Thursday, May 25, 2017

Chuyện về hơi trong ruột

Tôi đã nhận được không ít những câu hỏi như sau: “Sao em có nhiều hơi quá, cứ lùng bùng trong bụng và nhiều lúc phải xì ra, rất là ngượng. Có thuốc gì uống không?”

Những câu hỏi coi “đời thường” như vậy nhưng rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta. Hơi là một phó sản phẩm của việc tiêu hóa. Chúng ta làm ra hơi ngay từ lúc mới sinh ra và có thể vẫn còn làm ra hơi sau khi chết. Nhưng nhiều hơi quá sẽ gây ra những khó chịu: ợ, đầy hơi, bụng trướng, đánh rắm... Khi chúng ta ở những nơi quá cao, hơi sẽ nở ra thêm, đôi khi gây ra đau bụng. Do đó, vào những năm giữa thế kỷ 20, các nhà khoa học gia đã khảo cứu về hơi rất nhiều để tìm cách giảm lượng hơi của các phi hành gia hay phi công đang bay trong bầu khí quyển. Nhờ những khảo cứu này, chúng ta có được trả lời cho câu hỏi trên.
Tại sao hơi trong ruột có mùi?
99% hơi trong ruột gồm có những khí không mùi vẫn có chung quanh ta như nitrogen, oxygen, carbon dioxide, hydrogen và methane. Những khí như nitrogen, oxygen và carbon dioxide là từ không khí chúng ta nuốt vào khi ăn, uống, nhai gum hay hút thuốc. Những phản ứng hóa học trong bao tử cũng cho ra một ít khí cabon dioxide. Vi trùng trong ruột già thì làm ra khí hydrogen và methane bằng cách lên men những thức ăn không tiêu trong ruột . 

Tuy nhiên, mùi đặc biệt của hơi trong ruột là do những khí có rất ít, ít hơn 1% lượng hơi này, làm ra. Khí hydrogen sulfide có mùi như trứng thối, khí methanethiol có mùi rau cải hư và khí dimethyl sulphide có mùi ngọt. Những khí này thường do vi trùng trong ruột làm ra. 

Nhưng khí có mùi nặng nhất phải kể đến là những hợp chất chứa sulfur, từ những thức ăn chứa nhiều sulfur như bông cải, trứng và thịt. Các loại đậu có thể làm ra rất nhiều hơi nhưng những hơi này lại không có mùi nặng bằng.
Những loại thức ăn nào làm ra nhiều hơi?
Nước ngọt có hơi là một trong những thứ gây ra nhiều hơi nhất. Các thức ăn thuộc nhóm đường carbohydrate cũng gây ra nhiều hơi vì chúng chứa những đường không tiêu hóa được, chất tinh bột và chất sợi. Những chất đường này gồm có:

1. Raffinose: có trong đậu, bắp cải, mầm brussels, broccoli, măng tây và ngũ cốc nguyên hạt. 

2. Lactose: có trong sữa và những thức ăn có sữa như cheese, cà rem, vài loại bánh mì, cereals, salad dressing... Một số người thiếu chất phân hóa tố lactase cần thiết để tiêu hóa chất sữa. Do đó những chất này không được tiêu hóa và bị lên men trong ruột tạo ra nhiều hơi. Những dân tộc Á Châu, Phi Châu và Da Đỏ dễ bị chứng thiếu lactase này. 

3. Fructose: có trong hành, trái artisô, trái lê. Một vài loại nước ngọt hay thức ăn làm sẵn cũng có chứa chất đường này, rất khó tiêu. 

4. Sorbitol: có trong trái táo, lê, đào, mận khô, vài loại thức ăn có đường hóa học, kẹo, gum. Chất đường này cũng rất khó tiêu. 
Gạo là chất tinh bột duy nhất được hấp thụ hầu như hoàn toàn ở ruột non mà không xuống tới ruột già nên không bị lên men. Những loại tinh bột khác như khoai tây, bắp, nui, lúa mì, trái lại, là những thức gây ra lắm hơi. Những loại đồ ăn có chất sợi nhiều như đậu, lúa mạch, các loại trái cây... cũng làm ra nhiều hơi. Khi các nhà khảo cứu thử ăn phân nửa các bữa ăn là thịt heo và đậu, số lượng hơi của họ tăng lên gấp 10 lần.
Người nhiều, người ít
Một người lớn trung bình làm ra khoảng 3 lít hơi và “cho ra hơi” từ 14 tới 23 lần mỗi ngày. Người ăn chay, người hay uống nước ngọt soda, hay nhai gum và hút thuốc lá làm ra nhiều hơi hơn bình thường. Người hay ăn những thức ăn gây nhiều hơi cũng vậy.
Làm sao để giảm bớt hơi?
Có ba cách thông thường nhất: thay đổi cách ăn uống, tránh nuốt hơi nhiều và dùng thuốc.
1. Thay đổi cách ăn uống: Nếu bạn là người bị thiếu chất lactase như trên đã nói, bạn nên tránh ăn uống những thức có chứa chất sữa, thay vào đó nên uống thêm thuốc calcium. Giảm ăn những thức ăn gây ra nhiều hơi như đã kể trên một vài tuần. Triệu chứng của bạn sẽ giảm hay hết đi.
2. Nuốt ít hơi: Tránh ngậm kẹo hay nhai gum cũng như nước ngọt có hơi. Ngoài ra, nên tránh hút thuốc, vừa khỏe mạnh hơn vừa đỡ bị nhiều hơi.
3. Dùng thuốc:
Các loại thuốc chứa chất giảm acid và chất simethicone (một chất khiến các bong bóng hơi gộp lại thành một) như Mylanta, Di-Gel,... ít hiệu quả trong việc làm bớt hơi nhưng có thể giúp bạn ợ hơi từ bao tử ra. Những thứ thuốc khác có chứa chất charcoal cũng không có hiệu quả gì cho lắm. Có thể uống chất lactase (Lactaid hay Lactrase) để giúp tiêu hóa chất sữa. Ngoài ra chất phân hóa tố alpha-galactosidase (Beano) cũng có thể làm giảm hơi gây ra do đậu beans và những chất carbohydrate có chứa chất đường affinose (coi phần trên)
Làm sao giảm bớt mùi của hơi?
Thuốc mua tự do Pepto Bismol có thể làm giảm bớt mùi của chất hydrogen sulfide là mùi hôi nhất. Nhưng ta cũng không thể uống thuốc này quá một vài ngày vì chất bismuth tích tụ nhiều có thể gây nguy hiểm. Một cách khác thực tiễn hơn có thể là mang một loại quần lót có chứa chất activated charcoal có thể hấp thụ chất hơi.
Khi nào cần gặp bác sĩ?
Nhiều hơi thường cũng không phải là triệu chứng của một bệnh gì nặng. Tuy nhiên nếu bạn có nhiều hơi lâu ngày, hoặc có thêm những triệu chứng đi kèm như ói, tiêu chảy, bón, xuống ký không do nhịn ăn hay tập thể dục, có máu trong phân, đau thực quản (heart burn), bạn nên đi gặp bác sĩ. Có quá nhiều hơi có thể là triệu chứng của một bệnh tiêu hóa khác như bệnh celiac, viêm bao tử, GERD, hoặc ruột bị nhậy cảm quá đáng (iritable bowel).

BS Nguyễn Thị Nhuận

Monday, May 15, 2017

Viêm Gan A

Một trong những mũi thuốc chích ngừa mà các người đi du lịch tới những xứ chậm tiến thường được khuyên phải chích là thuốc ngừa viêm gan A. Tại sao phải chích ngừa viêm gan A mà không là viêm gan B? 
Bệnh viêm gan A tuy được coi là không đưa đến những hậu quả nghiêm trọng như viêm gan B và C nhưng lại rất dễ bị lây vì bệnh này truyền qua đường thức ăn thay vì qua đường máu như hai loại kia. Do đó, đi du lịch tới những xứ ở Á Châu, Phi Châu, Ấn Độ, Trung Mỹ hay Nam Mỹ..., người ta dễ có nguy cơ lây bệnh, cho dù ở trong những khách sạn sang trọng nhất.
Siêu vi trùng viêm gan và lá gan
Lá gan là một bộ phận quan trọng bậc nhất của cơ thể. Gan nằm phía bên phải cơ thể , ngay dưới lồng ngực. Hằng ngày, lá gan thực hiện hơn 500 nhiệm vụ khác nhau như tiêu hóa thức ăn hấp thụ từ ruột, "dọn dẹp" các chất như thuốc, rượu, hay những chất có hại cho cơ thể khác, làm ra chất mật để giúp tiêu hóa chất béo, tạo ra chất cholesterol, những yếu tố giúp đông máu và một vài chất đạm cần thiết.
Gan dễ bị một số bệnh, kể cả bệnh do siêu vi gây ra. Siêu vi gây viêm gan A là một trong 6 loại siêu vi gây viêm gan đã được tìm ra. 5 loại kia là B, C, D, E, và G.
Khác với B và C lây truyền đi qua đường máu, viêm gan A lây qua đường phân-miệng. Tức là khi người sửa soạn bữa ăn cho ta không chịu rửa tay sau khi dùng nhà cầu, siêu vi trong phân người đó có thể dính vào tay của họ và dính vào thức ăn.
Ta có thể bị nhiễm siêu vi này khi uống nước không sạch, ăn nghêu sò sống bắt từ những dòng nước bẩn.
Ta cũng có thể bị lây khi ở gần người đang bị bệnh viêm gan A cho dù người ấy đang không có triệu chứng gì cả. Thực ra, thời kỳ người bệnh dễ lây cho người khác nhất là lúc các triệu chứng bệnh chưa xuất hiện.
Người đồng tính (gay) hay lưỡng tính (bisexual) có thể lây bệnh qua đường tình dục miệng-hậu môn.
Vậy triệu chứng bệnh viêm gan A là gì?
Một số người có thể lướt qua bệnh viêm gan A mà không hề hay biết vì họ không có triệu chứng nào cả. Các em nhỏ thường bị nhẹ nhưng các em lớn và người lớn có triệu chứng nặng hơn. Từ khi nhiễm siêu vi vào người đến lúc có triệu chứng thường là 3 tuần. Triệu chứng có thể xuất hiện rất đột ngột và có thể làm ta nhầm lẫn với bệnh "cúm ruột" tức tiêu chẩy, ói mửa thông thường.
Triệu chứng bệnh viêm gan A gồm có:
- Mệt mỏi, buồn nôn, ói mửa, không muốn ăn
- Đau bụng hay khó chịu nơi bụng, ngay chỗ lá gan (bên dưới lồng ngực phải)
- Sốt nhẹ
- Vàng da, vàng mắt. Nhiều người không bị triệu chứng này.
- Đau nhức bắp thịt.
- Ngứa ngáy
Sau khi những triệu chứng này biếnmất, người bệnh mới thấy khỏe. Lá gan sẽ lành bệnh hoàn toàn trong vòng 1 - 2 tháng. 15% các bệnh nhân sẽ bị lại trong vòng 6 tới 9 tháng.
Biến chứng
Nếu triệu chứng viêm gan A chỉ như kể trên thì đâu có gì đáng sợ? Đúng vậy, trong đa số các trường hợp, gan sẽ lành mà không bị hư hại gì. Siêu vi viêm gan A cũng không ở lại trong máu một khi ta đã hết bệnh (khác với viêm gan B và C).
Nhưng đôi khi, siêu vi A cũng có thể gây ra trường hợp viêm gan thật nặng (fulminant) khiến bị suy gan, nhất là những người đã bị những bệnh gan kinh niên hoặc đã thay gan.
Định bệnh
Để định bệnh viêm gan, bác sĩ của bạn sẽ cho làm một số thử nghiệm về gan và đo lượng chất bilirubin tức chất làm vàng da.
Để định xem loại siêu vi nào gây ra bệnh, bác sĩ sẽ cho thử kháng thể trong máu. Kháng thể là những chất do cơ thể tiết ra để chống lại siêu vi, mỗi loại siêu vi sẽ cho ra một kháng thể khác nhau.
Kháng thể có thể không xuất hiện nhiều tuầnhay nhiều tháng sau khi mắc bệnh. Vậy nếu thử quá sớm, người ta cũng không định loại bệnh được. Ngoài ra, kháng thể còn có thể ở lại trong máu rất lâu, do đó sự có mặt của một kháng thể chưa chắc có nghĩa là bạn đang bị bệnh.
Phòng bệnh
Bệnh viêm gan A rất dễ lây, một phần cũng vì người ta cóthể lây bệnh cho người khác khi không có triệu chứng gì cả. Cũng rất dễ có dịch (outbreaks) tức nhiều người cùng bị bệnh một lúc, điển hình cách đây gần 1 năm, các em học sinh một trường ở Minnesota đã cùng bị viêm gan A khi ăn phải trái dâu có chứa siêu vi viêm gan A nhập cảng từ Mexico.
1. Phương cách tự bảo vệ:

a. Chích ngừa: thuốc chích ngừa viêm gan A (vaccine) đã được cho dùng từ năm 1995. Thuốc ngừa rất an toàn và được chích cho trẻ em từ 2 tuổi trở lên và người lớn. Người ta cần chích 2 lần, cách nhau 6 tháng thì mới có đủ kháng thể chống bệnh. Do đó, bạn cần được chích rất lâu trước khi dự định đi du lịch, về Việt Nam chẳng hạn.

Nếu bạn cần đi du lịch gấp, nên chích ngừa bằng chất immune globulin tức chất thuốc có chứa sẵn kháng thể chống siêu vi viêm gan A. Thuốc này chỉ tồn tại rất ngắn trong cơ thể trong khi thuốc chích ngừa trên có thể kéo dài 20 năm. Immune globulin cũng có thể được dùng cho người đã tiếp xúc kề cận với người bị bệnh.
Nếu bạn đã từng bị viêm gan A, bạn không cầnphải chích ngừa vì đã có kháng thể sẵn chống bệnh này trong người.

b. Theo đúng những phương pháp vệ sinh: khi đi du lịch, rửa kỹ những trái cây trước khi gọt vỏ, không ăn rau sống và thịt cá còn sống. Chỉ uống nước đóng chai và không uống nước đá. Dùng nước đóng chai để đánh răng. Nếu không có nước đóng chai, uống nước đã đun sôi ít nhất 10 phút. Rửa tay kỹ sau khi đi vệ sinh, trong khi sửa soạn thức ăn và trước khi ăn. Rửa tay sau khi thay tã cho em bé. Không dùng chung khăn mặt, muỗng đũa và bàn chải đánh răng.
2. Bảo vệ người khác:
a. Người đồng tính và lưỡng tính (bisexual): dùng bao cao su cũng khó ngăn được lây bịnh. Tránh tình dục qua ngả hậu môn.
b. Rửa tay thật kỹ sau khi đi vệ sinh: chà xát tay kỹ, ít nhất là 10 giây, và xả nước kỹ. Chùi tay khô bằng khăn chỉ dùng 1 lần.
c. Dùng muỗng đũa sạch. Rửa muỗng đũa bằng nhiều nước nóng và xà bông.
d. Khi đang bị bệnh, không sửa soạn thức ăn cho người khác.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Thursday, May 11, 2017

Bệnh trầm cảm của phụ nữ

Bà Andrea Yates là một phụ nữ nổi tiếng vì một tội ác khủng khiếp: trấn nước cho đến chết 5 đứa con từ 1 tới 8 tuổi. Sau đó, tòa đã đem ra xử lại xem bà có thực sự bị bệnh tâm thần khi trấn nước 5 đứa con của mình không. Bà này đầu tiên được định bệnh là “post partum depression” nặng, tức bệnh trầm cảm xẩy ra ở phụ nữ mới sinh con, đôi khi rất nặng đến như điên.
Thời buổi bây giờ, có thể nói phụ nữ nào cũng là một “super woman” vì phải lo chu toàn cho gia đình lẫn công việc nơi sở làm cũng như những vấn đề cá nhân như có kinh, có bầu, sanh nở, mãn kinh... Chưa hết, người phụ nữ còn có thể, một ngày nào đó, phải đối đầu với một căn bệnh rất thông thường cho đàn bà: bệnh trầm cảm.
Phụ nữ bị bệnh trầm cảm nhiều gấp 2 lần đàn ông. Dưới đây là vài cách giải thích cho sự khác biệt giữa đàn ông và đàn bà này
Những yếu tố sinh học
Chính cơ thể của người đàn bà có thể là một yếu tố ảnh hưởng đến việc phát sinh bệnh trầm cảm. Chất kích thích tố có thể thay đổi cảm xúc của con người qua những giai đoạn khác nhau của cuộc sống. Trước khi trẻ con con gái và con trai đến tuổi dậy thì, chúng có cùng tỉ lệ bệnh trầm cảm như nhau. Nhưng sau tuổi dậy thì, sự khác biệt giữa hai phái được thấy rõ rệt. Đến khoảng 15 tuổi, con gái bị bệnh trầm cảm nhiều gấp đôi con trai.
Vì sự khác biệt giữa hai phái bắt đầu với tuổi dậy thì và chấm dứt sau tuổi mãn kinh, người ta cho rằng kích thích tố có ảnh hưởng đến việc tăng tỉ lệ bệnh trầm cảm nơi phụ nữ. Mặt khác, tuổi dậy thì cũng thường đi chung với những vấn đề khác như sự bắt đầu hoạt động tình dục, nhận diện cá nhân (identity), tranh cãi với cha mẹ, những điều mong muốn nơi xã hội. Những yếu tố này có thể cộng hưởng với kích thích tố gây ra bệnh trầm cảm nơi phụ nữ.
Qua khỏi tuổi dậy thì, mức lên xuống thay đổi quá nhiều của kích thích tố có ảnh hưởng sâu đậm trong cuộc đời người phụ nữ. Cộng thêm với yếu tố tính tình, liên hệ với người khác, những yếu tố xã hội và kinh tế..., đàn bà dễ bị trầm cảm hơn.
1. Ngay trước khi có kinh
Người đàn bà nào cũng biết rõ những triệu chứng xẩy trước khi có kinh: bụng phình ra, vú căng đau, nhức đầu, bồn chồn, khó chịu, cảm thấy buồn bã... Đa số các triệu chứng này cũng không nặng lắm và không kéo dài lâu. Nhưng một số các bà có thể bị những triệu chứng nặng như trầm cảm và cảm giác vô vọng, ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống và những mối liên hệ. Tình trạng này được gọi là bệnh tiền kinh nguyệt (premenstrual dysphoric disorder). Bệnh này có thể cần được chữa bằng thuốc chống trầm cảm hay các kích thích tố.
Sự liên hệ giữa bệnh trầm cảm và các triệu chứng tiền kinh nguyệt chưa được hiểu rõ lắm. Những nhà nghiên cứu cho rằng sự thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt của các kích thích tố estroge, progesterone... đã làm gián đoạn chức năng những chất hóa học của óc như chất serotonine là chất ảnh hưởng đến xúc cảm. Nhưng sự thay đổi kích thích tố này xẩy ra ở tất cả các phụ nữ trong khi chỉ một số là bị trầm cảm. Do đó ảnh hưởng của di truyền cũng là một yếu tố lớn trong việc gây bệnh vậy.
2. Mang thai
Việc mang thai tự nó không trực tiếp gây ra bệnh trầm cảm. Tuy nhiên, trong thời gian mang thai, sự thay đổi của kích thích tố quá to lớn, cộng thêm với những thay đổi trong cuộc sống, việc làm và những mối liên hệ, khiến gây ra ảnh hưởng trên cảm xúc của họ và trong vài trường hợp có thể kích tác bệnh trầm cảm. Những yếu tố khác có thể là những kỳ bệnh trầm cảm khi trước, bệnh tiền kinh nguyệt, xung đột trong hôn nhân, không có sự hỗ trợ của gia đình, và việc không chắc mình muốn có thai hay không. Ngoài ra, những vấn đề liên hệ tới sự mang thai như vô sinh, hư thai, có thai ngoài ý muốn... cũng có thể đưa tới trầm cảm.
Đôi khi bệnh trầm cảm trong lúc mang thai khó được nhận ra vì có thể giống như những thay đổi thông thường khi mang thai, thí dụ như ăn uống thất thường, mệt mỏi, không ngủ được hoặc không ham muốn về tình dục.
3. Sau khi sinh
Ai cũng nghĩ rằng sinh được một đứa con, người phụ nữ phải rất vui mừng, sung sướng. Nhưng thực ra có tới 50% các bà sau khi sinh cảm thấy buồn bã vô cớ, khó chịu, giận hờn, có thể khóc bất cứ lúc nào. Những cảm xúc này thường được gọi là “nỗi buồn con trẻ” (baby blues), là bình thường và không kéo dài lâu, chỉ 1,2 tuần. Nhưng coi chừng, nếu những cảm xúc này nặng và kéo dài, chúng sẽ đưa tới việc không thể săn sóc đứa bé, cảm thấy bồn chồn lo lắng, thấy mình thấp kém, bối rối, có ý tưởng tự tử: người này có thể đang bị “hội chứng trầm cảm sau sinh” tức post partum disorder. Bệnh này rất nguy hiểm và cần chữa bằng thuốc. Hội chứng này không phải chỉ là cảm giác bất lực không chống lại được áp lực của việc sinh con nhưng có thể là do sự thay đổi quá lớn của mực kích thích tố trong máu dẫn tới những xúc cảm kể trên.
4. Thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh
Người phụ nữ còn có thể bị trầm cảm vào khoảng thời gian chuyển tiếp qua kỳ mãn kinh, tức là thời kỳ tiền mãn kinh, vì mực kích thích tố lên xuống quá thất thường. Ngay cả trong thời mãn kinh, họ cũng dễ bị trầm cảm khi mực estrogen xuống thấp đáng kể. Đa số các bà bị những triệu chứ ng thời mãn kinh không bị trầm cảm. Tuy nhiên, đối với những bà bị mất ngủ quá lâu hay đã từng bị trầm cảm trước kia, đây là thời kỳ nguy hiểm. Những bà bị cắt tử cung và buồng trứng bị mãn kinh đột ngột có thể bị nhiều triệu chứng nặng kể cả vui buồn bất thường và trầm cảm.
Những yếu tố xã hội và văn hóa
Những áp lực của xã hội và văn hóa đè nặng lên đàn bà nhiều hơn đàn ông. Các bà thường phải gánh cả trách nhiệm gia đình lẫn xã hội. Họ lại thường bị trả lương ít, đơn thân làm chủ gia đình, bị lạm dụng tình dục và thể xác. Tất cả những yếu tố này đều có thể dẫn tới trầm cảm, nhất là nơi những người đã từng bị bệnh này.
1. Bất bình đẳng
Nói một cách tổng quát, đàn bà thường kiếm được ít tiền hơn đàn ông. Đàn bà độc thân với con nhỏ có tỉ lệ nghèo khó cao nhất nước. Địa vị thấp kém trong xã hội đưa tới những áp lực khác như thấy tương lai vô định, không được giúp đỡ từ những cơ quan xã hội và cộng đồng. Đàn bà thiểu số còn có thể bị kỳ thị. Tất cả những yếu tố này khiến người đàn bà cảm thấy mình không thể nắm quyền điều khiển cuộc đời chính mình, đưa tới cảm giác bất lực, yếu đuối và cuối cùng đưa tới trầm cảm.
2. Làm việc quá nhiều
Người đàn bà thời nay phải ra ngoài làm việc nhưng vẫn phải đảm nhiệm công việc nhà. Họ làm việc nhiều giờ hơn các ông. Những bà độc thân có thể còn phải làm 2,3 việc để có đủ tiền chi dụng. Ngoài tra, họ có thể là thế hệ kẹt giữa, phải săn sóc các con còn nhỏ lẫn cha mẹ già. Những áp lực này khiến người đàn bà cảm thấy bị tràn ngập, không có chỗ thở, đưa đến trầm cảm.
3. Bị lạm dụng tình dục và thể xác
Những người đàn bà từng bị lạm dụng tình dục lúc nhỏ thường dễ bị trầm cảm. Ngay cả những người lớn đang bị lạm dụng tình dục và thể xác cũng dễ bị chứng này.
Chữa trị
Đàn bà có những triệu chứng trầm cảm khác với đàn ông. Họ có mặc cảm tội lỗi, bồn chồn lo lắng, cảm thấy vô dụng, mất ngủ, lên cân và thèm ăn đồ ngọt. Họ cũng dễ bị một hội chứng tên “Rối loạn cảm xúc theo mùa” (Seasonal affective disorder), bị trầm cảm kinh niên hay bị đi bị lại. Họ lại dễ bị người trong gia đình dán nhãn là trầm cảm, do đó bị định bệnh này nhiều hơn.
Dù những nguyên nhân gây ra trầm cảm có thể là sinh học, xã hội, văn hóa, tâm lý..., chứng trầm cảm có thể được chữa bằng thuốc rất hiệu quả, kể cả chứng trầm cảm nặng. Hãy nói chuyện với bác sĩ của mình. Họ có thể chữa bệnh cho bạn và có thể giới thiệu bạn đến bác sĩ tâm thần.
Người bệnh có thể cảm thấy tình trạng của mình là vô vọng, đây là triệu chứng thông thường của bệnh trầm cảm. Tuy nhiên, nên biết rằn bệnh này có thể chữa được. Chữa trị đúng cách sẽ đem lại cuộc sống mới cho bạn.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Tuesday, May 2, 2017

Sốt phát ban

Đây là một bệnh trẻ em thường mắc phải. Bệnh sốt phát ban có tên Mỹ là Roseola tức là ban màu hồng. Là vì những vết nổi lên sau cơn sốt của bệnh này có mầu hồng. Còn tên tiếng Việt thì đặt theo tiến triển của bệnh: sau cơn sốt kéo dài 2, 3 ngày, thân người của em bé sẽ nổi ban. Đối với người Việt Nam, những vết nổi trên toàn thân nào cũng được gọi là “ban” khiến nhiều lúc khó phân biệt những bệnh có triệu chứng này. Bệnh sốt phát ban thường được nhầm lẫn nhiều nhất với bệnh sởi, một bệnh nặng hơn nhiều. 
Bệnh sốt phát ban rất thông thường, hầu như em bé nào cũng từng bị qua. Tuy nhiên, có em bị rất nhẹ, không được để ý tới, có em thì lại bị nặng hơn với đầy đủ những triệu chứng, có khi bị cả giật kinh nếu cơn sốt quá cao và bất thình lình.
Triệu chứng
Thông thường, thời gian ủ bệnh, tức từ lúc tiếp xúc với siêu vi gây bệnh cho tới lúc có triệu chứng, là 1 tới 2 tuần. Triệu chứng gồm có:
1. Sốt: Thường cơn sốt đến bất thình lình và cao, hơn 103 độ F. Em bé có thể bị đau cổ họng nhẹ hoặc hơi sổ mũi. Ngoài ra, em cũng có thể bị sưng hạch ở cổ. Cơn sốt thường kéo dài từ 3 tới 7 ngày. 
2. Nổi đỏ: Sau khi hết sốt, các em thường bị nổi đỏ, cũng có em không bị. Ban đỏ này thường gồm những điểm hay những mảng nhỏ mầu hồng. Những vết này thường phẳng nhưng cũng có thể hơi nổi cộm. Chung quanh những vết này có thể có một quầng trắng. Ban thường nổi lên ở ngực, sau lưng, bụng và sau đó lan tới cổ và cánh tay, có thể lan tới chân và mặt. Ban thường không ngứa hay làm khó chịu và có thể kéo dài vài giờ tới vài ngày. 
3. Các triệu chứng khác gồm có mệt mỏi, khó chịu, tiêu chảy nhẹ, kém ăn, mí mắt sưng...
Nguyên nhân
Nguyên nhân thông thường nhất là con siêu vi human herpes 6 (HHV6). Nhưng bệnh này cũng có thể do con human herpes 7 (HHV7) gây ra. Những con siêu vi này có liên hệ tới những con siêu vi gây ra bệnh lở miệng cold sore và bệnh herpes ở bộ phận sinh dục.
Lây lan
Bệnh sốt phát ban lây lan qua những chất tiết ra từ đường hô hấp hay nước miếng. Thí dụ: 2 đứa trẻ uống chung một ly nước. 
Bệnh có thể lây ra cho dù đứa bé bệnh không bị nổi đỏ gì cả, tức là khi nó đang bị sốt, chưa mọc ban ra, do đó rất khó tránh bị lây. Nếu con bạn đã chơi với một đứa bé vừa phát bịnh roseola, bạn nên theo dõi xem con mình có bị lây bệnh không. Tuy nhiên, nhiều khi cũng khó biết là bé bị lây bệnh từ đâu. 
Bệnh sốt phát ban ít khi nào gây ra những trận “dịch” nho nhỏ như bệnh chicken pox hay một vài bệnh của trẻ em khác. 
Những ai dễ bị lây bệnh? Những trẻ từ 6 tới 12 tháng dễ bị lây bệnh nhất vì vào tuổi này, kháng thể của người mẹ truyền cho chúng từ trong bào thai đã hết mà kháng thể mới thì chưa thành lập.
Khi nào nên gọi bác sĩ
Bệnh sốt phát ban có thể gây ra sốt rất cao, hơn 103 độ F. Nếu con bạn sốt cao như vậy, nên gọi bác sĩ để có thể được khám bệnh tìm nguyên nhân của sốt. 
Khi nhiệt độ lên cao quá nhanh và bất thình lình, em bé có thể bị giựt kinh. Nếu em đang bị sốt cao mà không giựt kinh thì có nghĩa là em sẽ không giựt. Do đó, ta cũng không nên quá hốt hoảng khi em bé bị sốt cao. Nếu em bị giựt kinh mà không có nguyên do gì rõ rệt, em cần được khám ngay. 
Nếu em bị sốt quá 7 ngày hoặc ban kéo dài quá 3 ngày, cũng nên gọi bác sĩ. 
Nếu vì một nguyên do nào đó (thí dụ như đang dùng thuốc chữa ung thư), hệ miễn nhiễm của bạn không còn làm việc tốt và bạn có tiếp cận với một người bị roseola, bạn cũng nên gọi bác sĩ của mình vì trong trường hợp này, bạn có thể bị bệnh nặng hơn là em bé. 
Bệnh sốt phát ban đôi khi cũng rất khó phân biệt với những bệnh nhiễm trùng khác vì triệu chứng sơ khởi đều giống nhau, thí dụ như cảm, nhiễm trùng tai. Nếu bác sĩ khám em bé mà không thấy dấu hiệu rõ rệt của bệnh cảm, nhiễm trùng tai, viêm họng hay những bệnh thông thường khác, bác sĩ sẽ chờ xem em có mọc ban ra không. Bạn sẽ được chỉ dẫn chữa sốt và chờ xem có ra ban không. Tính chất của ban sẽ khiến bác sĩ định bệnh được.
Biến chứng
Như trên đã nói, em bé có thể bị giựt kinh nếu nhiệt độ tăng nhanh bất thình lình. Nếu bị giựt kinh, em sẽ bất tỉnh, tay chân giựt, mắt trợn lên khoảng vài phút. Nên cho em đi khám bệnh ngay. Nhưng cũng may mắn là chứng giựt kinh do sốt cao thường không gây ra tai hại gì cho em cả. 
Ngoài chuyện giựt kinh, sốt phát ban ít khi gây ra biến chứng nào đáng kể. Nếu không có bệnh gì khác, thường là trẻ em và người lớn bị sốt phát ban sẽ bình phục nhanh chóng. 
Tuy nhiên, những người có hệ miễn nhiễm bị yếu đi, thí dụ như những bệnh nhân sau khi được ghép tủy hay cơ quan khác, có thể mắc bệnh sốt phát ban mới hay bị bệnh cũ tái phát. Trường hợp này, họ sẽ bị nặng hơn và lâu bình phục hơn. Họ cũng có thể bị biến chứng sưng phổi hay viêm não, rất nguy hiểm.
Ngăn ngừa bệnh
Không có thuốc chích ngừa bệnh sốt phát ban. Do đó, cách tốt nhất để con bạn không bị bệnh là tránh tiếp xúc với một em bé đang bị. Nếu con bạn đang bị bệnh, nên giữ em ở nhà, cách xa các trẻ em khác. 
Đa số chúng ta đều đã có kháng thể chống bệnh vào tuổi bắt đầu đi học, khiến tránh được bệnh lần thứ nhì. Nhưng dù vậy, khi trong nhà có người bị bệnh này, cả nhà nên rửa tay kỹ thường xuyên để tránh lây lan bệnh cho những người chưa bị. 
Người lớn nào lúc nhỏ chưa bị thì có thể bị lây bệnh nhưng thường chỉ bị nhẹ thôi, tuy họ vẫn có thể lây bệnh cho người khác.
Tự săn sóc
Thường thì chúng ta không cần làm gì cả, chỉ chờ cho hết bệnh. Tuy nhiên, sốt cao có thể làm cho em bé khó chịu, cha mẹ có thể cho em uống thuốc acetaminophen (Tylenol) hay ibuprofen (Advil, Motrin...) để giảm bớt sốt. Không nên cho em uống aspirin vì có thể làm em dễ bị chứng Reye's syndrome là một bệnh nặng. Nên cho em bé uống nhiều nước, nằm nghỉ.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Gãy xương bàn chân

Bàn chân có 5 cái xương metatarsal (MT) xoè ra như 5 cái nang của một cái quạt. Xương metatarsal thứ 5 (MT5) cùng với xương gót và xương thứ nhất tạo thành một thế kiềng 3 chân cho bàn chân đứng vững. Tuy nhiên nó lại ít được các mô mềm bao bọc và che chở, và do cách sắp xếp của 3 động mạch nuôi dưỡng, có môt vùng gần đầu xương (meta-diaphyseal junction) ở đó, nếu bị gãy sẽ khó lành hơn (non-union). MT5 cũng là xương di động nhiều nhất trong 5 xương MT, cho nên nếu bị chấn thương hay gãy xương mà không phục hồi tử tế, có thể làm đau bàn chân dễ dàng hơn.
Trong MT, xương MT 5 dễ bị gãy nhất, do chấn thương như té, bẻ bàn chân đột ngột, vặn bàn chân vào phía trong, một vật gì rơi xuống hoặc do stress gây ra stress fracture. Tuỳ vết gãy nằm trên đoạn nào của xương, xương có xê dịch hay không, có ngắn lại không sẽ quyết định xương lành dễ dàng hay không, và các theo dõi điều trị. Cho nên cần định bệnh chính xác chi tiết về vết gãy trên hình quang tuyến, cũng như bác sĩ chuyên môn về chỉnh trực chữa bệnh nếu có vấn đề. Trong trường hợp gãy do stress, thường bệnh nhân đã từng đau sẵn chỗ đó, một thời gian trước khi xương gãy.
Stress fracture là vết nứt, gãy, hay bầm trong xương do xương đó bị cử động quá nhiều, thường xảy ra ở các lực sĩ chạy bộ (march fracture), đá banh, bóng rổ, cũng như những người vừa thay đổi trong cách tập của mình (như chạy treadmill đổi qua chạy ngoài đường), hay theo một thể thao mới, nặng nhọc hơn. Loãng xương (osteoporosis) cũng làm stress fracture dễ xảy ra. Thường MT 2-3 dễ bị stress fracture hơn xương MT số 5 vì chúng dài và mỏng manh (gầy) hơn.
Chữa trị:
1) Biện pháp ban đầu có mục đích làm giảm đau và sưng. Thường bác sĩ khuyên đắp túi nước đá chừng 20 phút và lập lại 2 tiếng một lần, cũng như ngồi xuống kê chân cao lên để máu không tụ lại xuống bàn chân.
2) Stress fracture nhẹ có khi chỉ cần đòi hỏi bệnh nhân ngưng hoạt động gây ra vết nứt xương (ví dụ chạy thể thao) 4-8 tuần, nếu đi đau bs có thể cho mang nạng chống để giảm bớt phần trọng lượng cơ thể trên bàn chân vài tuần. Lúc được phép hoạt động thể thao trở lại, cần bắt đầu từ từ.
3) Trong những trường hơp nặng hơn, có thể bác sĩ cho một hình thức bất động (immobilization) nào đó để tránh cho chỗ gãy không nhúc nhích và dễ lành hơn.
Đa số chỉ cần băng bột (plaster cast, removable plastic cast), hay loại giày ống đặt biệt (cast, or CAM boot [(CAM: Controlled Ankle Movement, giúp cho bệnh nhân đi mà vẫn giữ bản lề giữa cổ chân và bàn chân không hoặc ít di động, che chở những vùng tổn thương bàn chân], walking boot) trong 6 tuần. Trên quang tuyến, có thể thấy chưa lành hẳn, nhưng nếu bệnh nhân bớt đau nhiều và xương tiến triển tốt, bác sĩ có thể cho đổi qua giày thường. Nếu vết gãy nằm ở vùng khó lành hơn, bác sĩ có thể cho mang bột lâu hơn.
4) Nếu sau 3 tháng bệnh nhân vẫn đau chân nhiều, bác sĩ có thể tính chuyện phẫu thuật, bắt ốc vào tuỷ xương để gắn chỗ gãy lại (intramedullary solid screw). Một số lực sĩ chuyên nghiệp có thể yêu cầu phẫu thuật để họ trở về với nghề thể thao mình nhanh hơn.
Tóm lại, xương bàn chân thứ 5 rất quan trọng cho cơ năng bàn chân, cho nên nếu có thể nên tìm đên trung tâm quang tuyến định bệnh chính xác (nhiều góc độ khác nhau, chẩn đoán chính xác), cũng như cần bác sĩ chuyên về xương theo dõi kỹ và chữa trị thích đáng cho từng trường hợp.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Mụn cóc (wart, verruca vulgaris)

Mụn cóc da (skin wart) thường xảy ra ở bàn tay, chung quanh móng tay, có khi dưới móng tay, mặt trên hình cong như vòm và sần sùi. Ở lòng bàn chân (plantar wart) lớp sừng có thể dày hơn nhiều, và có thể có những đốm đen là những mạch máu bị tắt nghẽn. Ở mặt, tay chân trẻ em và thanh niên, có thể xảy ra những mụn cóc nhỏ, mặt trên phẳng, không cộm lên hình vòm hay hình nón nhọn như các mụn có thông thường, và nổi lên từng nhóm, và ít đau, gọi là mụn cóc phẳng hay mụn cóc trẻ em (flat warts, juvenile warts). Bóp mụn cóc thì gây đau, cắt tỉa các lớp da dày sẽ thấy những chấm đen, là những mạch máu li ti trong mụn cóc.
Mụn cóc (wart, verruca vulgaris) và HPV (virus u nhú ở người)
Mụn cóc không phải do mủ da con cóc gây ra như một số người tưởng. Mụn cóc (wart) là một loại u ngoài da do siêu vi HPV (Human Papilloma Virus/(vi rút u nhú ở người) gây ra.
(HPV có hàng trăm type khác nhau; có type gây ra ung thư cổ tử cung (cervical cancer, vd: oncogenic HPV types 16, 18), có type gây bệnh phong tình “mồng gà hoa khế” (condyloma acuminata, genital warts, HPV types 6, 11) có khả năng biến thành ung thư. Hiện nay có thuốc chích ngừa dùng cho con trai và con gái gần tuổi dậy thì (từ 9 đến 26 tuổi) để ngừa các bệnh do HPV gây ra, do đó một cách gián tiếp ngừa đa số những bệnh ung thư cỗ tử cung do HPV gây ra ở phụ nữ.)
Mụn cóc thường do type 2 và type 4 gây ra, và không phải là ung thư (hiền, benign).Thường hay gặp ở người nhỏ tuổi, trên bàn tay, bàn chân, hoặc những nơi khác, những chỗ có nếp da xếp lại (skinfold). Siêu vi từ ngoài nhiễm vào cơ thể qua da ở những chỗ da nứt nẻ, hoặc từ mụn cóc này do máu lúc cắt tỉa cấy, vấy qua những vùng da lân cận, làm mụn cóc nhảy thành chùm. Do đó, khi đi tắm hồ tắm, cần mang dép che chở chân, tránh dùng khăn, dao cạo, dao cắt tỉa da móng của người khác có thể mang HPV.
Đa số mụn cóc tự nó sẽ khỏi trong vòng vài tháng tới hai năm. Tuy nhiên vì phiển toái, lo âu , đa số bệnh nhân muốn bác sĩ "thanh toán" mụn cóc sớm hơn.
Chữa trị mụn cóc da:
  1. Dùng hơi lạnh 'đốt', huỷ mụn cóc (khí nitrogen ở thể lỏng rất lạnh, -320o Farenheit hay-196 độ Celcius]; cryotherapy with liquid nitrogen)
  2. Dùng loại axit nhẹ 'đốt" (trichloro-acetic acid; salicylic acid trong thuốc "wart remover" (OTC), Occlusal HP (toa); cẩn thận nếu máu lưu thông kém, bị tiểu đường, hoặc dị ứng với aspirin)
  3. Trichloro-acetic acid : Cần phải thoa thuốc nhiều lần, ví dụ mỗi tuần một lần, trong 6 tuần, có thể kết hợp với cắt tỉa cho mụn cóc nhỏ bớt. Tuỳ theo nồng độ acid , ví dụ trong một khảo cứu ở Iran, sau 6 tuần thì 46% có kết quả tốt với nồng độ 80%, trong lúc 12% kết quả tốt với 35% acid. (Pezeshkpour, 2012)
  4. Keratolytic agents and occlusion. Làm tan chất sừng và dán bít lại. Riêng đối với mụn cóc lòng bàn chân, ở Mỹ có Mediplast (40% salicylic acid) là một loại thuốc dán, cắt cho vừa cở, dán để 5-6 ngày gở ra, cắt tỉa mụn cóc nhỏ bớt, rồi dán lại lần nữa. Có thể nhiều tuần hay tháng mới lấy ra hết.
  5. Dùng dao điện nóng dể đốt huỷ mụn cóc
  6. Phẫu thuật cắt bỏ mụn cóc (excision), nhất là trường hợp định bệnh không rõ rệt , cần gởi mẫu mô làm sinh thiết bệnh học.
  7. Laser huỷ mụn có.
  8. Tape occlusion: dùng duct tape. Cắt duct tape thành những miếng tròn nhỏ, lớn hơn mụn cóc một chút, dán trùm , bít kín các mụn cóc. Để yên 6 ngày, lột ra, ngâm mụn cóc trong nước cho mềm, dùng cây dủa móng tay sạch hoẵc đá xốp dùng để kỳ cọ da (emery board or pumice stone) tỉa mòn mụn cóc. Qua một đêm để hở, dán lại bằng duct tape thêm 6 ngày; cứ thế trong 2 tháng. Trong một khảo cứu, 85% các mụn cóc lành hẳn, so với kết quả 60 % những người dùng "đốt" lạnh (cryotherapy,"hàn liệu pháp")
  9. Một số trường hợp, cimetidine (Tagamet), thuốc trị bệnh axit bao tử, có thể được dùng trị mụn cóc có kết quả. Cimetidine ảnh hưởng đến hệ miễn nhiễm của cơ thể.
Sau đây là một số bài thuốc dân gian cho mụn cóc đăng trong báo Reader's Digest Asia, xin kể ra đây với tính cách thông tin mà thôi:(http://www.rdasia.com/warts_and_verrucas)
  • Đắp vỏ chuối (ruột vỏ chuối áp vào da) ban đêm trước khi di ngủ. Trong vỏ chuối có chất hoá học làm tan mụn cóc.
  • Dùng vỏ chanh đắp lên mụn cóc; dầu trong vỏ chanh có khả năng làm bớt mụn cóc.
  • Đâm trái đu đủ xanh cho chảy mủ, để mủ khô. Pha với nước lạnh, thoa lên mụn cóc, 2 lần ngày.Trong mủ đu đủ có chất giúp tiêu các mô trong mụn cóc.
  • Ngâm trong nước 46 độ C (115o F) 15 phút mỗi ngày. Thêm 1/4 dấm + 3/4 nước càng tốt.
  • Nhỏ vài giọt cây long tu (aloe vera gel) lên mụn cóc mỗi ngày (có lẽ nhờ malic acid trong cây long tu)
  • Giã nát một lá ngò tây (basil) đắp lên mụn cóc dán băng keo mỗi ngày, làm 1 tuần.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền