Thursday, August 30, 2018

Ung thư tụy tạng: một loại bướu nguy hiểm vì không có triệu chứng sớm

Bà Aretha Franklin, một đại danh ca Mỹ, được mệnh danh là Nữ Hoàng nhạc Soul, vừa qua đời trong tháng Tám, 2018 vì bệnh ung thư tụy tạng, làm cả thế giới âm nhạc thương tiếc. Cách đây hơn chục năm, tài tử được yêu chuộng Patrick Swayze cũng qua đời vì ung thư tụy tạng. Đây là một loại ung thư nguy hiểm vì thường được tìm thấy khi đã quá trễ, không chữa được. 

Tụy tạng là một tuyến nội tiết rất quan trọng vì nó tiết ra các kích tố giúp kiểm soát mực đường trong máu cũng như các phân hóa tố giúp tiêu hóa thức ăn. Ung thư tụy tạng bắt đầu trong các mô của tụy tạng - nằm ngang phía sau phần dưới của dạ dày. Ung thư tụy tạng thường lan nhanh đến các cơ quan lân cận và ít khi được tìm thấy ở giai đoạn sớm. Nhưng với người đang bị bướu tụy tạng hoặc tiền sử gia đình có ung thư tụy tạng, một số thử nghiệm có thể giúp phát hiện sớm vấn đề. Một dấu hiệu của ung thư tụy tạng là bệnh tiểu đường, đặc biệt là khi cùng một lúc, bệnh nhân bị giảm cân, vàng da hoặc đau ở vùng bụng trên, lan ra phía sau.
Triệu chứng
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh ung thư tụy tạng thường chỉ được ghi nhận khi bệnh đã tiến triển xa. Chúng có thể bao gồm:
- Bệnh tiểu đường vừa khởi phát
- Vàng da và vàng mắt
- Đau ở vùng bụng trên, lan tỏa ra sau lưng
- Mất cảm giác thèm ăn hoặc bị giảm cân ngoài ý muốn
- Trầm cảm
- Bị cục máu đông
- Mệt mỏi thường xuyên
Khi nào nên đi khám bệnh
Nên đi khám bệnh nếu bạn bị giảm cân không giải thích được hoặc bạn bị mệt mỏi dai dẳng, đau bụng, vàng da, hoặc các dấu hiệu và triệu chứng khác làm bạn khó chịu. Nhiều tình trạng bệnh có thể gây ra các triệu chứng này, vì vậy bác sĩ có thể phải cho làm những thử nghiệm tìm những tình trạng bệnh này cùng lúc với tìm bệnh ung thư tụy tạng.
Nguyên nhân
Tụy tạng dài khoảng 6 inch (15 cm) và trông giống như một quả lê nằm nghiêng. Nó tiết ra các kích tố, kể cả insulin, giúp cơ thể bạn tiêu hóa chất đường trong các loại thực phẩm bạn ăn. Và nó sản xuất các loại nước tiêu hóa để giúp cơ thể tiêu hóa thức ăn
Ít khi có thể tìm ra nguyên nhân gây ung thư tụy tạng. Các bác sĩ đã xác định một số yếu tố, chẳng hạn như hút thuốc lá, có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh.
Ung thư tụy tạng xảy ra khi các tế bào trong tuyến tụy có những đột biến trong DNA. Những đột biến này khiến cho các tế bào phát triển không kiểm soát được và tiếp tục sống sau khi các tế bào bình thường đã chết. Những tế bào này có thể tụ thành một khối u. Ung thư tụy tạng không được điều trị sẽ lan truyền đến các cơ quan và mạch máu gần đó.
Hầu hết ung thư tuyến tụy bắt đầu trong các tế bào lót các ống dẫn chất của tuyến tụy. Loại ung thư này được gọi là adenocarcinoma tuyến tụy hoặc exocrine tuyến tụy. Hiếm khi, ung thư có thể hình thành trong các tế bào sản xuất kích tố hoặc các tế bào thần kinh nội tiết của tuyến tụy. Những loại ung thư này được gọi là khối u tế bào islet, ung thư nội tiết tụy và các khối u thần kinh tuyến tụy.
Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh
Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ ung thư tụy tạng bao gồm:
· Viêm mãn tính tụy tạng 
· Bệnh tiểu đường
· Tiền sử gia đình có các hội chứng di truyền có thể làm tăng nguy cơ ung thư, bao gồm đột biến gen BRCA2, hội chứng Lynch và hội chứng mụt ruồi không điển hình trong gia đình-ung thư melanoma ác tính (FAMMM)
· Tiền sử gia đình có ung thư tụy tạng
· Hút thuốc
· Béo phì
· Tuổi già, vì hầu hết mọi người được chẩn bệnh sau tuổi 65
Một nghiên cứu lớn chứng minh rằng sự kết hợp của hút thuốc lá, bệnh tiểu đường lâu năm và chế độ ăn uống kém làm tăng nguy cơ ung thư tụy tạng hơn là khi những yếu tố này đứng riêng lẻ.
Biến chứng
Khi ung thư tụy tạng tiến triển, nó có thể gây ra các biến chứng như:
- Vàng da. Ung thư tuyến tụy chặn ống dẫn mật của gan nên có thể gây vàng da. Các dấu hiệu bao gồm da và mắt vàng, nước tiểu có màu đậm và phân màu nhạt. Vàng da thường xảy ra mà không có đau bụng.
Bác sĩ có thể đề nghị đặt ống nhựa hoặc ống kim loại (stent) vào ống mật để làm thông ống. Điều này được thực hiện với sự trợ giúp của một thủ thuật gọi là ERCP. Khi làm ERCP, một ống nội soi được truyền xuống cổ họng, qua dạ dày và vào phần trên của ruột non. Thuốc nhuộm sau đó được tiêm vào ống tụy và ống dẫn mật thông qua một ống rỗng nhỏ (ống thông) được truyền qua ống nội soi. Cuối cùng, hình ảnh các ống dẫn được chụp lại.
- Giảm cân. Một số yếu tố có thể gây giảm cân ở những người mắc bệnh ung thư tuyến tụy. Chính ung thư đã có thể gây giảm cân. Buồn nôn và nôn do điều trị ung thư hoặc khối u đè lên dạ dày của bạn có thể khiến bạn khó ăn và do đó giảm cân. Hoặc cơ thể của bạn có thể gặp khó khăn trong việc tiêu hóa các chất dinh dưỡng từ thực phẩm vì tụy tạng của bạn không có đủ nước tiêu hóa.

Bác sĩ có thể đề nghị cho uống enzyme tụy tạng để hỗ trợ tiêu hóa. Nên cố gắng duy trì cân nặng của bạn bằng cách ăn thêm calories vào mọi lúc, và làm cho bữa ăn dễ chịu và thoải mái nhất có thể.

- Đau đớn. Khối u đang phát triển có thể đè lên các dây thần kinh ở bụng của bạn, gây đau đớn, có thể trở nên nghiêm trọng. Thuốc giảm đau có thể giúp bạn cảm thấy thoải mái hơn. Xạ trị có thể giúp ngăn chặn sự phát triển của khối u tạm thời để giúp bạn bớt đau.

Trong những trường hợp nặng, bác sĩ có thể khuyên bạn nên để cho làm thủ thuật tiêm rượu vào dây thần kinh để kiểm soát cơn đau ở vùng bụng của bạn (celiac plexus block). Thủ tục này ngăn các dây thần kinh gửi tín hiệu đau đến óc của bạn. 

- Nghẹt ruột: Ung thư tuyến tụy phát triển vào thành hoặc ép vào phần đầu của ruột non (tá tràng) có thể chặn dòng thức ăn tiêu hóa từ dạ dày vào ruột. Bác sĩ có thể đề nghị đặt ống stent vào ruột non để giữ nó thông. Hoặc có thể mổ để gắn dạ dày vào một điểm thấp hơn trong ruột không bị chặn bởi ung thư.
*Phòng ngừa
Bạn có thể giảm nguy cơ ung thư tuyến tụy nếu bạn: 
-Gặp một nhân viên tư vấn di truyền nếu bạn có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư tuyến tụy. Bác sĩ có thể xem lại lịch sử sức khỏe gia đình của bạn với bạn và xác định liệu bạn có thể hưởng lợi từ xét nghiệm di truyền để tìm hiểu nguy cơ ung thư tuyến tụy hoặc các bệnh ung thư khác hay không.
- Ngừng hút thuốc. Nếu bạn hút thuốc, hãy cố gắng dừng lại. Nói chuyện với bác sĩ của bạn về các chiến lược để giúp bạn dừng lại, bao gồm nhóm hỗ trợ, thuốc và liệu pháp thay thế nicotin. Nếu bạn không hút thuốc, đừng bắt đầu. 
- Duy trì cân nặng khỏe mạnh. Nếu bạn đang có một trọng lượng khỏe mạnh, hãy cố gắng duy trì. Nếu bạn cần giảm cân, hãy giảm cân chậm, ổn định - 1 đến 2 lbs một tuần. Kết hợp tập thể dục hàng ngày với việc ăn nhiều rau, trái cây và ngũ cốc nguyên hạt với phần ăn nhỏ hơn có thể giúp bạn giảm cân. Một chế độ ăn uống đầy đủ các loại trái cây và rau quả nhiều màu sắc và ngũ cốc nguyên hạt có thể giúp giảm nguy cơ ung thư.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Đột quị do sức nóng

Có 3 hội chứng có thể xảy ra cho cơ thể chúng ta tiếp xúc với sức nóng quá mức: Chuột Rút (Heat Cramps), Kiệt Sức (Heat Exhaustion), và Đột Quị (Heatstroke). Nhẹ nhất là heat cramps và nặng nhất là heatstroke, có thể dẫn đến tử vong.
Lần trước chúng ta đã bàn về heat exhaustion, hôm nay xin bàn tiếp đến heatstroke.
Đột quỵ do sức nóng, tạm dịch chữ heatstroke, là một tình trạng do cơ thể bị tăng nhiệt độ quá cao, quá nóng, thường là do ở ngoài nắng quá lâu hoặc hoạt động thể lý quá mạnh khi nhiệt độ ngoài trời cao. Đây là hình thức nghiêm trọng nhất của các chấn thương gây ra do nhiệt. Heatstroke có thể xảy ra nếu nhiệt độ cơ thể tăng lên đến 104 F (40 C) hoặc cao hơn. Tình trạng này thường thấy trong những tháng mùa hè.

Heatstroke đòi hỏi phải điều trị khẩn cấp. Nếu không được điều trị thì não, tim, thận và bắp thịt sẽ bị hủy hoại một cách nhanh chóng. Càng trì hoãn điều trị thì tổn thương càng nặng, dẫn đên các biến chứng nghiêm trọng hoặc tử vong.
Triệu chứng
Dấu hiệu và triệu chứng của heatstroke gồm:
Nhiệt độ trọng tâm cơ thể tăng đến 104 F (40 C) hoặc cao hơn, khi đo bằng nhiệt kế trực tràng, là dấu hiệu chính của heatstroke.
Trạng thái tinh thần hoặc hành vi trở nên bất thường. Lẫn lộn, kích động, nói chậm, khó chịu, mê sảng, co giật và hôn mê, tất cả có thể là do heatstroke.
Toát mồ hôi khác thường. Khi bị heatstroke do thời tiết nóng, da thường nóng và khô khi chạm vào. Tuy nhiên, khi bị đột quị do vận động quá nặng, làn da của bạn có thể cảm thấy khô hoặc hơi ẩm.
Buồn nôn và ói mửa. Bạn có thể cảm thấy đau bụng hoặc nôn mửa.
Da ửng đỏ. Da của bạn có thể đỏ lên khi nhiệt độ cơ thể tăng.
Thở nhanh. Hơi thở của bạn có thể trở nên nhanh và cạn.
Nhịp tim rất nhanh. Mạch của bạn có thể tăng lên đáng kể do tim phải đập nhanh để giúp làm mát cơ thể.
Đau đầu (throbing pain). Đầu như bị giựt nhẹ.
Nếu bạn nghĩ rằng một người có thể đang bị heatstroke, hãy tìm sự giúp đỡ y tế ngay lập tức. Gọi 911 hoặc số dịch vụ khẩn cấp địa phương của quý vị.
Hãy hành động ngay lập tức để làm mát người quá nóng trong khi chờ đợi điều trị khẩn cấp:
Đưa người đó vào bóng râm hoặc trong nhà.
Cởi bớt quần áo dư.
Làm mát người với bất kỳ phương tiện nào có sẵn - đặt họ trong một bồn nước mát hoặc xịt vòi sen, xịt bằng vòi vườn, lau người với nước mát, quạt trong khi phun nước mát hoặc đặt túi nước đá hoặc khăn lạnh, ướt trên đầu, cổ, nách và háng của người đó.
Nguyên nhân
Tiếp xúc với môi trường nóng. Trong loại heatstroke không do vận động quá sức, ở trong môi trường nóng dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ cơ thể. Đây là loại đột quị thường xảy ra khi tiếp xúc với thời tiết nóng ẩm, đặc biệt là trong thời gian dài. Nó xảy ra thường xuyên nhất ở người lớn tuổi và ở những người bị bệnh mãn tính.
Vận động quá mạnh. Heatstroke do vận động quá sức là do sự gia tăng nhiệt độ cơ thể cốt lõi do hoạt động thể chất mạnh trong thời tiết nóng. Bất cứ ai tập thể dục hoặc làm việc trong thời tiết nóng đều có thể bị heatstroke, nhưng dễ xảy ra nhất khi nạn nhân không quen với nhiệt độ cao.
Trong cả hai loại đột quị, heatstroke có thể xảy ra bởi:
Mặc quần áo quá nhiều khiến mồ hôi không thể bốc hơi dễ dàng và làm mát cơ thể bạn
Uống rượu, khiến ảnh hưởng đến khả năng điều chỉnh nhiệt độ của cơ thể bạn
Thiếu nước do không uống đủ nước để thay thế chất lỏng bị mất qua mồ hôi
Các yếu tố rủi ro
Bất cứ ai cũng có thể bị heastroke, nhưng một số yếu tố làm tăng nguy cơ bị bệnh:
Tuổi tác. Khả năng đối phó với nhiệt độ cực cao phụ thuộc vào sức mạnh của hệ thống thần kinh trung ương. Ở trẻ nhỏ, hệ thần kinh trung ương chưa phát triển đầy đủ, và ở người lớn trên 65 tuổi, hệ thần kinh trung ương bắt đầu yếu đi, khiến cơ thể bạn ít có khả năng đối phó với những thay đổi về nhiệt độ cơ thể. Cả hai nhóm tuổi này thường gặp khó khăn để giữ nước trong cơ thể, điều này cũng làm tăng nguy cơ bị heatstroke.

Trời quá nóng. Huấn luyện quân sự và tham gia các môn thể thao như bóng đá hoặc các cuộc chạy đường dài trong thời tiết nóng là một trong những tình huống có thể dẫn đến say nắng.

Tiếp xúc đột ngột với thời tiết nóng. Bạn có thể dễ bị bệnh liên quan đến sức nóng hơn nếu bạn tiếp xúc với sự gia tăng nhiệt độ đột ngột, chẳng hạn như trong một đợt nắng nóng mùa hè hoặc du lịch đến một khí hậu nóng hơn. Nên hạn chế hoạt động trong ít nhất vài ngày để bản thân thích nghi với sự thay đổi. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể tăng nguy cơ bị say nắng cho đến khi bạn đã trải qua vài tuần.

Thiếu máy điều hòa không khí. Quạt có thể làm cho bạn cảm thấy đỡ hơn, nhưng trong thời tiết nóng lâu, điều hòa không khí là cách hiệu quả nhất để làm mát và giảm độ ẩm.

Một số loại thuốc. Một số loại thuốc ảnh hưởng đến khả năng giữ nước của cơ thể và đáp ứng với sức nóng. Nên đặc biệt cẩn thận trong thời tiết nóng nếu bạn dùng thuốc làm giảm hẹp mạch máu, điều hòa huyết áp bằng cách chặn adrenaline (thuốc chặn bêta), loại bỏ muối và nước (thuốc lợi tiểu) hoặc giảm các triệu chứng tâm thần (thuốc chống trầm cảm hoặc thuốc chống loạn thần).

Các chất kích thích chữa rối loạn tăng động/thiếu tập trung (ADHD) và các chất kích thích bất hợp pháp như amphetamines và cocaine cũng khiến bạn dễ bị say nắng hơn.

Một số tình trạng sức khỏe. Một số bệnh mãn tính, chẳng hạn như bệnh tim hoặc phổi, có thể làm tăng nguy cơ bị đột quị do nóng. Cũng như béo phì, ít vận động và có tiền sử say nắng trước đó.
Biến chứng
Heatstroke có thể dẫn đến một số biến chứng, tùy thuộc vào nhiệt độ cơ thể bị tăng cao bao lâu. Các biến chứng nặng bao gồm:
Tổn thương cơ quan quan trọng. Nếu không cấp cứu ngay để giảm nhiệt độ cơ thể, heatstroke có thể khiến não của bạn hoặc các cơ quan quan trọng khác sưng lên, có thể dẫn đến tổn thương vĩnh viễn.
Tử vong. Nếu không điều trị kịp thời và đầy đủ, heatstroke có thể gây tử vong.
Phòng ngừa
Sau đây là một số biện pháp phòng ngừa để ngăn chặn tình trạng đột quị do sức nóng và các bệnh liên quan đến sức nóng khác. Khi nhiệt độ tăng lên, hãy nhớ:

Mặc quần áo rộng rãi làm bằng chất liệu nhẹ. Mặc quần áo quá nhiều hoặc quá chật sẽ làm cơ thể không thể tự làm mát được.

Tránh bị cháy nắng. Bị cháy nắng ảnh hưởng đến khả năng tự làm mát cơ thể, vì vậy khi ra ngoài hãy đội mũ rộng vành, đeo kính râm và bôi kem chống nắng có SPF ít nhất là 15. Nên bôi thật nhiều kem chống nắng và bôi lại cách mỗi hai giờ - hoặc thường xuyên hơn nếu bạn đang bơi hoặc đổ mồ hôi.

Uống nhiều nước. Cơ thể đủ nước sẽ giúp đổ mồ hôi và duy trì nhiệt độ cơ thể bình thường.
Cẩn thận khi đang dùng một số loại thuốc. Cần để ý đến các triệu chứng của những bệnh liên quan đến nhiệt nếu bạn đang dùng thuốc có thể ảnh hưởng đến khả năng giữ nước và giải nhiệt của cơ thể.

Không để "quên" bất cứ ai trong một chiếc xe đậu. Đây là nguyên nhân thường thấy gây tử vong do sức nóng quá lớn ở trẻ em. Khi đậu xe trong ánh nắng mặt trời, nhiệt độ trong xe của bạn có thể tăng thêm 20 độ F (hơn 6,7 độ C) trong 10 phút. Không để bất cứ ai ở lại trong xe khi thời tiết đang nóng, dù có mở hé cửa hay đậu trong bóng râm.

Nên nghỉ ngơi trong những giờ nóng nhất của ngày. Nếu bắt buộc phải làm các hoạt động nặng nhọc trong thời tiết nóng, hãy uống nước nhiều và nghỉ ngơi thường xuyên ở nơi thoáng mát. Nên tập thể dục hoặc lao động thể lý vào những giờ mát hơn trong ngày, chẳng hạn như sáng sớm hoặc buổi tối.

Tập thích nghi. Giảm bớt thời gian làm công việc nặng hoặc tập thể dục dưới sức nóng cho đến khi cơ thể bạn thích nghi. Những người không quen với thời tiết nóng đặc biệt dễ bị bệnh liên quan đến nhiệt. Có thể mất vài tuần để cơ thể bạn điều chỉnh theo thời tiết nóng.

Cẩn thận khi bạn có những yếu tố tăng nguy cơ bị bệnh liên quan đến nhiệt. Nếu bạn dùng thuốc hoặc bị bệnh làm tăng nguy cơ bị bệnh liên quan đến nhiệt, chẳng hạn như từng bị bệnh do nhiệt trước kia, nên tránh chỗ nóng và hành động nhanh chóng nếu bạn nhận thấy mình có những triệu chứng bệnh. Nếu bạn tham gia vào một sự kiện thể thao phải gắng sức nhiều hoặc hoạt động nặng trong thời tiết nóng, hãy ở gần những nơi có các dịch vụ y tế.

Nguy cơ nghiện thuốc benzo

Trong vài năm vừa qua, dân Mỹ được báo động về dịch chết vì uống quá liều thuốc có chứa chất opoid (thuốc phiện). Điển hình là ca sĩ-diễn viên Demi Levato vừa thoát chết trong gang tấc khi được các bạn chích thuốc giải cứu sống vì cô đã hôn mê sau khi dùng thuốc phiện quá liều.
Nhưng hiện có một cơn dịch khác đang chờ được khám phá. Đó dịch nghiện thuốc "benzo" mà đài NBC vừa đưa ra trong thời gian gần đây.
Câu chuyện bắt đầu
Khi Christy Huff bị đau mắt đến mất ngủ, bác sĩ của bà đã có một giải pháp rất thông dụng: kê toa mua thuốc Xanax. Bà uống thuốc đúng theo chỉ dẫn.
Một viên mỗi đêm làm đỡ bệnh, nhưng chẳng mấy chốc bà bắt đầu cảm thấy lo lắng, khủng hoảng ban ngày và run rẩy. Sau đó, Huff bỗng nhận ra rằng khi ngưng uống Xanax, bà bị các triệu chứng cai nghiện hành hạ. Và khi bà uống thuốc lại, "tất cả các triệu chứng ấy biến mất".
Chỉ trong ba tuần lễ, cơ thể của bà đã lệ thuộc vào Xanax.
"Tôi không nhớ bác sĩ có nói cho tôi biết bất kỳ thông tin nào về nguy cơ nghiện hoặc lệ thuộc thuốc," Huff, một bác sĩ tim mạch, nói với NBC News. "Tôi đã hoàn toàn bị sốc khi nhận ra mình bị nặng đến thế."
Benzo là gì?
Xanax là một loại thuốc thuộc về một nhóm thuốc gọi là benzodiazepines, đôi khi được gọi là tắt là "benzos". Benzodiazepines là thuốc an thần được dùng chính yếu là để điều trị lo lắng và mất ngủ. Ngoài ra còn có Valium, Ativan và Klonopin cũng thuộc vào loại thuốc này.
Bác sĩ Anna Lembke, trưởng khu bệnh nghiện tại Trung Tâm Y Khoa Đại Học Stanford, cho biết các biến chứng từ benzos, chẳng hạn như lệ thuộc và nghiện, đang tạo nên một dịch bệnh tiềm ẩn giống như cuộc khủng hoảng opioid.
"Sinh viên y khoa, dân chúng và thậm chí các bác sĩ trong thực tế không nhận ra tiềm năng gây nghiện của benzodiazepines," bà nói với NBC News. "Đã có nhiều nhận thức về opioid nhưng rất ít về benzodiazepines, và bệnh nhân đang chết vì chúng."
Nguy cơ nghiện benzo
Theo số liệu từ Viện Lạm Dụng Ma Túy quốc gia, đã có 8,791 trường hợp tử vong do uống thuốc quá liều liên quan đến benzos trong năm 2015, tăng từ 1.135 trường hợp trong năm 1999. Từ năm 1996 đến năm 2013, số người lớn mua thuốc benzodiazepine do được kê đơn tăng 67%, tới con số 13,5 triệu vào năm 2013, theo một nghiên cứu.

Có rất ít nhận biết về sự nguy hiểm của benzos, có lẽ vì sự chú ý đang được dành cho cuộc khủng hoảng thuốc phiện opioid. Các loại thuốc phiện, bao gồm cả thuốc phiện được cho toa, heroin và fentanyl, đã giết chết hơn 42.000 người vào năm 2016, theo Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Dịch Bệnh.

Nhà sản xuất Valium cho biết họ cam kết bảo đảm thuốc an toàn để dùng, và đề nghị nó được cho toa một cách dè dặt. Nhà sản xuất Xanax cho biết lạm dụng thuốc benzodiazepins đã trở thành mối đe dọa sức khỏe cộng đồng ngày càng tăng, và họ sẽ tiếp tục hướng dẫn người tiêu dùng, bệnh nhân và bác sĩ về việc sử dụng nó một cách hợp lý.

Lembke nói bác sĩ nên kê toa benzos một cách thận trọng hơn. Bà nói, “Một trong những kết quả của dịch bệnh thuốc phiện opioid là cộng đồng y tế đã nhận ra rằng chúng ta phải giáo dục các bác sĩ tốt hơn về opioid và nhữngnguy hiểm của chúng, nhưng chúng tôi vẫn chưa làm điều đó cho các thuốc benzodiazepines."
Bà giải thích rằng vì benzos chữa rất tốt chứng lo lắng và mất ngủ và bệnh nhân ngay lập tức đáp ứng với thuốc, các bác sĩ hay viết toa thuốc này cho họ. Nhưng bệnh nhân có thể nhanh chóng lệ thuộc vào thuốc, cần liều cao hơn và cao hơn, và các triệu chứng cai nghiện đau đớn khi chưa kịp uống thuốc. Sử dụng thuốc lâu dài thậm chí có thể gây tổn thương thần kinh.

Benzos cực kỳ khó cai, bà nói. Đối với một số bệnh nhân, việc bỏ thuốc phiện dễ dàng hơn. Benzos có thể đặc biệt nguy hiểm khi kết hợp với opioid, chuyện này không phải là hiếm và có thể làm tăng nguy cơ quá liều gần gấp bốn lần.
Cai nghiện benzo
Huff đã cố gắng cai benzos trong gần ba năm.
Lần đầu tiên bà nhận ra sự lệ thuộc vào Xanax của mình, bác sĩ của bà đã không coi đó là quan trọng. "Bà ấy nói, 'chỉ là lo lắng thôi', "Huff nói về bà bác sĩ này. "'Bà có thể giảm dần thuốc trong ba tuần nhưng thành thật mà nói tôi nghĩ bà có thể ngưng ngay lập tức."

Khi cố ngưng dùng Xanax, bà đã bị các triệu chứng nghiêm trọng. Bà không thể ngủ hơn ba giờ vào ban đêm, khó ăn, khó nuốt, và mất gần 20 pounds. Lembke nói rằng việc ngừng benzos ngay lập tức có thể gây động kinh và thậm chí tử vong.

Sau một số nghiên cứu trên mạng, Huff nhận ra rằng bà phải từ từ giảm liều thuốc. Mỗi khi giảm liều, bà trải qua một giai đoạn triệu chứng nặng lên, nhưng bà đang dần dần tiến triển.
Lúc Huff trở nên lệ thuộc vào benzos, bà đã ngừng hành nghề để chăm sóc con gái nhỏ của mình, Kathryn. Năm đầu tiên Huff bị bệnh là năm cuối cùng con gái bà học trường mầm non. Bà đã có kế hoạch để tận hưởng thời gian với con gái của mình trước khi bé bắt đầu đi học mẫu giáo, thí dụ như cùng đi đến sở thú và công viên. Nhưng thay vào đó, bà phải ở nhà và nghỉ ngơi trong khi một vú em đem con gái đi.

"Tôi rất giận," Huff nói. "Chịu đựng theo cách này đã là tệ rồi nhưng không thể tham gia đầy đủ vào cuộc sống của con gái tôi, đó là sự xúc phạm tối thượng."

Huff đang hy vọng rằng trong một năm nữa, bà sẽ hoàn toàn hết bị lệ thuộc vào benzo, nhưng điều khiến bà lo lắng là thiệt hại lâu dài. Bây giờ bà phải vật lộn với trí nhớ và sự mệt mỏi - bà thường quên làm những công việc đơn giản như đeo kính áp tròng vào buổi sáng.

Lembke cho biết rằng việc giảm dần có thể mất nhiều thời gian. Khi liều thuốc giảm xuống, tỷ lệ thuốc bị giảm đi lớn hơn, vì vậy các triệu chứng cai nghiện có thể nặng hơn. 

Ngày nay, Huff đang cố gắng phổ biến các báo động để những người khác không bị tình huống tương tự. Bà điều khiển một tổ chức phi lợi nhuận, Liên Minh Thông Tin về Benzodiazepine. Nhiệm vụ của nó là giáo dục cả bác sĩ và bệnh nhân về những gì xảy ra khi họ biên toa và uống benzodiazepines. 

"Tôi chỉ thực sự muốn thế giới biết rằng đây là một vấn đề khổng lồ", Huff nói. "Tôi đã gặp trên mạng rất nhiều bệnh nhân bị làm hại bởi các loại thuốc này, chỉ bằng cách dùng chúng theo quy định của bác sĩ của họ. Họ không bao giờ được thông báo về những hậu quả có thể xảy ra mà họ đã phải chịu đựng." 
Lembke cung cấp lời khuyên sau đây cho bệnh nhân: 

Trước khi uống benzos, hãy hỏi bác sĩ xem có những rủi ro gì. Hỏi xem liệu có các lựa chọn điều trị khác như thuốc chống trầm cảm hoặc liệu pháp hành vi nhận thức hay không.

Benzos nên được sử dụng như phương pháp điều trị ngắn hạn và không liên tục. Tránh sử dụng lâu dài
Không bao giờ ngưng dùng benzos đột ngột. Hỏi bác sĩ về kế hoạch giảm dần theo thời gian. 
Cần nói cho bác sĩ biết nếu bạn đang dùng thêm một thứ thuốc nào khác, và hỏi về việc 2 thứ thuốc uống cùng nhau sẽ có tác dụng gì không.

Phụ huynh nên biết rằng một số benzos có thể được mua trên mạng và họ nên nói chuyện với con họ về sự nguy hiểm này và nên để ý xem con mình có nhận các gói bí ẩn và chiếc cân tiểu ly được sử dụng để đo liều không. Ngay cả liều lượng nhỏ cũng có thể chết người. Lembke hy vọng rằng cuối cùng, các bác sĩ sẽ được thông báo tốt hơn, nhưng hiện tại, bệnh nhân nên nhận thức được những mối quan ngại này.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Bệnh lở môi (Cold sore)

Ai cũng đã từng 1 lần bị bệnh lở môi. Một ngày nào đó, bạn bỗng cảm thấy ngưa ngứa, tê tê trên môi. Sau đó, những mụn nước nhỏ xuất hiện, có thề chụm lại thành từng nhóm. Các mụn nước sau đó vỡ ra, một lớp mài mọc lên trên và khô lại , sau đó tróc đi. Lở môi thường lành trong 2 đến 4 tuần mà không để lại sẹo. 
Lở môi (cold sores hay fever blisters) là một bệnh nhiễm trùng do siêu vi rất thường thấy. Lở môi lan truyền từ người này sang người khác khi tiếp xúc gần gũi, chẳng hạn như khi hôn. Bệnh này do một loại siêu vi tên herpes simplex 1 (HSV-1) có liên quan mật thiết đến loại siêu vi gây ra bệnh herpes ở cơ quan sinh dục là herpes simplex 2 (HSV-2). Cả hai loại virus này đều có thể mọc ở miệng hoặc bộ sinh dục và có thể lây lan qua đường tình dục bằng miệng. Lở môi có thể lây lan ngay cả khi không thấy vết loét.

Triệu chứng
Lở môi thường đi qua nhiều giai đoạn:
· Ngứa và cảm giác châm chích. Nhiều người thấy ngứa ngáy, cảm giác nóng như bỏng và châm chích quanh môi khoảng một ngày hoặc lâu hơn trước khi xuất hiện một vết nhỏ gây đau và phồng rộp.
· Các mụn nước nhỏ thường mọc trên mép ngoài của môi, xung quanh mũi hoặc trên má.
· Chảy nước và mọc mài. Các mụn nước nhỏ có thể hợp lại thành 1 nhóm, sau đó vỡ ra, để lại các vết loét cạn, có chất lỏng rịn ra, sau đó đóng mài.
Triệu chứng có thể khác nhau, tùy theo lần đầu bị hay tái phát. Chúng có thể kéo dài vài ngày, và mụn nước có thể mất từ hai đến bốn tuần mới lành hoàn toàn. Tái phát thường xuất hiện tại cùng một vị trí mỗi lần và thường nhẹ hơn lần bùng phát đầu tiên.

Khi bị bệnh lần đầu, một số người cũng có thêm các triệu chứng:
· Sốt
· Nướu bị xói mòn, đau
· Đau cổ họng
· Nhức đầu
· Đau bắp thịt
· Các hạch bạch huyết bị sưng
Trẻ em dưới 5 tuổi có thể bị các vết lở môi mọc bên trong miệng nên thường bị nhầm lẫn với bệnh mụn nhiệt (canker sore). Canker sore chỉ liên quan đến màng nhầy và không phải do virus herpes simplex gây ra.

Khi nào nên đi khám bệnh
Lở môi thường tự hết không cần điều trị. Nên đi khám bác sĩ nếu:
· Bạn bị hệ miễn dịch suy yếu
· Các vết lở không lành trong vòng hai tuần
· Các triệu chứng nặng hơn
· Bạn thường xuyên bị lở môi
· Mắt bị xốn, khó chịu

Nguyên nhân
Lở môi do một số loại virus herpes simplex (HSV) gây ra. HSV-1 thường gây ra lở môi. HSV-2 thường gây ra lở sinh dục. Tuy nhiên, loại nào cũng có thể gây lở trên vùng mặt hoặc trên bộ phận sinh dục. Hầu hết những người bị nhiễm virus không có triệu chứng.

Lở môi thường dễ lây nhất khi có mụn nước. Nhưng bệnh nhân có thể truyền virus sang người khác ngay cả khi không đang có mụn nước. Dùng chung đồ dùng ăn uống, dao cạo râu và khăn tắm, cũng như hôn, có thể lây lan 
HSV-1. Quan hệ tình dục bằng miệng có thể lây truyền HSV-1 vào bộ phận sinh dục và HSV-2 lên môi.
Khi các vết lở môi đã lành, virus sẽ nằm im trong tế bào thần kinh trong da của bạn và sau đó có thể nổi lên làm lở môi ở cùng một nơi như trước. Việc tái phát bệnh có thể được kích hoạt bởi:
· Nhiễm virus hoặc sốt
· Thay đổi nội tiết tố, chẳng hạn như những thay đổi liên quan đến kinh nguyệt
· Căng thẳng
· Mệt mỏi
· Tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và gió
· Những thay đổi trong hệ miễn dịch

Các yếu tố rủi ro
Khoảng 90% người lớn trên toàn thế giới - ngay cả những người chưa bao giờ có triệu chứng nhiễm trùng virus này - có xét nghiệm dương tính với siêu vi gây ra lở môi.
Những người có hệ miễn dịch suy yếu có nguy cơ cao bị biến chứng. Một số bệnh và điều trị y tế làm tăng nguy cơ biến chứng của bạn, bao gồm:
· HIV/AIDS
· Phỏng nặng
· Eczema
· Hóa trị ung thư
· Thuốc chống tống tháo (anti-rejection) sau khi ghép nội tạng

Biến chứng
Ở một số người, virus gây ra các vết lở môi có thể gây ra các vấn đề ở các khu vực khác của cơ thể, bao gồm:
· Đầu ngón tay. Cả HSV-1 và HSV-2 đều có thể lan ra các ngón tay. Đây là loại nhiễm trùng thường được gọi là herpes whitlow. Trẻ em hay mút ngón tay cái có thể truyền bệnh từ miệng đến ngón cái.
· Mắt. Virus đôi khi có thể gây nhiễm trùng mắt. Nhiễm trùng tái đi tái lại có thể gây sẹo và thương tích trong mắt, có thể dẫn đến các vấn đề về thị lực hoặc mù lòa.
· Lở ở một vùng da lớn. Những người bị eczema có nguy cơ bị các vết lở lan rộng khắp cơ thể của họ. Đây là một trường hợp cấp cứu.
· Các cơ quan khác. Ở những người có hệ miễn dịch suy yếu, virus cũng có thể ảnh hưởng đến các cơ quan như tủy sống và não.

Phòng ngừa
Bác sĩ có thể cho thuốc kháng virus để uống thường xuyên, nếu bạn thường xuyên bị mụn lở hoặc nếu bạn có nguy cơ cao bị biến chứng nghiêm trọng. Nếu ánh sáng mặt trời dường như kích hoạt sự tái phát, hãy thoa kem chống nắng lên chỗ vết lở có thể mọc lại.
Để tránh lây lan vết lở môi cho người khác hoặc đến các bộ phận khác của cơ thể, bạn có thể thử một số phương pháp sau
 -Tránh tiếp xúc da kề da với người khác khi có mụn nước. Siêu vi lây lan dễ dàng nhất khi mụn lở chảy nước.
-Tránh dùng chung vật dụng: Khăn tắm, son dưỡng môi và các vật dụng khác có thể làm lây lan siêu vi khi có mụn nước. 
-Rửa tay kỹ: Khi bị lở môi, hãy rửa tay cẩn thận trước khi sờ vào chính mình và những người khác, đặc biệt là trẻ sơ sinh.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Bệnh do tâm khởi

Tâm thái của con người chính là chủ nhân của cơ thể. Con người thường đổ lỗi cho hoàn cảnh nhưng thực ra hoàn cảnh không thể trói buộc con người, mà ngược lại, con người tự buộc chặt mình vào hoàn cảnh, nguyên do chính cũng từ tâm thái mà ra.
1. Tâm thái và bệnh tật có quan hệ trực tiếp với nhau
Tâm hồn có tổn thương, có vấn đề thì sẽ biểu hiện ra ngoài thân thể thành bệnh tật. Rất nhiều bệnh tật trên thân thể chỉ là giả tướng bên ngoài, khó thấy được nguyên nhân bên trong, giống như chúng ta chỉ có thể nhìn thấy được hình dạng trái cây, chứ không biết được hạt giống làm thành trái ấy được gieo xuống từ khi nào và ở đâu, rồi lại nảy mầm kết trái ra sao.
Bệnh tật không những là từ những tâm niệm trong đời này, mà còn từ nhân duyên, quan niệm,... của những đời trước. Do đó, hãy để cho mỗi tâm niệm của chúng ta đều chan chứa tình thương. Trong tâm thái của chúng ta không nên có đau lòng, sợ hãi, phẫn nộ, mà chỉ nên có bình thản, hài hòa. Chúng ta nên học cách yêu thương để thân thể trở thành đồng hồ đo đạc tình thương, để thân thể tỏa ra ánh sáng lương thiện sẵn có từ trong tâm hồn.
Những cảm xúc của đời người đều nằm trong hộp tối của tâm hồn. Mỗi một trạng thái tâm hồn đều là hiển hiện của tâm linh. Đó cũng chính là góc khuất của tâm tình mà người ta hay nói đến.
Con người mang tâm trạng tiêu cực trong một khoảng thời gian dài sẽ chiêu mời bệnh tật. Những người sợ hãi quá độ có thể dẫn đến việc bị các chứng bệnh thần kinh. Những người mang tâm oán hận lớn mạnh sẽ chiêu mời các loại tai họa.
2. Không nên khởi tâm oán hận
Phàm những người có tâm oán hận quá nặng thì vận mệnh phần lớn đều sẽ đau khổ bi thảm. Phàm những người hiền lành, khiêm nhường thì vận mệnh phần nhiều sẽ tốt lành. Sống theo đạo trời, một đời bình yên là vậy.
Tâm oán hận sâu nặng chính là căn nguyên của mọi khổ nạn trong đời, chúng ta hãy cố gắng loại bỏ nó. Khi chúng ta khởi sinh một niệm oán hận thì sau này thế nào cũng sẽ có người tức giận với chúng ta. Nếu ngày nào chúng ta cũng khởi tâm oán hận thì quả là phiền phức. Nó giống như nhiều rác rưởi tích tụ lại trong lòng vậy, tai họa trong đời ắt sẽ giáng xuống.

Những người luôn thích nóng giận sẽ luôn mắc bệnh. Chúng ta hãy tự nhắc nhở bản thân: “Mình không nên cứ luôn tức giận như thế!” Được vậy thì mọi thiếu sót của bản thân đều sẽ dần dần được hóa giải. Hãy nhớ rằng, nếu chúng ta thật sự học được cách sám hối thì nhất định có thể cải biến vận mệnh của mình.
Nếu chúng ta bớt nóng giận thì sau đó những việc khiến ta tức giận cũng sẽ ít đi. Đồng thời, người khác cũng sẽ ít chọc giận bạn hơn. Trường khí đen bẩn trong thân thể bạn tự nhiên sẽ giảm bớt đi, đau nhức trong thân thể cũng sẽ thuyên giảm đi rất nhiều. Vận mệnh đời người cũng sẽ theo đó mà phát sinh thay đổi.
3. Phải luôn học cách nhận thức bản thân
Đây là năng lực giác ngộ cá nhân vô cùng quan trọng. Ai có thể tìm ra được càng nhiều thiếu sót của bản thân thì năng lực giác ngộ của người đó càng mạnh. Người nào cứ mãi tìm kiếm khuyết điểm của người khác thì si mê của người đó càng sâu. Người tu Đạo không nhìn vào chỗ thiếu sót của người khác, mà chỉ nhìn vào chỗ thiếu sót của bản thân.

Vào thời thượng cổ, người người đều tu Đạo, người người đều tu tâm, con người thời đó hầu như đều có thể sống đến hơn trăm tuổi. Về điều này, trong “Hoàng Đế Nội Kinh” đều có ghi chép rõ ràng. Hiện tại, chúng ta phần nhiều đều sống không được thoải mái lắm.

Rất nhiều người hàng ngày đều đang bới tìm khuyết điểm của người khác, hễ gặp chuyện thì cứ luôn oán trách người khác mà không chịu nhìn lại bản thân mình. Nhiều người ngày ngày luôn nghĩ đến việc tranh đấu, tính toán sao cho hơn người khác. Họ không biết rằng tranh tới tranh lui cuối cùng đều chỉ là công dã tràng.
Tâm tình của con người có thể làm lợi muôn vật, thay đổi vạn vật. Tâm trạng của chúng ta có thể nuôi dưỡng sinh mệnh của chính mình. Tâm trạng rối bời thì thân thể sẽ mắc bệnh. Thân thể của chúng ta là đồng hồ đo linh hồn. Tiếc thay chúng ta ít khi nào hay biết, thật đáng buồn thay!

Trong bộ y kinh “Hoàng Đế Nội Kinh,” người xưa từ sớm đã vén mở những quy luật thân tâm đơn giản như sau: “Vui vẻ tổn thương tim,” “vui vẻ thì khí trì hoãn,” vui mừng quá độ thì không còn chút sức lực. “Giận tổn thương gan,” “giận thì khí sôi trào lên,” vậy nên người xưa có câu “giận dựng đứng cả tóc gáy”. “Buồn thì hại phổi,” “buồn thì tinh thần sa sút,” khóc đến bi thương cực độ, con người ta sẽ bị choáng. “Lo nghĩ nhiều tổn thương lá lách,” “nghĩ nhiều thì khí ứ đọng”. Hay như: “Lo sợ thì hại thận,” “lo sợ thì khí huyết tụt giảm.”

4. Biết rõ tính cách của bản thân chính là biết rõ bệnh tật của mình
Phàm là người dễ bị kích động, chẳng mấy ai có được trái tim khỏe mạnh. Mạch máu não thường cũng sẽ lưu thông không được tốt.
Phàm là người hay tức giận, rất dễ mắc các bệnh tuyến giáp trạng, gan cũng sẽ không được tốt.
Phàm là những người thích phân cao thấp, không chịu nhận thua, phần nhiều xương cổ không được tốt.
Phàm là những người nhát gan sợ sệt, thận thông thường sẽ không được tốt.
Phàm là những người hay đa nghi, thường có vấn đề về tuyến tụy.
Phàm là những người không có chủ kiến, đầu óc thường hay mơ hồ.
Phàm là những người hay tức giận trong lúc làm việc, thường có vấn đề xung quanh bờ vai.
Phàm là những người mà con cái không nghe lời, thường thường có vấn đề nơi các khớp chân.
Phàm là những người chăm chỉ nghiêm túc, phần đông trông khá là gầy gò.
Phàm là những người nhận được thì cứ nhận, thích tích cóp từng chút một, không có tinh thần cầu tiến, rất dễ bị béo phì.
Phàm là người hay lo lắng, tim dễ đập mạnh, phần nhiều mắc bệnh cao huyết áp.
Phàm là người sợ áp lực, phần nhiều dễ mắc chứng huyết áp thấp.
Phàm là những người đặc biệt thích sạch sẽ, da dẻ thường không được tốt, tỳ vị cũng không được khỏe.
Phàm là người đau khổ quá độ, phần nhiều tuyến tụy không được tốt, lưng cũng không được tốt, rất dễ có cảm giác nhức mỏi.
Phàm là người hay buồn bực, phần nhiều dễ bị ngứa ngáy trên người.
Phàm là những người cảm thấy đời người quá gian nan, thường thường khi đi đứng hành động cảm thấy đặc biệt khó khăn.
“Tướng” do tâm sinh, “bệnh” do tâm khởi, vậy nên các loại bệnh tật, suy cho cùng đều là do tâm thái dẫn khởi cả! Muốn cải biến cơ thể, đổi thay vận mệnh, đừng chỉ tập trung vào biểu hiện bề ngoài. Uống mười thang thuốc chẳng bằng cười một nụ cười sảng khoái. Thay đổi thái độ, nghĩ tích cực hơn, sống an lạc, nhẹ thân tâm, đạo trường sinh chẳng phải đó sao?

BS Nguyễn Thị Nhuận

Có nên uống 'vitamin tổng hợp' mỗi ngày?

Năm 1912, nhà bác học người Ba Lan ( Poland), Casimir Funk (1884-1967), tạo ra danh từ “vitamine” để gọi một chất mà ông khám phá có thể chữa bịnh beri-beri trong gạo lứt, chưa xay thành gạo trắng. Trước đó, ông đọc công bố của một bác học Hoà Lan nhận xét rằng người ăn gạo lứt ít bị bịnh beri-beri hơn người ăn gạo đã xay thành gạo trắng. Beriberi là một bịnh gồm những triệu chứng thần kinh như đau nhức tay chân, yếu cơ, triệu chứng thần kinh, triệu chứng hệ tuần hoàn, tim đập nhanh, tim lớn, phù thũng (phù nề) đi đến suy tim và chết. Bịnh này từng được mô tả hàng ngàn năm ở châu Á. Đến cuối thế kỷ thứ 19, beri- beri trở thành phổ biến hơn sau khi người ta càng ngày càng xử lý lúa gạo thành gạo trắng thay vì chỉ dã thô sơ thành gạo lứt như trước đây. Trong vitamin, “vita” là đời sống, amine vì trong chất ông khám phá có nhóm amin. Chất mà Funk tìm ra đầu tiên và tưởng là chống beri beri thật ra là chất niacin (vitamin B3), và sau này chất vitamin giải quyết được bịnh beri-beri mới là chất thiamine, gọi là vitamin B1. Ông cũng đưa ra giả thuyết là sẽ có những vitamin trị
- bịnh rickets, hay “còi xương” và co giật, sau này được khám phá là do do thiếu vitamin D,
- bịnh ngoài da pellagra, cùng với các triệu chứng: tiêu hoá như tiêu chảy, lở miệng; rối loạn tâm trí; sau này được khám phá là do do thiếu niacin hay Vitamin B3,
- và bịnh scurvy: lở miệng lở nướu răng, chảy máu ngoài da, đau nhức, yếu tay chân, vết thương khó lành; sau này được khám phá là do do thiếu chất vitamin C (ascorbic acid) thường thấy trong trái cây tươi.
Ý niệm vitamin là những chất tối cần thiết cho sức khỏe của cơ thể là một "cách mạng" trong y khoa thời đó, lúc mà quan niệm thịnh hành là bịnh tật do vi trùng gây ra và cơ thể chỉ cần 4 yếu tố chính: protein, đường và tinh bột (carbohydrate), mỡ và các chất khoáng (minerals).
Sau đó những vitamin khác được khám phá. Năm 1912, nhà hoá học người Anh tên Frederick Gowland Hopkins khám phá trong sữa những chất giúp cho chuột tăng trưởng. Sau đó người ta cô lập được các chất này và đặt tên là “vitamin A”. Hopkins được giải Nobel Y khoa năm 1929. Những chất beta-carotene/carotenoid trong thực phẩm như cà rốt, rau xanh, các trái có màu vàng, đỏ (đu đủ, cam, dưa hấu, bí rợ) được cơ thể biến đổi thành vitamin A. Vitamin A tan trong mỡ và 80-90% tích trữ trong gan, cho nên người không hấp thụ mỡ hay người bịnh gan có thể thiếu Vitamin A. Vitamin A cần cho sức khoẻ các tế bào thị giác trong võng mô (retina). Vitamin A cần cho tổng hợp chất rhodopsin phụ trách tiếp nhận ánh sáng. Người thiếu vitamin A có thể bị bịnh quáng gà (không nhìn thấy rõ ban đêm, night blindness); khô mắt và lở loét, có thể gây mù. Người Đông, Nam Châu Á nếu chỉ ăn cơm mà không có rau, hoa quả dễ bị thiếu vitamin A vì gạo không chứa chất beta-carotene hay carotenoid là tiền thân của vitamin A.
Vitamin A được dùng nhiều trong các bịnh ngoài da.
Trẻ em bị ban đỏ cần được cho 2 liều cao vitamin A (cách 24 giờ) để bịnh lành nhanh hơn và giảm tỷ lệ tử vong. Con của phụ nữ HIV(+) cần được cho vitamin A (50.000 IU) trong vòng 48 giờ sau khi mới sanh.
Một vitamin mà người Việt thích dùng trong mấy chục năm qua là vitamin B12. Khoảng thập niên 1970, bịnh nhân thích đến phòng mạch yêu cầu được chích một mũi "B douze" (tiếng Pháp : vitamine B12) “cho khoẻ”. Từ thế kỷ thứ 19, bác sĩ người Anh Addison từng mô tả bịnh "pernicious anemia' (bịnh thiếu máu ác tính) gồm bịnh thiếu máu, viêm lưỡi, tê tay chân (dị cảm, paresthesia) và đi đứng không vững và thiếu acid trong dạ dày. Sau này người ta nhận xét cho bịnh nhân ăn gan chữa được một số trường hợp pernicious anemia nhưng không hiểu chất trong gan làm khỏi bịnh là chất gì. Mãi đến năm 1948, Karl Folkers và cọng sự tại công ty dược phẩm Merck, và nhóm của E Lester-Smith tại Glaxo mới cô lập được tinh thể chất này và gọi nó là vitamin B12. Đến năm 1971, Robert Woodward (Nobel 1965) tổng hợp được vitamin B12 (cyanocobalamin). Bịnh pernicious anemia có thể gây chết người nay được giải quyết bằng vài mũi chích vitamin B12. Tuy nhiên hiện nay bác sĩ ít khi chích thuốc này ở người bình thường, "cho khoẻ" như ở VN trước đây. Thuốc uống vitamin B12 trung bình 1000 microgram/ngày. Chỉ một phần B12 rất nhỏ được hấp thụ qua ruột nhưng cũng đủ tác dụng..
Những câu hỏi của vị thính giả về vitamin
- mọi người có cần hay có nên uống vitamin tổng hợp đó mỗi ngày hay không?
- làm sao mình biết được bản thân mình thiếu vitamin loại gì để uống đúng loại vitamin đó?
- làm sao nhận biết được hiệu quả sau khi uống vitamin?

Chưa có câu trả lời dứt khoát căn cứ trên bằng chứng khách quan khoa học và là những lãnh vực gây tranh cãi trong giới y học. Một khảo cứu năm 1988 cho thấy y bác sĩ chỉ biên toa hay khuyến cáo bịnh nhân dùng Multivitamin trong 1% các lần thăm khám bịnh. Nhiều nhất là các bác sĩ “primary care” trong những lần khám sức khỏe tổng quát mà thôi.
Chúng ta chỉ bàn đến một số điểm chính mà thôi.
1) Nếu hiểu "vitamin tổng hợp" là những loại thuốc thường gọi là "multivitamin/mineral supplements" (MVM) chứa từ >3 vitamin hay khoáng chất khác nhau, mỗi năm có chừng 1/3 người Mỹ dùng MVM, chi phí chừng 6 tỷ đô la, nghĩa là rất nhiều người dùng loại thuốc này. Chi phí cho MVM chiếm hết 1/6 các chất "bổ sung dinh dưỡng " (nutritional supplements") mà chúng ta có thể gọi là “thuốc bổ” dùng ở Mỹ.
Nói chung, dùng MVM phổ biến hơn ở phụ nữ (nhiều hơn nam giới), tầng lớp khá giả, có học thức, có nếp sống lành mạnh (như ăn uống điều độ, không mập, thể thao đều đặn), và con cái những người dùng MVM.
2) Thường những MVM này, uống 1 viên/ ngày chứa các chất khác nhau ở mức tương đương, hoặc xấp xỉ với các mức gọi là "giá trị hàng ngày" hay Daily Values (DVs), Lượng được khuyến cáo trong chế độ ăn uống" Recommended Dietary Allowances (RDAs) hay " Lượng ăn phù hợp" Adequate Intakes (AIs). Chất nào được lựa chọn vào thành phần viên thuốc là tùy theo nhà sản xuất, tuỳ theo thành phần người tiêu thụ mà họ nhắm vào như trẻ em hay người lớn, phái nam nay nữ, người lớn tuổi, người có thai có nhu cầu khác nhau.

3) Một số MVM có chứa một số chất ở mức thật cao so với RDA, DA, cao hơn cả mức tối đa an toàn được khuyến cáo, gọi là UL (Upper Limits) kèm theo một số chất đặc biệt hay dược thảo.

4) Một số viên thuốc được chế biến để nhắm vào một mục tiêu nào đó: specialized MVM , ví dụ tăng "sinh lực" (energy) cho đàn ông, giảm các triệu chứng thời tắt kinh của phụ nữ, "bổ mắt", giúp sức khỏe tuyến tiền liệt, vv. Có thuốc chứa các chất probiotic để "cải thiện" hệ miễn nhiễm, các hormon thực vật sterols, coenzyme Q10 (hy vọng tăng sinh lực, bớt mệt mỏi) . Một số thuốc gọi là "chống oxy-hoá" (antioxidant) có thể chứa các chất vitamins C, E, selenium, và beta-carotene ngoài các vitamin thông thường và khoáng chất.
Có thể uống 2-3 viên/ngày, thay vì 1 viên mỗi ngày.
Nói tóm lại các "specialized MVM" nay thay đổi theo từng nhà sản xuất, đa số không có bằng chứng khoa học được y khoa chính thống công nhận, nhưng vẫn được người tiêu dùng tin cậy , tin tưởng theo lời quảng cáo, hay theo khuyến cáo của bác sĩ, hay chuyên viên về sức khoẻ, các người hướng dẫn trên các báo chí, internet nói về y học phổ thông.
5) Ở Mỹ, chừng 3/4 dân số được cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng trong thức ăn uống hàng ngày và không cần phải uống thêm MVM. Tuy nhiên những chất như vitamin E, potassium, calcium có thể thiếu trong một số người và các viên MVM có thể bảo đảm cho nhu cầu các chất này. Uống MVM cũng kèm theo cái cơ nguy nhỏ là mình uống một số chất quá nhiều. Những người uống MVM có thể được cung cấp quá nhiều vitamin A, chất sắt (Fe) và niacin. Một điểm khá thú vị là những người uống MVM hàng ngày có khuynh hướng uống các loại viên vitamin riêng-rẻ khác (như vitamin B, C, D) kèm theo, hoặc trong thức ăn uống của họ cũng đã có vitamin đầy đủ rồi, cho nên họ có khuynh hướng dư thừa vitamin. Trong lúc đó, những người không uống multivitamin lại thường có tình trạng dinh dưỡng kém hơn và lại có khuynh hướng thiếu một số vitamin cần thiết.
Đối với trẻ em dưới 4 tuổi ở Mỹ, đa số đạt nhu cầu qua thức ăn uống, tuy có thể thiếu chất sắt, zinc ở các trẻ nhỏ, vitamin E và potassium ở một số trẻ lớn hơn. Ngược lại trẻ uống MVM có khuynh hướng dư thừa vitamin A, folic acid và zinc.
Có những khảo cứu trên nhiều năm đưa đến kết luận MVM làm giảm cơ nguy ung thư và tử vong ở người dùng (nam giới, nhưng nữ giới thì không) ở Pháp; giảm tiểu đường sau 4 tháng dùng MVM với zinc 24mg/ngày ở Sri Lanka; giảm thoái hoá võng mô ở người dùng MVM với hàm lượng cao các chất vitamin C (500 mg), vitamin E (400 international units [IU]), beta-carotene (15 mg), zinc (80 mg), copper (2 mg). Tuy nhiên đa số các khảo cứu lớn không đi đến kết luận nào dứt khoát về khả năng làm giảm tỷ số bịnh tim mạch, bịnh tiểu đường, ung thư hay loãng xương.
Trả lời câu hỏi của vị thính giả, nếu quan niệm MVM như là một phương tiện "bảo hiểm" chung chung để mình không thiếu những chất dinh dưỡng thông thường, có lẽ loại MVM theo các RDA tương đối hợp lý, có thể chọn theo nhóm đàn ông , phụ nữ, người cao tuổi, nam hay nữ, phụ nữ có thai. Các MVM "chuyên khoa", cần phải chọn theo nhu cầu hoàn cảnh riêng của mình.
Nhân dịp chúng ta bàn về các viên multivitamin, xin nhắc lại ở đây vài điểm sau:
1) Multivitamin cung cấp một số chất dinh dưỡng mà chúng ta không được cung cấp đầy đủ trong thức ăn uống. Ví dụ người ta thấy phần đông người Mỹ ăn không đủ calcium, potassium, vitamin D và vitamin B12.
2)Tuy nhiên, đừng tin cậy quá nhiều vào những lời quảng cáo, nhà bào chế có thể gợi ý là thuốc của họ chữa bịnh này bịnh nọ, nhưng họ không nói trắng ra vì FDA không cho phép vì không có bằng chứng cho các chất thuốc bổ "nutritional supplements". Tuy nhiên FDA không trực tiếp quản lý (regulate) các loại thuốc bổ này nên người tiêu thụ cần tìm hiểu để đừng bị lường gạt.
3) Nên uống đều đặn, nhưng coi chừng uống nhiều thứ cùng một lúc có thể chồng chéo lên nhau. Không phải càng nhiều càng tốt. Ví dụ uống quá nhiều vitamin A có thể gây tật bẩm sinh (birth defect) nếu người phụ nữ có bầu. Trên 50 tuổi nam cũng như nữ thường không cần uống thêm chất sắt.
4) Ăn những thức ăn tươi, lành mạnh, đa dạng vẫn là nguồn dinh dưỡng tốt nhất.

5) Những người có cách ăn uống riêng như ăn chay, không uống sữa, ăn kén, ăn ít để sụt cân nên tìm hiểu xem trong thực đơn mình thiếu những chất gì. Ví dụ người không uống sữa, ăn bơ, phô-mai (dairy products) có thể cần uống thêm Calcium và vitamin D.
6) Phụ nữ đang tuổi có thể có con cần được cung cấp đầy đủ chất folic acid (một loại vitamin B) tìm thấy trong lentils, peas, rau xanh đậm (dark green vegetables, ví dụ: broccoli, spinach, collard or turnip greens, okra, and asparagus). Thiếu folic acid làm hệ thần kinh bào thai phát triển không bình thường ( khuyết tật do ống thần kinh / neural tube defects). Từ 1998, ở Mỹ FDA khuyến cáo cho thêm folic acid vào bánh mì và cereal. các thuốc như Centrum for women có chứa chất này đủ theo mức khuyến cáo là 400 microgram/ ngày. Các thuốc bổ dành cho các bà có bầu (prenatal pills) chứa gấp đôi số lượng trên , là 800 microgram/ ngày.
6) Người hút thuốc và, có thể, những người hút thuốc trước đây nên tránh các sản phẩm MVM cung cấp một lượng lớn beta-carotene hoặc vitamin A vì hai nghiên cứu đã liên kết các chất dinh dưỡng này với sự gia tăng nguy cơ ung thư phổi ở người hút thuốc. Trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (randomized controlled trial), những người hút thuốc ở nam Phần Lan (Finland) dùng bổ sung beta-carotene (20 mg / ngày) có tỷ lệ ung thư phổi cao hơn 18% so với những người hút thuốc dùng placebo (giả dược) trong 5-8 năm theo dõi. Trong một nghiên cứu khác, những người hút thuốc, người hút thuốc trước đây và những người phơi nhiễm amiăng (asbestos) dùng kết hợp [beta-carotene 30 mg / ngày + vitamin A (retinol) 25.000 IU / ngày] có nguy cơ ung thư phổi tăng 28% sau thời gian theo dõi trung bình 4 năm, so với những người tham gia dùng placebo (giả dược).
7)Thường thuốc MVM không can thiệp với các thuốc khác. Ngoại lệ quan trọng, nếu bạn uống thuốc để làm máu khó đông hơn (chống đông máu, anticoagulant, “blood-thinner”) ví dụ như warfarin (Coumarin), không nên uống thuốc MVM có chứa vitamin K vì vitamin K sẽ đi ngược tác dụng các thuốc này. Cần hỏi bác sĩ vì liều warfarin tuỳ thuộc vào lượng vitamin K được bịnh nhân tiêu thụ.
8) Acid trong dạ dày cần cho việc "giải phóng" B12 từ thức ăn; 10-30% những người trên 50 tuổi, người uống thuốc ức chế bơm proton (proton pump inhibitor/PPI) như Prilosec (omeprazole) vì ợ chua, xót dạ dày, có thể thiếu acid và hấp thụ B12 kém. B12 chỉ có trong thực phẩm động vật (thịt, cá, trứng sữa). Vitamin B12 trong các viên MVM hay từ các thực phẩm chế biến có thêm B12 có thể được hấp thụ khá tốt ở những người thiếu acid dạ dày.
Cần thêm chất intrinsic factor của dạ dày sản xuất kết hợp với Vitamin 12 thì ruột non mới hấp thụ Vitamin B12 vào máu được. Những người bị bịnh thiếu máu ác tính vì tế bào dạ dày của họ bị hư hại do một bịnh tự miễn nhiễm. Người bị cắt dạ dày hay thu hẹp dạ dày để xuống cân có thể thiếu vitamin B12.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Thuốc tenofovir và adefovir

Hôm nay chúng ta bàn đến thuốc tenofovir và adefovir. Thuốc tenofovir (tên thương mại: Viread) được cơ quan quản trị thuốc của Hoa kỳ là FDA chấp thuận (2008) để chữa những trường hợp viêm gan.
Thuốc được dùng để trị bịnh viêm gan B mãn tính cho người trên 12 tuổi (cũng như cho người nhiễm HIV, cho trẻ em bịnh HIV từ 2 tuổi trở lên). Tenofovir thuộc nhóm “NA”= “Nucleotide/ or nucleoside analog reverse-transcriptase inhibitors”, gồm lamivudine, adefovir, tenofovir, entecavir, etc.
Các virus như HBV, HIV chỉ gồm có một bộ gen (DNA hay RNA) và một cái bọc bên ngoài (capsid) tương tự như màng tế bào mà chúng tấn công. Chúng có khả năng vào một số “địa điểm thụ thể” nào đó (specific receptor sites) trên một loại tế bào nào đó, nói một cách khác mỗi virus gây bịnh có “chìa khoá” riêng để vào tế bào đó. Ví dụ virus bịnh liệt kháng HIV thì tấn công các tế bào hệ miễn nhiễm (bạch cầu, tế bào lympho); virus HBV thì có khả năng "mở khoá" đi qua màng tế bào gan. Khi đã mở cửa, virus đẩy bộ gen (genome, DNA hay RNA) của mình vào trong tế bào người bịnh, và giành quyền kiểm soát của bộ gen tế bào người bịnh để phục vụ vào việc sinh sản (tạo nên những nhân bản mới, replication) của virus. Những virus mới sinh sản được tế bào gan đẩy ra ngoài đi nhiễm vào các tế bào khác hoặc tế bào bị phá vỡ và phân tán các virus qua tế bào khác.
Thuốc tenofovir tác dụng bằng cách ngăn chặn một men (enzyme) của siêu vi HBV hay HIV (reverse transcriptase inhibitor of HBV and HIV), không cho virus sinh sản. Men này không hiện diện (tồn tại) trong tế bào gan bình thường.
Các cảnh báo cho người dùng thuốc gồm có:
1) khả năng bị nhiễm acid lactic (lactic acidosis). Mệt mỏi, nhức, đầu, buồn ngủ có thể là dấu hiệu của lactic acidosis.
2) ảnh hưởng cơ năng của thận (nephrotoxicity). Thuốc tenofovir được thải qua các ống gần (proximal tubules) của thận, nên nếu lượng thải ra quá lớn có thể gây tổn thương cho thận. Tác dụng hại này thấp (low risk) nhưng có thể trở nên quan trọng.
Bác sĩ theo dõi cơ năng thận (kidney function), nếu cơ năng thận yếu, có thể, thay vì uống tenofovir mỗi ngày (người lớn), có thể uống 2-3-7 ngày một liều.
3) bịnh gan có thể nặng thêm (exacerbation of hepatitis) sau khi ngưng thuốc. Phản ứng phụ xảy ra thường nhất là buồn nôn, ói mửa (9%, theo nhà sản xuất).
Phân tử adefovir (ADV, được FDA chấp thuận năm 2013) và tenofovir (TDF, tenofovir disoproxil fumarate) tương tự như nhau, chỉ khác ở một phần nhỏ. Cho nên trong phòng thí nghiệm, những siêu vi có đột biến kháng với ADV có thể cũng kháng với TDF. Tuy nhiên trên các khảo cứu lâm sàng (trên bịnh nhân), những trường hợp kháng với ADV vẫn có kết quả tốt (kiểm soát được sự sinh sản /replication của siêu vi HBV) đối với TDF. Bác sĩ cũng có thể dùng thuốc khác như entecavir, có thể kết hợp (combination therapy) tenofovir với entecavir hay lamivudine.
Theo cơ quan Y Tế Quốc Tế WHO: Tất cả bịnh nhân trên 12 tuổi, nếu bác sĩ thấy cần được chữa trị HBV mạn tính, bắt đầu chữa (first line therapy) bằng tenofovir hay entecavir, là những “NA” [“Nucleotide/ or nucleoside analog reverse-transcriptase inhibitors”] với khả năng lờn thuốc thấp hơn. Entecavir được khuyến khích dùng cho bịnh nhân 2-11 tuổi. Lamivudine, adefovir, telbuvidine dễ bị virus HBV lờn thuốc nên không được khuyến khích dùng (not recommended).
Về mặt hữu hiệu kinh tế, theo một khảo cứu phân tích về giá cả, đối với một người binh HBV Trung Quốc chữa bằng entecavir (ETV) là có giá trị kinh tế hơn cả, không quá đắt nhưng có kết quả tốt hơn các thuốc lamivudine (LAM), adefovir (ADV), telbivudine (LdT). Dùng tenofovir thì kết quả sẽ còn tốt hơn nữa, "đáng đồng tiền bát gạo" nhất (most cost effective), nhưng vẫn quá đắt so với túi tiền (lợi tức đầu người trung bình) của người Trung quốc (Ke and al).
Tóm lại, bịnh nhân nên theo hướng dẫn của bs đang theo dõi thường xuyên cho mình. Mong những thông tin này có thể giúp ích cho thính giả ý thức nhiều hơn về những trị liệu của mình và cộng tác với bác sĩ của mình tốt hơn.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Vết đen dưới móng chân

Móng tay chân người tương đương với móng vuốt ở thú vật và cấu tạo bởi chất alpha keratin, một protein cứng và bền bỉ. Ở phía gốc móng (nail root) và nằm phía dưới móng có bộ phận matrix chứa các mạch máu, dây thần kinh và mạch lympho. Matrix là nơi sản xuất các tế bào tạo nên móng. Lunula (“mặt trăng nhỏ”) là phần hình lưỡi liềm nằm ở gốc móng (nail root) nhìn từ trên xuống; đây là phần matrix mà nhìn thấy được từ bên ngoài. Matrix là nơi xuất phát các tế bào ung thư hắc tố (malignant melanoma). Lúc bác sĩ làm sinh thiết (biopsy), người ta sẽ cắt da ở gốc móng, cắt phần móng ở dưới da, và lấy một miếng mô từ matrix này.
Đây là một trường hợp cần bác sĩ khám trực tiếp. Sau đây chỉ là một số nhận xét tổng quát:
1) Móng tay chân lõm xuống (koilonychia) có thể là dấu hiệu của bịnh thiếu máu hay bịnh hemochromatosis (nhiễm sắc tố sắt mô, do ăn quá nhiều chất sắt hoặc do bịnh thiếu máu bẩm sinh). Nếu móng đều lõm đồng loạt, có thể nhờ bác sĩ xem có bị thiếu máu (anemia) hay không.
2) Một vết đen 1-2mm dưới cuticle, là phần da trong và bóng ở gốc móng của ngón chân cái, có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nếu ngón chân vừa bị chấn thương gần đây, có thể đây là một khối máu chảy dưới móng chân, máu bầm nên chuyển qua màu đen. Với thời gian vài tuần, vết đen sẽ được đẩy về phía trước và dần dần biến mất sau vài tháng.
3) Một khả năng khác là các tế bào hắc tố xuất hiện thành khối u gọi là melanoma. U này có thể là hiền tính nhưng nói chung khi dùng từ “melanoma” riêng rẻ, ý nói là u ác tính (malignant melanoma). Melanoma bàn tay hay bàn chân rất hiếm.
4) Có những điểm sau đây để đánh giá từng trường hợp có phải là subungual melanoma (SM) ác tính hay không:
A: age and race. tuổi: người bịnh có thể từ 20-90 tuổi; nhưng thường gặp nhất là thập niên thứ 5 và thứ 7. Melanoma bàn tay hay bàn chân rất hiếm. Incidence chừng 1/100,000 người/năm. Subungual melanoma (SU) hiếm, chỉ xảy ra 0,7%-3,5% trong các trường hợp bịnh nhân bị melanoma (incidence). Người "da màu" (da vàng, da đen, "Da Đỏ" ở Mỹ), nói chung ít bị melanoma ác tính hơn người da trắng. Tuy nhiên đối với người châu Á mắc bịnh melanoma, hết 10-30% là dưới móng tay chân. Điểm này có ý nghĩa, vì do nằm dưới móng nên hay bị nhầm lẫn với các bịnh nhiễm trùng nấm, các vết thương của ngón tay ngón chân làm máu bầm đọng dưới móng. Ngoài ra, còn có loại melanoma ác tính nhưng lại không có hắc tố (amelanotic melanoma), trong 7% các melanoma ngoài da, nhưng đến 20%-30% cho SM dưới móng tay chân.
B: brown or black. Màu đen hay nâu, nếu lớn hơn 3mm hay có nhiều sắc màu ngoài bờ (variegated border) thì đáng nghi hơn.
C: change/ thay đổi: màu đậm hơn, cỡ to thêm, vệt sáng chen với vệt tối
D: digit. Ngón tay cái, ngón trỏ bên tay thuận (thường là tay phải), ngón chân cái dễ bị SM hơn. Nếu là nhiều ngón cùng một lúc, khả năng ung thư thấp hơn.
E: Hutchinson sign. Dấu hiệu Hutchinson, vết đen lan vào lớp cuticle và nếp da chung quanh móng.
F: Family: Trong gia đình đã từng có người thân bị u bướu hắc tố ác tính hay loạn dưỡng hay không.
Nói tóm lại, ở người 18 tuổi, mạnh khoẻ, một vết đen dưới móng ít đáng nghi ngờ ác tính hơn ở người 50-70 tuổi. Nhất là người Á châu ít bị melanoma hơn người da trắng, mặc dù một khi đã bịnh thì dễ bị ở móng tay, móng chân hơn. Khả năng chúng ta có thể nghĩ đến đầu tiên ở lứa tuổi này là chảy máu cũ dưới móng chân. Đợi chừng vài tuần nếu điểm đen này di chuyển từ từ ra phía ngoài thì đúng. Nếu không, khả năng kế tiếp mà bác sĩ cần nghĩ đến cho một người thanh thiếu niên 18 tuổi là nốt ruồi lành tính nằm dưới móng (melanocytic nevus)
Nốt ruồi nevus hay SM ác tính với thời gian sẽ mọc thành một vệt đen hay nâu dài chạy từ gốc móng (matrix, mầm) ra đến bờ móng (longitudinal melanonychia). Lúc đó, bác sĩ phải quyết định xem có nên là sinh thiết của matrix móng để quyết định đây là loại u bướu gì.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Hội chứng mệt mỏi mãn tính (CFS)

Hội chứng mệt mỏi mãn tính (CFS, chronic fatigue syndrome; systemic exertion intolerance disease (SEID)) nếu hội được ít nhất 4 trong các triệu chứng sau (cũng trên 6 tháng):
1. trí nhớ, khả năng tập trung giảm
2. đau họng (sore throat)
3. hạch đau ở nách và cổ (tender lymph nodes)
4. đau cơ bắp
5. đau nhiều khớp xương
6. nhức đầu mới xuất hiện
7. ngủ dậy không thấy khỏe khoắn (unrefreshing sleep)
8. vận động, thể dục xong lại càng thấy khó chịu thêm (post exercise malaise)
Nếu không có những triệu chứng kèm theo, người ta xếp vào loại “chứng mệt mỏi mãn tính vô căn” (idiopathic chronic fatigue), nghĩa là không biết lý do.
Nguyên nhân gây ra CFS chưa được hiểu rõ lắm. Trước đây người ta cho rằng bịnh do trước đó bịnh nhân bị nhiễm một siêu vi như Epstein Barr virus, và sự điều hòa hệ miễn nhiễm bị rối loạn (immune dysregulation mechanism).
Các nhà tâm lý học thì nhận thấy rằng bịnh nhân trong quá khứ (thời thơ ấu) thường có những biến cố làm tổn thương tâm lý (childhood trauma) hoặc những bịnh tâm lý (psychopathology) làm não bộ người bịnh trong trạng thái nhạy cảm một cách bất bình thường với các yếu tố gây stress (stressors).
Về sinh học, người ta cũng nhận thấy cơ thể của bịnh nhân có thể đối phó với các stress một cách bất bình thường. Ví dụ, lúc bị stress, hypothalamus trong não bộ kích thích tuyến yên (bằng hạt đậu dưới não bộ, pituitary gland), tuyến yên kích thích tuyến thượng thận (trong bụng, trên hai trái thận) để tiết ra chất cortisol, vì một cơ chế, có thể mức hoạt động cortisol thấp hơn ở người bịnh CFS (hypocortisolism). Tuy nhiên, trong khảo cứu thực tế người ta dùng corticoid để trị CFS nhưng không có kết quả rõ rệt.
Chữa trị:
Bịnh CFS khó chữa dứt và cần nhiều bác sĩ, chuyên viên can thiệp: bs gia đình để giải quyết những vấn đề như trị đau nhức, điều hoà áp huyết, giải thích các triệu chứng cho bịnh nhân hiểu, ít nhất thì người bịnh biết mình không bị một bịnh gì ghê gớm đe dọa mạng sống, khuyến khích người bịnh tiếp tục các hoạt động nghề nghiệp, thường ngày.
Không nên nghĩ rằng CFS sẽ dai dẳng suốt đời; một cuộc sống ít căng thẳng, ít stress thường đi đôi với kết quả phục hồi tốt hơn. Cũng như một biến cố stress nào đ1o có thể gắn liền với thời gian trước khi bịnh khởi phát.
Bác sĩ cần lắng nghe để động viên tinh thần, không khoát tay cho rằng bịnh nhân tưởng tượng ra bịnh, làm bịnh nhân chán nản.
Có thể cần bác sĩ tâm thần để trị những bịnh đi kèm như trầm cảm (depression) nếu có.
Cognitive behavioral therapy — CBT: Chuyên viên tâm lý dùng tâm lý trị liệu pháp (psychotherapy, nếu người bịnh thấy hứng thú) để thay đổi nhãn quan (perceptions), hành vi (behavior) của người bịnh. Ví dụ cách nhận thức về cuộc sống, về các khó khăn cuộc sống có thể không đúng với thực tế và làm cho người bịnh thấy mình bị nhiều cái “khổ”, nhiều “khuyết điểm” hơn là mình có thật sự, và do đó với khuynh hướng cầu toàn (perfectionist) cố gắng quá sức mình để “đạt tiêu chuẩn” do chính mình đặt ra, lại càng làm đuối sức mệt mỏi thêm.
Coenzyme Q10 (CoQ10) là một chất bổ sung chống oxy hóa (antioxidant supplement) phổ biến với các tác dụng bảo vệ tim mạch và lợi ích chống ung thư tiềm ẩn (300mg/day). Các Coenzyme C10 có khả năng chống oxy- hoá.
Trong quá trình chuyển hoá, các gốc hữu cơ tự do (free radical, có số điện tử lẻ) được phóng thích và làm hư hại tế bào, các chất chống oxy-hoá tác dụng ngược lại và che chở cho tế bào. Có một số khảo cứu cho thấy Coenzyme C10 cọng với nicotinamide adenine dinucleotide (NADH) giúp cải thiện CFS. NADH có bán trên thị trường như là chất phụ trợ dinh dưỡng (tên NADH, Nicotinamide, etc).
Một số tác giả cho rằng bịnh CFS có thể gây ra do nhiễm một vi khuẩn tên Chlamydia pneumoniae, một loại vi khuẩn gây bịnh sưng phổi có ít triệu chứng và làm ho kéo dài, nhưng sau đó đặc biệt sống và sinh sản trong tế bào người bịnh suốt đời, tổn hại các mitochondria, làm giảm nguồn năng lượng ATP, gây ra triệu chứng mệt mỏi và đau nhức mãn tính. Thử máu đo kháng thể chống C. pneumoniae có thể dương tính, và có thể tăng lúc bịnh nhân có nhiều triệu chứng. Tuy nhiên vì màng tế bào của Chlamydia không bình thường, cơ thể có thể không sản xuất kháng thể ở mức đo được, mặc dù Chlamydia hiện diện trong tế bào người bịnh. (Một species khác của Chlamydia, C. trachomatis, gây ra bịnh nhiễm trùng đường sinh dục, là nguyên nhân phổ biến nhất trong các bịnh "phong tình"). Theo thuyết này, bác sĩ sẽ dùng kháng sinh như doxycycline trong nhiều tuần lễ, kèm theo azithromycin, nếu triệu chứng giảm thì có thể là chỉ dấu của nguyên nhân bịnh.(Tovey, 1)
Một chứng khác có thể liên hệ đến bịnh này là bịnh fibromyalgia (“đau mô xơ” và cơ bắp; fibro=xơ, myo= cơ, bắp thịt; algia= đau), thường đàn bà dưới 50 tuổi, cũng có những triệu chứng tương tự: mệt mỏi, đau bắp cơ, đau khớp, tê tay chân, thử nghiệm, chẩn đoán hình ảnh không thấy gì bất bình thường. HC CFS và fibromyalgia khó phân biệt. Hai loại bịnh nhân này cũng đi khám bịnh nhiều và vì bs không tìm ra test gì bất bình thường, bác sĩ cũng như bịnh nhân thấy chán nản, bực bội.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Monday, August 6, 2018

Rối loạn lo âu xã hội - Social Anxiety Disorder (SAD)

Theo định nghĩa, người bịnh SAD cảm thấy rất lo âu khi họ tiếp xúc với người khác không phải là người thân thuộc, vì họ e sợ rằng nếu họ nói hay làm một việc nào (động thái), họ sẽ bị chê bai, phê bình làm họ phải xấu hổ. Mức lo âu này mạnh đến mức mà họ không thể làm một số việc đáng lẽ cần làm. Ví dụ có những người không dám đi dự các party, hay dự buổi họp, đến bắt chuyện với người lạ, hay đi lên gặp ông chủ. Đấy là những trường hợp lo âu xã hội chung hay tổng quát (generalized SAD). Một số trường hợp bịnh chỉ giới hạn vào tình huống mà họ phải nói, trả lời trong lớp học, xuất hiện trước một buổi tiệc, phát biểu ý kiến trước công chúng. Đấy là những trường hợp SAD giới hạn, không tổng quát (non-generalized SAD (DSM4); nay “performance only SAD” (DSM5)) . Người bịnh ngại "biểu diễn" hay làm một việc gì, trổ tài trước nhiều người, nên còn gọi là "performance anxiety" ( "lo âu lúc biểu diễn").
Một số trẻ em mắc chứng loại này và hay bị phạt oan. Chúng không nói được lúc gặp người ngoài gia đình. Ví dụ bố mẹ dắt đi thăm nhà bạn bè, biểu em chào thì em nhất định ngậm miệng. Vào lớp cô thầy hỏi thì nhất định không trả lời, nhưng viết hay vẽ để diễn tả thì vẫn tốt. Các em có thể bị kết tội bướng bỉnh, cứng đầu, có khi bị đánh đập. Thật ra chúng không muốn như vậy, nhưng mắc bịnh lo âu (anxiety disorder), biểu hiện bằng chứng gọi là "bịnh câm chọn lọc", không nói được trong một số tình huống xã hội chọn lọc (selective mutism).
Trong cách nói thông thường , chúng ta thường mô tả những người này là rụt rè (shy, timid), hoặc những người tránh tiếp xúc với người khác (sợ bị chọc, nhạy cảm quá mức với những nhận xét không tích cực từ người khác, nói chung là "nhát"- từ chuyên môn là "avoidant personality disorder"= rối loạn cá tính [tìm cách ] lẩn tránh). Ở đứa trẻ "nhát" có khuynh hướng thu mình lại lúc phải gặp người lạ hay những hoàn cảnh không quen thuộc (khi vào nhà người lạ, gặp bạn mới (từ y khoa: “behavioral inhibition” = ức chế về tập tính, hành vi).
Bịnh SAD xuất hiện vào tuổi 15-16, nhưng có khi sớm hơn lúc 5-6 tuổi. Nếu xuất hiện trễ , sau 30 tuổi, thường triệu chứng đầu tiên gây ra do một hoàn cảnh mới, ví dụ bịnh nhân từ trước vẫn rụt rè hay "không muốn phô trương", nhưng bây giờ do công việc phải đứng nói trước buổi họp hay đám đông, và gặp vấn đề, không làm được. Theo dõi ngoài đời, người ta thấy, 10 năm sau khi bắt đầu trị liệu (thuốc hoặc tâm lý), có chừng 1/3 là khỏi bịnh hẳn (thấp hơn kết quả các khảo cứu lâm sàng).
Nguyên nhân sinh bịnh : vừa có yếu tố di truyền, vừa có ảnh hưởng hoàn cảnh như thời thơ ấu bị khổ sở, ảnh hưởng cha mẹ, bạn bè. Vd : bị bạo hành, hiếp đáp lúc thơ ấu (child abuse); cha mẹ khó khăn, ưa chỉ trích, cha mẹ cũng lo âu nhiều; bị trừng phạt nặng trong quá khứ vì một chuyện không đáng kể (như nói chuyện trong lớp).
Chữa trị:
Hai cách chữa trị SAD có hiệu quả tương đương với nhau trong các khảo cứu:
Thuốc men
Các thuốc chống trầm cảm, thường là loại “thuốc ức chế có chọn lọc tái thu hồi serotonin” (SSRI, serotonin selective reuptake inhibitor) (tác dụng trên mức serotonin là một chất dẫn truyền thần kinh [neurotransmitter] ở các liên hợp sợi thần kinh, nơi các tế bào thần kinh liên kết với nhau [synapses ] )Ví dụ paroxetine (Paxil, Seroxat), sertraline (Zoloft).
Phản ứng phụ của SSRI: Rối loạn tính dục, ngái ngủ, lên cân, mất ngủ, lo âu, chóng mặt, nhức đầu, khô miệng, buồn nôn, rung tay, bón, đau bụng. Riêng đối với lứa 18-24 tuổi, SSRI có thể gia tăng nguy cơ tự tử.
Các thuốc SSRI có thể bắt đầu tác dụng sau 6 tuần, và tác dụng tới mức tối hảo sau 12-16 tuần. Có thể chữa trị bằng thuốc từ 6-12 tháng để tránh bịnh tái lại, hoặc phải dùng thuốc lâu hơn.
BS có thể cọng thêm một loại thuốc an thần benzodiazepine như clonazepam (Klonopin).(Không dùng benzodiazepine này nếu bị bịnh gan nặng, khó thở, có ý tưởng tự tử)
Biến chứng: nhức mỏi cơ thể,ho, khó thở, chán chường, buồn bã, nóng sốt, ăn không ngon, mất khoái cảm, thú vị; rối loạn tính dục, có thể lên đến 50% trường hợp)
Lúc biên toa SSRI cho bịnh nhân uống thuốc, bác sĩ có thể khuyến khích bịnh nhân thử tìm đến những nơi hay tình huống mà trước đây làm mình sợ, để thử xem (test-out) thuốc hiệu nghiệm không, và cũng để chứng minh cho bản thân biết là cái sợ của mình vô căn cứ. Bác sĩ có thể bắt đầu bằng liều thấp và tăng dần lên liều cao hơn nếu không thấy tác dụng.
Trị liệu tâm lý bằng "cognitive behavioral therapy" (CBT): thay đổi nhận thức, hiểu biết và tập tính, hành vi (behavior) của bịnh nhân. Bịnh nhân SAD đánh giá sai lạc về cách mình giao tiếp trong xã hội, cho rằng người ta nghĩ tiêu cực (xấu) về mình và gán cho thái độ của người khác một tầm quan trọng quá đáng. Một lời nói, một cử chỉ vô hại, “vô thưởng vô phạt “(neutral) có thể được bịnh nhân xem như là lời trách móc, quở mắng có ảnh hưởng nhiều đến mình. Cái sợ này làm cho bịnh nhân rụt rè thêm, thu mình lại, lại càng làm cho bịnh nhân mất cơ hội để thấy là không có gì đáng lo sợ, tạo nên vòng lẩn quẩn. Tâm lý gia giúp cho người bịnh hiểu thêm về nhận định sai của mình, đồng thời khuyến khích bịnh nhân thay đổi sự "co cụm, rút lui" của mình để giải tỏa , cắt đứt cái vòng lẩn quẩn càng ngày càng giữ bịnh nhân bị vây hãm trong mối lo.
Giản dị hơn, chúng ta có thể tự học hỏi, tìm hiểu và tự giúp lấy mình ý thức về nỗi lo sợ của mình, và ý thức được cái sợ của mình là vô căn cứ. Các tôn giáo cũng giúp chúng ta bớt bị cảm xúc điều khiển và chủ động loại bỏ sợ sệt làm mình mất bình tĩnh. Trong một khảo cứu khoa học, theo Matt Bradshaw, tác dụng của kinh cầu nguyện tùy theo liên hệ giữa người cầu nguyện với đấng được cầu xin. Những người tin vào Chúa (hay Trời, Phật) như một đấng hiền từ che chở cho mình (“secure attachment to God”), cầu nguyện có thể làm giảm sự lo âu. Tuy nhiên, đối với những người quan niệm đấng tối cao như là một bề trên nghiêm khắc, trừng phạt và không để ý đến thân phận của mình (“avoidant, insecure, anxious attachment to God”), cầu nguyện (có lẽ như một hình thức van nài) có thể làm cho họ lo âu và tâm trí họ xáo trộn thêm. Phương pháp chánh niệm quen thuộc với người Việt giúp ý thức về giây phút hiện tại cũng là một phương tiện hữu hiệu giải toả tình trạng lo âu. Phương pháp này (mindfulness) được nhắc đến và thực hành nhiều ở Mỹ (“experiencing the present moment”).
Riêng về chứng run tay không viết được vì sợ, lo âu, bác sĩ có thể nghĩ đến loại thuốc beta blocker (ức chế tác dụng beta-adrenergic trên hệ thần kinh tự dưỡng, làm tim bớt đập mạnh, bớt run) như propranolol, uống chừng 30-60 phút trước khi phải thực hiện động thái làm mình lo, run sợ. Nên thử trước. Không được dùng propranolol cho người từng có biến chứng với thuốc, bịnh tim, bịnh suyễn, dị ứng.
Xin nhắc lại, các nhận xét trên đây chỉ có tính cách thông tin. 
Bác sĩ Hồ Văn Hiền