được định bệnh lupus, bạn cần gặp bác sĩ định kỳ để theo dõi bệnh trạng thường xuyên. Mỗi khi có triệu chứng gì mới, bạn cũng cần gặp bác sĩ.
Nguyên nhân
Lupus là một bệnh tự miễn nhiễm (autoimmune) tức là thay vì tấn công những vật lạ xâm nhập vào như vi trùng hay siêu vi trùng, hệ miễn nhiễm của bạn lại tấn công những cơ phận lành mạnh của cơ thể bạn, gây ra hư hoại cho khớp xương, da, thận, tim, phổi, mạch máu và óc. Hiện nay người ta vẫn chưa hiểu được tại sao hệ miễn nhiễm lại phản ứng như vậy và gây ra nhiều chứng bệnh tự miễn nhiễm mà lupus là một. Có thể nguyên nhân là di truyền và môi trường cộng lại. Những nhà khảo cứu cho rằng bạn có thể bị di truyền khả năng bị bệnh lupus chứ không phải chính bệnh ấy. Khi bị di truyền khả năng bị lupus, bệnh nhân sẽ phát bệnh khi gặp phải những yếu tố khác trong môi trường, thí dụ như thuốc men hay siêu vi nào đó.
Các loại bệnh lupus
Có bốn loại bệnh lupus, mỗi loại có cách chữa và dự đoán bệnh (prognosis) khác nhau.
1. Bệnh lupus toàn thân: xẩy ra hầu như trên tất cả các phần thân thể. Thường nhất là da, khớp xương, phổi, thận và máu. 
2. Bệnh lupus da: chỉ xẩy ra trên da. Bệnh nhân bị nổi vết hình tròn trên da mặt, cổ, đầu. Một số bệnh nhân lupus da sau đó bị bệnh toàn thân nhưng thường không thể đoán trước ai sẽ tiến tới bệnh toàn thân. 
3. Bệnh lupus của trẻ sơ sinh: hiếm và chỉ xẩy ra ở trẻ sơ sinh. Người mẹ có một số kháng thể liên quan tới bệnh tự miễn nhiễm và truyền qua cho thai nhi dù mẹ không bị bệnh. Kháng thể này có thể gây ra bệnh lupus trẻ sơ sinh. Em bé có thể nổi vết trên da trong những tuần sau khi em được sinh ra. Bệnh có thể kéo dài vài tháng trước khi biến mất. Bệnh nặng hơn có thể gây ra thất nhịp tim.
Ai dễ bị bệnh?
- Đàn bà dễ bị lupus hơn đàn ông.
- Bệnh thường xẩy ra nhất ở khoảng tuổi 15 tới 40 tuy rằng tuổi nào cũng có thể bị bệnh.
- Người da đen, Mễ và Á châu dễ bị bệnh hơn.
- Ra nắng có thể khởi lên bệnh lupus da hoặc những phản ứng nội tạng nơi một số người. Tại sao thì chưa được biết rõ tuy các nhà nghiên cứu nghĩ rằng ánh sáng mặt trời có thể làm các tế bào da tiết ra một số chất đạm kết hợp với những kháng thể có sẵn trong người gây ra những phản ứng viêm. Những tế bào da cũng chết sớm hơn nơi người bệnh lupus, gây ra thêm nhiều phản ứng viêm.
- Một số thuốc có thể gây ra bệnh lupus như thuốc chống bệnh điên chlorpromazine, thuốc trị bệnh cao máu hydralazine, thuốc ngừa lao isoniazid, thuốc tim procainenamide. Người ta bị bệnh lupus sau khi uống những thuốc này lâu năm. Tuy nhiên chỉ một số phần trăm nhỏ uống những thuốc này mắc bệnh.
- Nhiễm siêu vi Epstein- Barr. Hầu như ai cũng đã từng mắc bệnh siêu vi E. Barr. Siêu vi này gây ra những bệnh nhẹ như sốt, đau cổ. Sau khi bệnh hết, con siêu vi này vẫn còn nằm trong những tế bào của hệ miễn nhiễm cho đến khi khởi lên lại và làm tăng nguy cơ bị bệnh lupus.
- Bị nhiễm hóa chất. Một số hóa chất như thủy ngân và silica có thể gây ra bệnh lupus cho những công nhân làm trong nhà máy sử dụng những chất này. Hút thuốc cũng có thể làm tăng nguy cơ bị lupus.
Biến chứng
Bệnh lupus phát ra ở nhiều nơi trên thân thể người bệnh
- Thận: bệnh lupus gây ra bệnh thận rất nặng và suy thận là một trong những nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất cho bệnh nhân lupusGần ba phần tư bệnh nhân lupus sẽ bị bệnh thận trong 2 năm đầu sau khi định bệnh. Tuy nhiên có nhiều thuốc để chữa bệnh này. Triệu chứng của bệnh thận gồm có ngứa ngáy toàn thân, đau ngực, buồn nôn, ói mửa, sưng phù chân, lên cân.
- Hệ thần kinh: triệu chứng gồm có nhức đầu, chóng mặt, thay đổi tính tình, bị ảo giác và làm kinh. 80% bệnh nhân lupus thần kinh có thể bị lú lẫn, trí nhớ sút giảm và khó khăn khi diễn tả ý tưởng.
- Máu và mạch máu: Bệnh nhân lupus có thể bị thiếu máu, dễ chảy máu và máu khó đông. Họ cũng có thể bị viêm mạch máu, nguyên nhân của 7% các trường hợp tử vong.
- Phổi: Bệnh nhân lupus dễ bị viêm màng bọc phổi khiến bị đau nhức khi thở. Bệnh nhân cũng dễ bị sưng phổi. Đa số bệnh nhân phổi có thể được định bệnh nhờ những thử nghiệm. Biến chứng phổi ít khi nặng và thường không có dấu hiệu báo trước.
- Tim: Bệnh nhân lupus có thể bị viêm cơ tim, viêm động mạch vành tim hay màng bọc tim. Họ cũng dễ bị các bệnh tim mạch và dễ bị đột quỵ tim. Gần 40% bệnh nhân lupus bị bệnh cứng động mạch sớm trước tuổi so với tỉ lệ chỉ 15% cho người không bị lupus. Giữ cho huyết áp và mực cholesterol không tăng cao, không hút thuốc và vận động thân thể thường xuyên là những cách giúp giảm nguy cơ bệnh tim.
- Bệnh nhiễm trùng: Bệnh nhân lupus rất dễ bị nhiễm trùng vì cả bệnh lẫn thuốc chữa đều ảnh hưởng đến hệ miễn nhiễm. Đã vậy, nhiễm trùng còn làm cho bệnh phát tác nặng lên khiến càng dễ bị nhiễm trùng thêm. Những bệnh nhiễm trùng thông thường nhất cho bệnh nhân lupus gồm có nhiễm trùng đường tiểu, những bệnh hô hấp thông thường như cảm, bệnh nhiễm vi nấm, nhiễm vi trùng salmonella, siêu vi herpes, và bệnh giời leo. Những bệnh nhiễm trùng nặng hơn như sung phổi gây khoảng 1/3 số tử vong.
- Ung thư: Bệnh nhân lupus dễ bị ung thư, nhiều nhất là ung thư hạch bạch huyết loại non- Hodgkin và ung thư phổi. Thuốc làm giảm miễn nhiễm, đôi khi dùng để chữa bệnh lupus, cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư.
- Mô tế bào xương bị chết: Gây ra do bệnh hay do thuốc steroid dùng chữa bệnh lupus. Máu đến nuôi xương bị giảm xuống khiến có những lỗ hổng trong xương và cuối cùng là xương bị gãy. Khớp xương háng dễ bị nhất. Khoảng 1 trong 10 bệnh nhân lupus bị biến chứng này.
- Biến chứng khi mang thai: Bệnh nhân lupus dễ bị sẩy thai. Họ cũng bị bệnh nặng lên khi mang thai, dễ bị tăng huyết áp và sinh non. Bác sĩ thường khuyên bệnh nhân lupus chờ cho đến khi bệnh giảm hẳn ít nhất là được 1 năm trước khi tính chuyện có thai.
Định bệnh
Định bệnh lupus rất khó vì triệu chứng ở mỗi người đều khác nhau, lại có thể thay đổi theo thời gian và nhiều khi giống với triệu chứng những bệnh khác. Do đó nhiều khi lúc đầu bác sĩ không nghĩ là bệnh lupus cho dến khi triệu chứng trở nên rõ rệt. Ngay cả lúc này, định bệnh cũng khó vì đa số bệnh nhân lupus bị bệnh lúc nặng lúc nhẹ, có lúc lại hoàn toàn khỏe mạnh.

Hội Phong Thấp Hoa Kỳ đã đưa ra những tiêu chuẩn định bệnh lupus. Trong bảng danh sách triệu chứng bệnh sau, nếu bệnh nhân có 4/11 triệu chứng thì nhiều phần là họ đang bị lupus. Đôi khi bác sĩ cũng có thể nghi ngờ bạn bị lupus dù bạn có ít hơn 4 triệu chứng. Những tiêu chuẩn định bệnh của Hội Phong Thấp gồm có:
- Nổi đỏ trên mặt, hình như con bướm vắt ngang hai gò má và sống mũi.
- Nổi mẩn đỏ như vảy cá
- Nổi mẩn đỏ sau khi ra nắng
- Lở miệng nhưng không đau
- Sưng và đau ở hai khớp xương hay nhiều hơn
- Sưng màng bọc phổi hay tim
- Bệnh thận
- Bệnh hệ thần kinh, thí dụ như làm kinh hay bị điên
- Các tế bào máu như hồng huyết cầu, tiểu cầu hay bạch huyết cầu bị giảm đi 
- Thử nghiệm antinuclear antibody dương tính
- Các thử nghiệm về bệnh tự miễn nhiễm khác cũng dương tính
Chữa trị
Cách chữa trị tùy theo lúc ấy triệu chứng gì xuất hiện. Bệnh nhân nên bàn luận với bác sĩ về các triệu chứng của mình cũng như các thuốc men và cách chữa trị. Khi triệu chứng giảm xuống hay mất đi, bệnh nhân cũng cần bàn luận với bác sĩ về chuyện thay đổi chữa trị.
1. Những thuốc thường dùng chữa lupus: 
Những thuốc này dùng chữa bệnh nhẹ hay nặng vừa phải. Nếu bệnh nặng hơn, có thể phải dùng những thứ thuốc khác.
- Thuốc chống viêm không phải là steroids (non steroidal anti- inflammatory) hay NSAIDs như Advil, Naproxen... Những thuốc này bán tự do nhưng bệnh nhân cần hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng vì những phản ứng phụ rất nặng xẩy ra cho người bệnh lupus.
- Thuốc chữa sốt rét: Tuy 2 bệnh không liên quan gì với nhau nhưng người ta đã thấy tác dụng tốt của thuốc chữa sốt rét trên bệnh nhân lupus. Thuốc này cũng có những phản ứng phụ tai hại
- Thuốc corticosteroid: Những thuốc này chống lại nhưng phản ứng viêm của bệnh lupus nhưng dùng lâu ngày sẽ đưa đến những tác dụng tai hại như lên cân, dễ bị bầm, xương bị rỗng, cao huyết áp, tiểu đường, và dễ bị nhiễm trùng. Bác sĩ sẽ phải cố gắng dùng liều nhỏ nhất có thể chữa được bệnh để giảm thiểu tai hại.
2. Chữa theo triệu chứng
- Sưng và đau khớp xương: Lúc đầu thường được chữa bằng NSAIDs nhưng nếu không bớt, có thể phải dùng thuốc sốt rét hay thuốc corticosteroids.
- Mẩn đỏ trên da: Ánh nắng mặt trời có thể gây ra mẩn đỏ nhưng đôi khi ngay cả đèn nê ông cũng có thể làm bệnh nhân nổi đỏ. Mẩn đỏ được chữa bằng thuốc bôi có chất steroids hoặc thuốc uống giống trên.
- Mệt mỏi: Chữa theo nguyên nhân, có thể là do khó ngủ, trầm cảm hay đau nhức. Nếu không có nguyên nhân gì rõ rệt, bác sĩ có thể dùng thuốc như trên.
- Sưng chung quanh tim và phổi: Cũng chữa bằng những thuốc trên.
3. Chữa bệnh nặng nguy đến tính mạng
Bệnh lupus trở nặng làm nguy tính mạng khi gây bệnh thận, sưng trong các mạch máu hoặc bệnh hệ thần kinh, cần được chữa mạnh mẽ hơn bằng liều cao thuốc corticosteroids hay thuốc chống miễn nhiễm hoặc dùng cả hai một lúc để làm bớt liều lượng, bớt tác dụng phụ. Ngay cả khi dùng thuốc với liều cao, bệnh nhân vẫn có thể bị bại thận cần phải đi lọc hay thay thận. Hiện người ta đang nghiên cứu nhiều loại thuốc mới nhưng phải cần có thời gian thử nghiệm.
4. Chữa bằng ngoại khoa (alternative medicine)
Ngoài những cách chữa trên, nếu bệnh nhân không thấy thuyên giảm hoặc nếu muốn, bệnh nhân có thể theo chữa những phương pháp khác. Có thể bàn luận với bác sĩ để tìm hiểu xem các phương pháp mình muốn dùng có ảnh hưởng đến các thuốc đang uống hay có gì tai hại không vì phần nhiều các cách chữa ngoại khoa chưa được kiểm chứng rõ rệt. Những cách chữa này thường gồm có uống dầu cá hay flaxseed.
Tự giúp
Bệnh nhân lupus có thể sống một cuộc sống tương đối thoải mái nếu chịu theo những cách tự giúp sau đây:
- Nghỉ ngơi đầy đủ: bệnh nhân lupus thường bị mệt mỏi thường xuyên, khác với cái mệt mỏi của người không bệnh. Họ nên ngủ đầy đủ hoặc nghỉ ngơi thêm trong ngày. Người thân và bạn bè nên để cho họ ngủ nghỉ đủ.

- Tránh mặt trời: Luôn mặc quần áo kín, đội nón, áo tay dài, quần dài và bôi kem chống nắng chỉ số ít nhất là 15, mỗi lần ra khỏi nhà, dù chỉ là ít phút. Phải bảo vệ cả tai, da đầu và lưng bàn tay. Lúc mặt trời nóng nhất là từ 10 giờ sáng tới 4 giờ chiều nên tránh ra khỏi nhà. Ngay cả đèn huỳnh quang trong nhà cũng có thể gây ra cơn bệnh, họ cũng phải mặc đồ kín và bôi kem chống nắng trong nhà hoặc dùng thiết bị chắn tia UV từ các đèn này.

- Vận động thân thể: Tập thể dục giúp bệnh nhân mau lành bệnh khi bị cơn bệnh nặng, giúp giảm nguy cơ đột quị tim, chống trầm cảm và cảm thấy vui khỏe hơn. Vận động thân thể theo sức chịu đựng của mình, ít nhất 30 phút mỗi ngày chia ra làm nhiều lần. Nếu thấy mệt quá thì có thể nghỉ.

- Không hút thuốc vì thuốc lá có thể làm tăng tai hại của bệnh lupus trên tim mạch.
- Ăn uống lành mạnh tức nhiều trái cây, rau và ngũ cốc nguyên hạt. Đôi khi bệnh nhân phải ăn kiêng nếu bị cao huyết áp, hư thận hay bệnh đường tiêu hóa. Tránh những thức ăn có vẻ làm triệu chứng bệnh tăng lên.
- Tránh bị trầm cảm hay lo lắng quá độ và mặc cảm bằng cách tìm hiểu kỹ về bệnh của mình trong sách vở hay internet. Viết xuống giấy những thắc mắc để hỏi bác sĩ trong những lần đi khám bệnh. Càng hiểu biết nhiều về bệnh, bạn càng tự tin trong việc chọn lựa những cách chữa trị cho mình. Cũng nên nói chuyện nhiều với bạn bè người thân để họ cũng hiểu rõ về bệnh lupus. Họ có thể hiểu sai về mình vì đôi khi bệnh nhân lupus trông rất khỏe mạnh. Dành thì giờ cho chính mình để tập cho bớt stress. Bệnh nhân có thể đọc sách, thiền, nghe nhạc hoặc viết lách. Tìm những hoạt động êm ả hợp với mình. Bệnh nhân cũng nên gia nhập các nhóm hỗ trợ người bệnh lupus đề tiếp xúc với những người đồng bệnh và chia sẻ cảm xúc cũng như những tin tức mới về bệnh.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Khát nước sau khi gội đầu

Trong cơ thể chúng ta, hết 70% trọng lượng là nước. Nếu thiếu nước, lượng máu sẽ thu nhỏ lại, nhiệt độ cơ thể không ổn định, áp huyết tụt xuống (hypotension), tim, thận, não bộ không làm việc bình thường được. Chỉ thiếu nước vài ngày là có thể chết được. Do đó chúng ta có khả năng biết lúc nào cơ thể cần nước thêm, đó là lúc chúng ta thấy khát nước. Nói chung, lúc chúng ta thấy khát nước là lúc cơ thể đã bắt đầu thiếu nước rồi. Đọc báo hay internet, sẽ có nhiều người nhắc đến nhu cầu phải uống 8oz nước 8 lần/ ngày cho người lớn ("luật" 8x8). Tuy nhiên, không có cơ sở chắc chắn và còn tùy trường hợp. Có lẽ hướng dẫn an toàn nhất là uống nước lúc khát nước và trong những trường hợp đặc biệt như thể thao kéo dài nhiều giờ (ví dụ chạy marathon, bịnh tiêu chảy nặng) cần để ý bổ sung các chất điện giải bị mất qua mồ hôi hay phân lỏng.
Lúc nào chúng ta thấy khát nước:
1) Lúc máu chúng ta đậm đặc hơn bình thường. Ví dụ người ra nắng, chạy marathon, mồ hôi ra nhiều . Những chất muối (dưới hình thức là chất điện giải/electrolytes) như sodium ( Natri, Na+), hay những chất khác như đường tạo nên một áp suất thẩm thấu (osmotic pressure) có khuynh hướng rút thêm nước từ chỗ khác vào nếu chỗ đó có osmolality thấp hơn. Trong tình trạng quân bình, mức thẩm thấu (osmolality [osm/kg] hay osmolarity[osm/liter]) trong tế bào (intracellular osmolality) ngang với mức ngoài tế bào (extracellular osmolality) và trong mạch máu (intravascular osmolality). Não bộ chúng ta có một bộ phận tên hypothalamus, trong đó có những "trung tâm" hay nhóm tế bào phụ trách nhiệt độ cơ thể , giấc ngủ và khẩu vị (làm chúng ta muốn thèm ăn hay không). Ở hypothalamus còn có một trung tâm kiểm soát chúng ta có "khát" hay không, cần uống nước hay không. Tuỳ theo các tín hiệu nhận được từ các thụ thể đo Natri và các chất khác trong máu cho biết các chất này lên quá cao (vì máu quá cô đọng lúc bị mất nước, osmolality cao), cũng như từ những thụ thể ở nơi khác gửi về báo cho biết là thể tích máu bị giảm quá thấp (hypovolemia, vì mất nước hay chảy máu), hay áp huyết bị sa sút (hypotension), hypothalamus sẽ cho não bộ cao cấp hơn tín hiệu là chúng ta cần uống nước thêm vào, nghĩa là chúng ta ý thức thấy khát nước. (Để cho dễ hiểu, tương tự như lúc chúng ta nấu một nồi cháo. Nếu chúng ta thấy cháo quá đặc nghĩa là osmolality lên cao, hay nếu mức nước trong nồi quá thấp, có nghĩa là thể tích cháo giảm quá thấp, đó là những dấu hiệu cho thấy người nấu bếp cần cho thêm nước vào nồi, tương tự như khát nước, phải uống thêm nước để tái lập quân bình trong cơ thể.)
2) Tuy nhiên, cần uống nước loại gì cũng là vấn đề quan trọng. Ví dụ những người chạy marathon, đa xe đạp trong nhiều giờ liên tiếp mất nước nhiều vì chảy mồ hôi, thở nhanh và nước mất qua mồ hôi và hơi thở. Nhưng trong mồ hôi có rất nhiều muối (dạng electrolytes như Natri (Na+) , potassium (K+), magnesium (Mg++), calcium (Ca++)), nên nếu uống nước lã (plain water) không tốt, phải là dung dịch có chứa những chất điện giải thay thế, ví dụ những dung dịch bào chế cho vận động viên (vd Gatorade). Những người bị tiêu chảy nhiều cũng mất các chất điện giải, nhất là potassium, và trong nước họ uống cần có những chất này để thay thế (vd Pedialyte, nước canh, cháo, chanh muối). Nếu chỉ dùng nước lã, nhất là uống nước nhiều quá, có thể gây biến chứng nguy hiểm do rối loạn các chất điện giải.
3) Ngoài ra , hypothalamus sản xuất thêm chất nội tiết vasopressin, chất này được tuyến yên (pituitary gland) tiết vào máu, đi đến thận và ra lệnh cho thận giữ nước lại nhiều hơn, giảm bớt lượng nước bị thải trong nước tiểu.
4) Một số người già , vì lý do không rõ, không nhận được tín hiệu từ hypothalamus biểu họ phải uống thêm nước, họ có thể bị mất nước hay thiếu nước, sụt cân, tụt áp huyết, nếu không có người theo dõi lượng nước tiểu, lần đi tiểu và nhắc nhở họ uống nước.
5) Hay các thụ thể (receptors) đo nồng độ muối của hypothalamus bị hư, hay tuyến yên (pituitary gland) của họ bị hư hại, hay thận của họ không đáp ứng với "lệnh" từ chất vasopressin làm cho bịnh nhân đi tiểu quá nhiều, làm họ mất nước nhiều, cần phải uống đến 1-20 lít nước mỗi ngày mới đủ nhu cầu quân bình nước trong cơ thể. Đây là bịnh "đái tháo nhạt" (diabetes insipidus), khác với bịnh "tiểu đường" hay “đái tháo đường” (diabetes mellitus). Người bịnh tiểu đường (diabetes) cũng mất nước nhưng do đường glucose quá nhiều trong máu, tràn vào nước tiểu và kéo theo một lượng nước lớn. Cả hai loại bịnh nhân đều uống nhiều nước (polydipsia).
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Cơn tim đập mạnh, choáng váng, hoa mắt, đi xiêu xiêu

1) Áp huyết thấp (hypotension), thường được định nghĩa như là áp suất kỳ thu tâm = hoặc < 90mm thuỷ ngân (systolic pressure = or <90 mmHg), áp suất trương tâm= hoặc < 60 mmHg (diastolic pressure = or <60 mm Hg). tuy nhiên cũng tùy theo bịnh nhân, tuổi bịnh nhân, áp huyết thông thường của người đó. Có nhiều nguyên nhân, giản dị như bịnh nhân thiếu nước, bị xúc động, ngâm nước nóng quá lâu (mạch máu giãn nở), có thai, ít vận động. Phức tạp hơn ví dụ bịnh nhân thiếu máu (anemia, bần huyết, lượng hồng cầu quá thấp), chảy máu đâu đó (ví dụ rong kinh, chảy máu bao tử, ruột), hay suy cơ năng tuyến giáp (hypothyroidism), nang thượng thận (adrenal glands, bịnh Addison: đi đôi với da sẫm màu [hyperpigmentation], các vùng niêm mạc như miệng cũng đen hơn bình thường), nhiễm trùng máu, phản ứng thuốc, dị ứng, phản vệ (anaphylaxis=huyết áp hạ nhanh, shock kèm theo khó thở, nổi mẩn ngoài da). Cũng nên nêu rõ áp huyết thấp (hypotension) và thiếu máu (anemia) là hai bịnh khác nhau, mặc dù thiếu máu có thể gây ra áp huyết thấp, chóng mặt, xỉu.
Nói chung chúng ta không muốn áp huyết cao, và áp suất thấp là mục đích của chữa trị bịnh cao áp huyết. Tuy nhiên, nếu áp huyết thấp kèm theo các chứng như chóng mặt, muốn xỉu, mờ mắt, ói, tay chân lạnh, xanh xao, thở khó hay yếu, chán nản, trầm cảm (depression), nên đi khám bác sĩ.
2) Bịnh nhân ăn uống thất thường, người già ăn không ngon miệng, không muốn ăn, có thể làm đường trong máu xuống thấp (hypoglycemia). Ăn những món rất ngọt (như bánh ngọt, chè, cháo, cà phê pha sữa đặc có đường) đi nhanh vào ruột non đường được hấp thụ,có thể làm đường máu tăng nhanh, cơ thể sản xuất insulin để kéo mức đường thấp xuống, do phản ứng quá độ, mức đường có thể tụt xuống quá nhanh một thời gian. Một đến 3 giờ sau khi ăn uống, làm chóng mặt, lạnh tay chân, tim đập nhanh, muốn xỉu ("late dumping syndrome"/hội chứng "trút" đường vào máu trễ). Phân biệt với "dumping syndrome' thường, với triệu chứng tương tự, với tiêu chảy,đau bụng nhưng xảy ra 10-30 phút sau khi ăn uống, hay nhanh hơn, ở người từng bị phẫu thuật cắt bỏ dạ dày hay thu hẹp dạ dày để sụt cân.
3) TIA (Transient Ischemic Attack), tạm giải nghĩa giản dị là những cơn óc thiếu máu một cách thoáng qua, nghĩa là triệu chứng thần kinh nhẹ thôi, và đảo ngược nhanh chóng [<24 h]; còn gọi là mini-strokes. Triệu chứng có thể là: mờ mắt, nhức đầu, chóng mặt, ù tai, trầm cảm. Bác sĩ có thể dùng các phương tiện hình ảnh để khảo sát bộ óc và các mạch máu liên hệ (angiography): MRI, MRA (magnetic resonance arteriography), CT, siêu âm (sonography).
Thường mạch máu bị nghẽn là động mạch carotid ở cổ đem máu vào óc, phụ trách phần trước của não bộ. Một số trường hợp máu vào bộ óc phía sau không đủ do động mạch từ xương sống (vertebral arteries) vào đáy não bị nghẽn (vertebrobasilar insufficiency). Vùng sau của não bộ quan trọng cho ý thức về thăng bằng cho nên triệu chứng quan trọng nhất là chóng mặt, cảm giác xoay quanh. Lúc bịnh nhân quay đầu, vì động mạch xương sống có thể bị nghẽn ở vị trí này, máu lên đầu không đủ, làm cho bịnh nhân chóng mặt, nhìn một vật thành hai, yếu các cơ 4 đầu ở đùi, khuỵu xuống và có thể té. Các triệu chứng này chỉ xảy ra trong thời gian ngắn (nôi trong 24 giờ).
Bác sĩ có thể dùng aspirin để làm tiểu cầu (platelets) bớt co cụm, dính lại và giải phẫu bóc các plaque xơ vữa trong động mạch carotid bị nghẽn 70-99% (CEA), (carotid endarterectomy). Nếu không chữa được bằng thuốc, người ta chữa những trường hợp này bằng cách nối một động mạch lành mạnh ngoài da đầu vào óc để nuôi phần óc bị thiếu máu ( micro revascularization procedures).

Những biện pháp giảm thiểu các yếu tố cơ nguy như giảm huyết áp nếu quá cao, dùng thuốc statin giảm cholesterol trong máu, giảm cơ năng làm đông máu của tiểu cầu bằng aspirin, thay đổi nếp sống cho lành mạnh hơn (lifestyle modification) như vận động nhiều hơn, tránh ngồi một chỗ, bỏ thuốc lá.
Những người bị thiếu máu não bộ do các động mạch ở cổ bị xơ vữa (atherosclerosis) cần cẩn thận lúc đi làm tóc ngưỡng cỗ gội đầu (Beauty Parlour Syndrome; BPS), lúc ngắm nhìn một vật gì trên cao ( Golden Gate Bridge Syndrome) , tập yoga; ngưỡng cổ ra nhiều quá có thể làm trở ngại cho máu lưu thông trong các mạch cổ nếu chúng đã từng bị hư hại sẵn.
4) Bịnh chóng mặt (vertigo, dizziness) có nhiều nguyên nhân khác nhau. Nguyên nhân có thể do một rối loạn của bộ phận tai trong (inner ear), phụ trách về các cảm nhận về vị trí đầu và cơ thể, thay đổi về gia tốc (acceleration), hay về trọng lượng, sức hút của quả đất (gravity, lực hấp dẫn). Nguyên nhân cũng có thể do rối loạn ở não bộ, là nơi tiếp nhận và xử lý cuối cùng của các tín hiệu từ tai trong vào. (ví dụ, chóng mặt là một trong những triệu chứng đầu tiên của bịnh Parkinson). Phân biệt các nguyên nhân khác nhau rất khó, bác sĩ tai mũi họng và bác sĩ thần kinh (neurologist) cần thu thập nhiều dữ kiện và nhiều khi không kết luận được dứt khoát.
5) Bịnh chóng mặt từng cơn kéo dài hàng tuần có thể là một triệu chứng của bịnh đau đầu migraine (mà chúng ta gọi là bịnh nhức đầu một bên, nhưng không phải luôn luôn như vậy) Migraine có thể biểu hiện nhiều cách khác nhau, có lúc khó phân biệt với tai biến mạch máu não (stroke). Migraine có thể được báo trước bằng những âm thanh , mùi vị và ánh sáng (như sáng chớp), hay có khi bằng những ảo giác gọi là aura (theo nghĩa thường ngoài y khoa, “aura” có nghĩa là hào quang).
6) Chứng chóng mặt cũng có thể do một rối loạn ở tai trong gọi là bịnh Ménière (Meniere’s disease), gồm những triệu chứng sau đây:
a) Chóng mặt xoay vòng vòng (rotational vertigo), thường trong vài phút hay vài giờ, nhưng có thể kéo dài vài ngày, vài tuần.
b) Giảm thính giác lúc nhiều lúc ít (fluctuating hearing loss), âm thanh bị biến dạng, hay nhạy cảm quá mức với tiếng động (hypersensitivity to noises)
c) Nghe những âm thanh bất bình thường trong tai (tinnitus)
d) Cảm giác nặng, áp suất trong tai (một hay 2 bên) (sensation of fullness or pressure).
7) Những triệu chứng như chóng mặt , nhức đầu, tay chân co rút, ù tai, mệt mỏi (“co giật các cơ tay, chân, mắt ... tôi cũng bị đau vai gáy” ) có thể dính líu tới bịnh trầm cảm (depression).
8) Bịnh nhân có bịnh tim hay triệu chứng tim trong quá khứ hay không, hay trong gia đình?
Các triệu chứng có thể do một rối loạn nào đó của nhịp tim(arrhythmia). Có thể bs đã đo tâm điện đồ (ECG). Nếu ECG bình thường, vẫn còn khả năng tim gây ra các triệu chứng.
Có thể bác sĩ gia đình sẽ giới thiệu với bs chuyên về tim mạch (cardiologist) và bịnh nhân được đo tim trong lúc đang exercise, ví dụ chạy trên treadmill, xem lúc mức dùng sức lực nhiều, nhu cầu máu vào nuôi tim có được đáp ứng đầy đủ không, có rối loạn trong ECG hay không (stress test). BS chuyên tim mạch cũng có thể cho bịnh nhân mang một máy theo dõi ECG trong thời gian vài ngày hay cả tháng; máy thu lại các dữ kiện về tim lúc người bịnh đang ở những tư thế, hoạt động khác nhau (ngủ, làm việc, tập thể dục, ăn..); nếu có hiện tượng bất thường bs có thể liên hệ với hoạt động nào, thời điểm nào (Holter monitoring).

Nói tóm lại, cần một bác sĩ riêng để nghiên cứu hồ sơ tường tận. Nếu cần nhờ các bác sĩ chuyên khoa về thần kinh , bác sĩ tai mũi họng, và bác sĩ chuyên về tim mạch, bác sĩ thần kinh (neurologist). Nói chung, chữa huyết áp cao (nếu có), hạ mức cholesterol và mỡ trong máu. Nếu bác sĩ thấy có ích dùng aspirin để giảm khả năng máu đóng cục. Vận động cơ thể, bỏ thuốc lá, bỏ hay giảm rượu, sinh hoạt nhiều hơn với gia đình, cọng đồng có thể đem lại tình trạng sức khỏe tốt hơn.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền 

U mạch máu gan, sạn tiền liệt và thuốc multivitamin

1) Càng ngày người ta càng dùng siêu âm để phát hiện các thay đổi trong gan do bịnh gây ra. Một trong những hiện tượng được phát hiện thường nhất là u mạch máu trong gan. (Trong từ tiếng Anh: hemangioma, hemo =máu, angio=mạch máu và oma=u bướu.) Đối với một người trung bình, không bị triệu chứng gì rõ rệt, trong 1000 người có thể từ 4 đến 200 người có u bướu loại này, là loại u gan hiền thường gặp nhất (0.4-20%). Con số tỷ lệ xảy ra tuỳ theo phương pháp phát hiện (cao nếu là giải phẫu tử thi). Nói chung, phần đông nghiên cứu cho là trên 7%.
Hemangioma là những khoảng trống trong mô gan chứa đầy máu, lót bởi các tế bào nội mô mạch máu(endothelial cells). Các u mao quản (capillary hemangioma) gồm những mạch nhỏ li ti (mao mạch, capillaries), xuất phát từ động mạch nuôi gan (hepatic artery), cuộn lại với nhau thành một lớp rối bù như một cuộn chỉ, to chừng vài mmm cho đến 3cm, không có khuynh hướng to thêm và thường không gây triệu chứng. Các u mạch thường gặp ở phụ nữ nhiều hơn nam giới (3/1), có thể hiện diện đơn độc, nhưng có thể nhiều u cùng một lúc. U mạch máu nhỏ (mm-3cm) và trung bình (3-10 cm) thường không cần can thiệp để chữa trị. Các u mạch lớn hơn (khổng lồ, 10-20cm hoặc có khito hơn, đến 40cm trong một số công bố; giant hemangioma, cavernous hemangioma)) có thể gây ra triệu chứng đáng kể nên cần phải can thiệp.
Triệu chứng (hiếm): có thể cảm giác nặng bụng, ê bên bụng phải, ăn mau thấy đầy bụng, no nhanh, đầy hơi; bác sĩ sờ có thể phát hiện gan lớn.
Biến chứng (hiếm) viêm gây đau , sốt; u đè qua các bộ phận khác (nghẽn ống mật, vàng da); rối loạn đông máu trong một số hội chứng, vd, Kasabach-Merritt syndrome (giant hepatic hemangioma, thrombocytopenia, intravascular coagulation); Osler-Rendu-Weber disease, di truyền, với u mạch trên mặt, miệng và đồng thời trên nhiều bộ phận khác (hereditary telangiectasia: multiple smaller HA on face, tongue, jugal mucosa, gastrointestinal tract, liver). Thuốc dùng lâu dài với mục đích khác như corticoid (steroid), hormone nữ estrogen với mục đích ngừa thai có thể làm u mạch máu lớn nhanh hơn; ngưng thuốc ngừa thai có thể làm u nhỏ lại.
2) Vết vôi/sạn trong tuyến tiền liệt (prostate calcifications, prostate stones, prostatic calculi):
Tuyến tiền liệt (prostate, TTL) nằm bao quanh niệu đạo (urethra), lúc nước tiểu từ bàng quang (bladder) thoát ra ngoài qua ngã niệu đạo. Tuyến tiền liệt bình thường thể tích chừng 15-30 ml, cỡ bằng trái banh chơi golf. Ở người 50 tuổi trở lên,thể tích trung bình tăng lên từ 24ml lúc 50 tuổi cho đến 38 ml lúc 80 tuổi và PSA từ 1,1 lên đến 2,5 ng/ml và không ảnh hưởng nhiều đến các triệu chứng tiểu tiện (Berges, Germany).
Sạn TTL được chẩn đoán bằng siêu âm xuyên qua trực tràng (Transrectal Ultrasonography/TRUS) hay CT. Thường gặp ở người đàn ông trung niên. 7- 70% đàn ông có đóng vôi tuyến tiền liệt (prostatic calcifications). Có thể một hạt (hay viên) nhưng con số có thể lên hàng trăm. Nguồn gốc có thể do ống dẫn chất tiết TTL bị nghẽn, chất tiết của TTL đọng khô lại và hoá vôi (endogenous, primary prostatic calculi) thường nhiều hạt, nhỏ, 0,5mm - 4mm. Hay sạn TTL cũng có thể thành hình từ chất trong nước tiểu chạy ngược vào TTL và bị hoá vôi (exogenous , secondary calculi), thường số ít hơn và kích thước to hơn. Sự hiện diện của sạn làm TTL viêm và dễ bị nhiễm trùng hơn. Thường những viên sạn nhỏ cỡ bằng hạt ổi (1-4mm) này không gây ra triệu chứng. Tuy nhiên, sạn lớn hơn có thể làm đau trong vùng đáy quần (perineum) hay vùng bụng dưới. Những người bị chứng đau vùng xương chậu mãn tính (chronic pelvic pain), nếu có kèm theo sạn vôi tiền liệt thường bị viêm nặng hơn (nhiều bạch cầu trong dịch TTL), triệu chứng kéo dài lâu hơn (ví dụ thay vì 2 năm, đau kéo dài cả 7 năm), và khả năng vi khuẩn nhiễm tuyến tiền liệt cao hơn. Có nghĩa bác sĩ có thể thiên về dùng kháng sinh (kéo dài 8-10 tuần) và các thuốc giảm viêm lúc điều trị chứng đau vùng xương chậu mãn tính ở đàn ông thay vì thiên về việc dùng vật lý trị liệu cho vùng sàn chậu (pelvic physiotherapy).
Sạn tuyến tiền liệt có thể liên hệ đến TTL phì đại hay ung thư tiền liệt. Tuy nhiên theo kiến thức hiện nay, sạn tiền liệt không phải là nguyên nhân gây ung thư bộ phận này.
Triệu chứng sạn TTL có thể giống hoặc trùng hợp với bịnh viêm phần dưới của đường tiểu (bọng đái, tuyến tiền liệt liệt, niệu đạo, gây tiểu gắt, tiểu khó, khó nín tiểu; lower urinary symptoms).
Người bệnh TTL có thể chọn những thức ăn hợp với sức khoẻ hơn như tránh đường, chất ngọt, tránh đồ mỡ như thịt heo, bò, bơ; ăn nhiều trái cây, rau cải tươi, các hạt (nuts), các trái cây , rau thường màu cam hay đỏ có chứa nhiều chất kháng oxy hoá (antioxidant) là lycopene, như ổi, cà chua, đu đủ, dưa hấu, bắp cải đỏ (red cabbage), xoài, cà rốt, bưởi.
Những trường hợp sạn tuyến TL nặng, phải can thiệp để phẫu thuật. Nếu sạn nằm sát với niệu đạo (urethra), làm trở ngại dòng nước tiểu, lấy sạn ra qua đường niệu đạo (đường chảy ra của nước tiểu)( transurethral electroresection loop or holmium laser). Hay, nếu cần, cắt bỏ tuyến tiền liệt qua ngã niệu đạo (transurethral prostatectomy, transurethral resection of the prostate, TURP) hoặc qua ngã đường bụng.

3) Về việc có máu trong phân, nên bàn với bác sĩ có nên soi ruột già để tìm nguyên nhân chảy máu ở đâu, quan trọng nhất là truy tầm ung thư ruột già. vấn đề này đặc biệt quan trọng cho người trên 50 tuổi, người có trường hợp ung thư ruột già trong gia đình (cha mẹ anh em), người hút thuốc lá (thuốc lá tăng cơ nguy ung thư ruột già).
4) Về kết quả máu của ông, không có dấu hiệu cơ thể thiếu chất gì đặc thù cần bổ túc. Cần hỏi bác sĩ của ông để có câu trả lời thích hợp cho hoàn cảnh của ông. Xin tham khảo trong bài trước đây của tôi trả lời về các chất phụ trội dinh dưỡng. Một số người tuổi của vị thính giả dùng thuốc "tổng hợp" như Centrum Silver Men 50+ ("Silver"=bạc; chỉ người cao tuổi) mỗi ngày 1 viên; hay: One-A-Day Proactive 65+ mỗi ngày 1-2 viên. Nói chung vận động thường xuyên, uống nước đầy đủ, ăn các thức ăn tươi, nhiều rau cải, ít mỡ động vật là tốt cho người già.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Cơn lo âu, mỏi cơ và kali máu thấp

Rối loạn lo âu (anxiety disorder): Thường gặp nhất là rối loạn lo âu lan tỏa (generalized anxiety disorder). Về tâm lý, bịnh nhân thấy tinh thần căng thẳng, sợ sệt, khó tập trung, lo lắng. Về triệu chứng cơ thể (somatic complaints), một số lớn triệu chứng gây ra do bộ phận giao cảm của thần kinh thực vật (sympathetic nervous system) kích thích mãn tính: tim đập nhanh, hồi hộp thở nhanh, tay chân mồ hôi, khó ngủ, mệt mỏi, khó sinh hoạt về tính dục. Ngoài ra còn sinh ra vòng luẩn quẩn: hồi hộp gây ra lo sợ đau tim, hồi hộp thêm, khó thở làm hoảng hốt, sợ chết, làm khó thở thêm.
Một trong những tiêu chuẩn định bịnh này là triệu chứng kéo dài hơn 6 tháng, triệu chứng đầu tiên xuất hiện khoảng 20-25 tuổi, nữ giới nhiều hơn nam giới một chút. Tuy nhiên người lớn tuổi cũng thường bị chứng rối loạn lo âu mà không được chẩn đoán , săn sóc.
Một số biểu hiện khác thường gặp của chứng rối loạn lo âu là:
-Những cơn khủng hoảng lo sợ với những triệu chứng dữ dội như đau, tức ngực, ngộp thở (panic attacks)
-Sợ đến chỗ trống trải hoặc đông người (agarophobia), chỉ thích ở nhà, tránh phải nói chuyện với đám đông,
-Sợ người ta nhìn mình, thấy mình ngớ ngẩn, phải xấu hổ (social phobia).

Tuy nhiên chúng ta có thể cùng nhau học hỏi cách suy luận và truy tầm, phân biệt chẩn đoán
(diagnosis, differential diagnosis) trong nghề y khoa trong một số nhận xét sau đây:
1) Hoàn cảnh lúc xảy ra triệu chứng lần đầu như thế nào, ví dụ: đang tập gym như lần thứ nhì? hay day khi làm việc nặng nhọc, ví dụ exercise, chạy marathon? bịnh nhân trước đây có làm việc đó bao giờ chưa? khí hậu như thế nào? có nóng quá hay không? bịnh nhân có nhịn ăn , uống trước đó hay không? có uống nhiều chất kích thích như cà phê? có uống thuốc thuốc xổ (nhuận trường, laxative) làm giảm cân? thuốc lợi tiểu (làm tiểu nhiều), ví dụ để hạ áp huyết? thử máu lúc bịnh nhân ở tình trạng bình tỉnh hay chưa (ví dụ, thở quá nhanh do lo âu làm potassium (K) trong máu tăng, nhưng sau đó có thể lật ngược xuống quá thấp một thời gian).
2) Một kết quả thí nghiệm đơn độc có thể có rất nhiều ý nghĩa định bịnh (chẩn đoán), nhưng nếu không được xác nhận, lập lại thì có thể chỉ là một "artefact"(kết quả giả tạo) hay như trong y giới thường gọi là "con cá mòi đỏ" (red herring) gây lạc hướng (nguồn gốc câu chuyện,trong một câu chuyện nước Anh TK 19, con cá mòi hun khói trở thành màu đỏ, được dùng để đánh lạc hướng các con chó săn).
Potassium (Kalium, Kali) được cung cấp qua thực phẩm và có thể qua các viên phụ trợ dinh dưỡng ("thuốc bổ", nutritional supplements). Nhu cầu người lớn chừng 1600 to 2000 mg (40 to 50 milliequivalents [mEq])/ ngày. Thiếu kali có thể gây suy nhược cơ, nhịp tim không đều, thay đổi tâm trạng, hoặc buồn nôn và ói mửa. Ít người thiếu potassium tới mức có triệu chứng, nhưng nói chung potassium là một chất hay bị thiếu sót trong đồ ăn của người Mỹ trung bình. Một số thuốc nhất là thuốc lợi tiểu (làm đi tiểu nhiều, diuretic) để giảm huyết áp cao có thể gây ra mức potassium trong máu quá thấp. Cơ năng của tim, nhất là nhịp tim đập tuỳ thuộc rất nhiều vào mức potassium trong máu và mức quá cao hoặc quá thấp đều có thể nguy hiểm cho bịnh nhân.
Giống như calcium (Ca) và Sodium (Na), potassium là một khoáng chất được tìm thấy trong một số loại thực phẩm:
Nguồn thực phẩm của Potassium (Kali)
Theo Webmd: “Nhiều loại thực phẩm bạn đang ăn có chứa kali. Các loại thực phẩm được liệt kê dưới đây có hàm lượng kali cao. Nếu bạn cần tăng lượng kali trong chế độ ăn uống, hãy lựa chọn thực phẩm lành mạnh bên dưới để thêm vào thực đơn.
Nhiều loại trái cây tươi và rau quả giàu kali:
Chuối, cam, dưa đỏ, mật ong, mơ, bưởi (một số loại trái cây khô, như mận khô, nho khô, và chà là (dates)
Rau spinach nấu chín
Bông cải broccoli xanh nấu chín
Khoai tây
Khoai lang
Nấm
Đậu Hà Lan
Dưa leo
Quả bí
Cà tím
Bí ngô
Rau lá xanh
Nước ép trái cây:
Nước cam
Nước ép cà chua
Nước ép mận
Nước ép mơ
Nước bưởi
Một số sản phẩm từ sữa, chẳng hạn sữa chua, có hàm lượng kali cao (nên chọn low-fat (ít chất béo) hoặc "fat free" (không có chất béo)).”
3) Bịnh nhân có bịnh tim hay triệu chứng tim trong quá khứ hay không, trong gia đình?
-các triệu chứng như "khó thở, tim đập nhanh và cảm giác hụt hơi, bàn tay và chân tê lạnh, kèm theo mỏi cơ" có thể do một rối loạn nào đó của nhịp tim. Có thể bs đã đo tâm điện đồ (ECG) trong phòng cấp cứu . Nếu ECG bình thường, vẫn còn khả năng tim gây ra các triệu chứng, có thể liên hệ hay không với mức potassium ( Kalium) quá thấp phát hiện trong ER.

Có thể bác sĩ gia đình sẽ giới thiệu với bs chuyên về tim mạch (cardiologist) và bịnh nhân được đo tim trong lúc đang exercise, ví dụ chạy trên treadmill, xem lúc mức dùng sức lực nhiều, nhu cầu máu vào nuôi tim có được đáp ứng đầy đủ không, có rối loạn trong ECG hay không (stress test). BS chuyên tim mạch cũng có thể cho bịnh nhân mang một máy theo dõi ECG trong thời gian vài ngày hay cả tháng; máy thu lại các dữ kiện về tim lúc người bịnh đang ở những tư thế, hoạt động khác nhau (ngủ, làm việc, tập thể dục, ăn..); nếu có hiện tượng bất thường bs có thể liên hệ với hoạt động nào, thời điểm nào (Holter monitoring).
4)Một bịnh di truyền hiếm, gọi là Hypokalemic Periodic Paralysis (viết tắt HypoPP) gồm 3 đặc điểm:
-Paralysis: liệt. Những cơn cơ bắp , thường ở vai, hông bị yếu, liệt; có khi các cơ tay, chân, cơ hô hấp, cơ mắt làm không mở mắt được. Thường xảy ra lúc mới ngủ dậy, hay vừa nghỉ ngơi; không xảy ra lúc đang vận động mà sau khi vận động bắt đầu nghỉ ngơi. Sau khi ăn thức ăn quá ngọt, mặn.
Cơn kéo dài vài giờ, có khi cả ngày. Người bịnh vẫn tỉnh táo.

-Periodic: tái đi tái lại: Bắt đầu xảy ra lúc 13-19 tuổi (teen), có thể dưới 10 tuổi. Có thể mỗi ngày, hay cả năm mới có một lần.
-Hypokalemic: mức Potassium (kali) trong máu quá thấp, và cơ yếu, liệt kèm theo Kali thấp dẫn đến định bịnh này. Lúc hết cơn, potassium máu lại bình thường, và nói chung người bịnh không thiếu potassium. (Tuy vậy điều trị căn yếu/liệt bằng cách cho bịnh nhân uống hoặc chích tĩnh mạch dung dịch potassium.) Lúc lên cơn liệt, chất potassium di chuyển từ máu vào bắp cơ quá nhiều, làm mức potassium trong máu tụt xuống. Tuy nhiên mức potassium có thể vẫn trong mức bình thường. Thường cơ năng tuyến giáp (thyroid) bình thường. Tuy nhiên, người phái nam dân châu Á mang bịnh tuyến giáp có cơ nguy mắc bịnh HypoPP nhiều hơn.
Trong thời gian cơn bịnh, ECG cũng như cơ điện đồ (đo dòng điện các cơ, electromyogram) có thể bất bình thường.
Mỗi cơn hypoPP như vậy là một trường hợp khẩn cấp.
Ăn , uống thêm chất potassium có thể làm giảm hay ngăn ngừa cơn liệt. Thuốc lợi tiểu acetazolamide có thể giúp ngăn chặn các cơn, bs có thể cho thêm viên potassium phụ trội vì acetazolamide làm thải potassium nhiều hơn trong nước tiểu..
Bịnh không trị dứt được vì là bịnh di truyền, với một gen trội từ cha hay mẹ, hay do đột biến (mutation, không phải từ cha mẹ).

(Chúng ta nhắc đến bịnh này cũng như những bàn luận trong mục này chỉ có tính cách thông tin, tôi không ám chỉ là người hỏi hay bất cứ bịnh nhân nào được bàn đến mắc bịnh gì hay phải chữa trị ra sao.)
Tóm lại, bịnh nhân cần đi gặp lại bác sĩ gia đình của mình. Bác sĩ sẽ hỏi chi tiết hơn về bịnh sử, về các ăn uống, thuốc đang dùng, hoàn cảnh lúc xảy ra triệu chứng. Có thể sẽ thử máu theo dõi các cơ năng thận, tuyến giáp, tuyến thượng thận (adrenal) để giải thích mức Kalium thấp nếu vẫn còn tồn tại. Và sau đó nếu thấy cần sẽ nhờ bác sĩ chuyên về tim mạch (cardiologist), thần kinh (neurologist) thử nghiệm một số khía cạnh về cơ năng, nhất là nhịp tim của bịnh nhân.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền