Trong vòng vài tháng nay đã có 3 trường hợp bệnh quai bị xẩy ra trong quận Cam, nơi có đông người Việt sinh sống. Các trường hợp này đều xẩy ra nơi các sinh viên đại học sống bên ngoài tiểu bang nhưng lúc bệnh thì đang ở quận Cam.
Ở các nước chậm tiến, bệnh quai bị được biết đến nhiều vì rất thông thường, khác với tại Mỹ là nơi mà việc chích ngừa quai bị đã làm tỉ lệ bệnh này hạ xuống đáng kể; cho đến thời gian gần đây, cũng như bệnh sởi, bệnh quai bị có vẻ đã trở lại vì dân chúng ngày nay “ngại” chích ngừa.
Quai bị là một bệnh nhiễm virus, làm sưng tuyến nước bọt ở mang tai (parotid glands) - đây là một trong ba đôi tuyến nước bọt nằm bên dưới và phía trước của tai. Bệnh có thể gây sưng một hoặc cả hai tuyến mang tai. Khác với tin tưởng trong dân gian là hễ con trai bị quai bị thì sẽ bị sưng “hòn dái” và sẽ bị vô sinh, không thể có con được, trong thực tế biến chứng này ít khi xảy ra.
Ở các nước chậm tiến, bệnh quai bị được biết đến nhiều vì rất thông thường, khác với tại Mỹ là nơi mà việc chích ngừa quai bị đã làm tỉ lệ bệnh này hạ xuống đáng kể; cho đến thời gian gần đây, cũng như bệnh sởi, bệnh quai bị có vẻ đã trở lại vì dân chúng ngày nay “ngại” chích ngừa.
Quai bị là một bệnh nhiễm virus, làm sưng tuyến nước bọt ở mang tai (parotid glands) - đây là một trong ba đôi tuyến nước bọt nằm bên dưới và phía trước của tai. Bệnh có thể gây sưng một hoặc cả hai tuyến mang tai. Khác với tin tưởng trong dân gian là hễ con trai bị quai bị thì sẽ bị sưng “hòn dái” và sẽ bị vô sinh, không thể có con được, trong thực tế biến chứng này ít khi xảy ra.
Triệu chứng
Người bị nhiễm virus quai bị có thể không có triệu chứng hoặc bị rất nhẹ. Triệu chứng thường xuất hiện khoảng 2- 3 tuần sau khi nhiễm virus và có thể gồm:
- Sưng, đau tuyến nước bọt ở một hoặc cả hai bên mặt (viêm tuyến mang tai)
- Sốt
- Đau đầu
- Đau bắp thịt
- Cảm thấy yếu và mệt mỏi
- Ăn mất ngon
- Đau khi nhai hoặc nuốt
Dấu hiệu chính của bệnh quai bị là tuyến nước bọt bị sưng khiến má phồng ra.
Khi nghi ngờ con mình bị quai bị, cha mẹ nên đem con đi khám bệnh ngay và nên báo trước để khỏi phải ngồi chờ trong phòng đợi lâu, có thể lây bệnh cho các trẻ khác.
Các loại virus và vi trùng khác cũng có thể làm sưng các tuyến mang tai, trông giống như bệnh quai bị.
Người bị nhiễm virus quai bị có thể không có triệu chứng hoặc bị rất nhẹ. Triệu chứng thường xuất hiện khoảng 2- 3 tuần sau khi nhiễm virus và có thể gồm:
- Sưng, đau tuyến nước bọt ở một hoặc cả hai bên mặt (viêm tuyến mang tai)
- Sốt
- Đau đầu
- Đau bắp thịt
- Cảm thấy yếu và mệt mỏi
- Ăn mất ngon
- Đau khi nhai hoặc nuốt
Dấu hiệu chính của bệnh quai bị là tuyến nước bọt bị sưng khiến má phồng ra.
Khi nghi ngờ con mình bị quai bị, cha mẹ nên đem con đi khám bệnh ngay và nên báo trước để khỏi phải ngồi chờ trong phòng đợi lâu, có thể lây bệnh cho các trẻ khác.
Các loại virus và vi trùng khác cũng có thể làm sưng các tuyến mang tai, trông giống như bệnh quai bị.
Nguyên nhân
Nguyên nhân gây ra bệnh quai bị là virus quai bị, lây lan dễ dàng từ người này sang người khác qua nước bọt. Nếu không có miễn dịch nhờ chích ngừa, người ta có thể bị lây quai bị khi hít thở những giọt nước bọt li ti của người bệnh bắn ra sau khi hắt hơi hoặc ho. Cũng có thể lây quai bị từ việc chia sẻ đồ dùng hoặc ly uống nước với người bị bệnh quai bị.
Nguyên nhân gây ra bệnh quai bị là virus quai bị, lây lan dễ dàng từ người này sang người khác qua nước bọt. Nếu không có miễn dịch nhờ chích ngừa, người ta có thể bị lây quai bị khi hít thở những giọt nước bọt li ti của người bệnh bắn ra sau khi hắt hơi hoặc ho. Cũng có thể lây quai bị từ việc chia sẻ đồ dùng hoặc ly uống nước với người bị bệnh quai bị.
Các biến chứng
1.Viêm: Hầu hết các biến chứng từ quai bị liên quan đến việc viêm và sưng một số bộ phận của cơ thể, chẳng hạn như:
1.Viêm: Hầu hết các biến chứng từ quai bị liên quan đến việc viêm và sưng một số bộ phận của cơ thể, chẳng hạn như:
- Tinh hoàn (hòn dái). Viêm tinh hoàn gây ra sưng một hoặc cả hai tinh hoàn ở người nam đã đến tuổi dậy thì. Viêm tinh hoàn gây đau, nhưng hiếm khi dẫn đến vô sinh (không có khả năng làm cha).
- Tuyến tụy tạng. Viêm tụy tạng làm đau ở vùng bụng trên, buồn nôn và ói mửa.
- Buồng trứng và vú. Những phụ nữ đã đến tuổi dậy thì có thể bị viêm buồng trứng hoặc vú. Khả năng sinh sản ít bị ảnh hưởng.
- Óc. Virus quai bị, có thể gây ra viêm não, dẫn đến các vấn đề về thần kinh và đe dọa tính mạng.
- Màng và chất lỏng xung quanh não và tủy sống. Tình trạng này, được gọi là viêm màng não, có thể xảy ra nếu virus quai bị lan ra máu và đến hệ thần kinh trung ương.
2. Các biến chứng khác
- Mất thính lực. Trong trường hợp hiếm, quai bị có thể gây ra mất vĩnh viễn thính giác, ở một hoặc cả hai tai.
- Sẩy thai. Mặc dù chưa được chứng minh, bị quai bị trong khi đang mang thai, đặc biệt là thời gian đầu, có thể dẫn đến sẩy thai.
- Tuyến tụy tạng. Viêm tụy tạng làm đau ở vùng bụng trên, buồn nôn và ói mửa.
- Buồng trứng và vú. Những phụ nữ đã đến tuổi dậy thì có thể bị viêm buồng trứng hoặc vú. Khả năng sinh sản ít bị ảnh hưởng.
- Óc. Virus quai bị, có thể gây ra viêm não, dẫn đến các vấn đề về thần kinh và đe dọa tính mạng.
- Màng và chất lỏng xung quanh não và tủy sống. Tình trạng này, được gọi là viêm màng não, có thể xảy ra nếu virus quai bị lan ra máu và đến hệ thần kinh trung ương.
2. Các biến chứng khác
- Mất thính lực. Trong trường hợp hiếm, quai bị có thể gây ra mất vĩnh viễn thính giác, ở một hoặc cả hai tai.
- Sẩy thai. Mặc dù chưa được chứng minh, bị quai bị trong khi đang mang thai, đặc biệt là thời gian đầu, có thể dẫn đến sẩy thai.
Chích ngừa
Quai bị gây ra do virus nên thuốc trụ sinh không được dùng được chữa trị. Tuy nhiên, hầu hết các bệnh nhân, không bị biến chứng đều bình phục sau khoảng hai tuần.
Bệnh nhân không còn được coi là truyền nhiễm và có thể trở lại làm việc hoặc đi học một tuần sau khi được chẩn đoán bệnh quai bị.
Một người được xem là miễn dịch với bệnh quai bị nếu trước đó đã từng bị bệnh hoặc nếu đã được chủng ngừa bệnh quai bị.
Thuốc chủng ngừa quai bị thường được kết hợp với sởi và ban Đức (rubella) gọi tắt là MMR. Trẻ em nên được chích ngừa bằng MMR 2 lần cách nhau 3- 4 năm trước khi đi học.
1. Không cần phải chủng ngừa nếu:
- Đã chích hai liều MMR sau 12 tháng tuổi hoặc một liều MMR cộng với một liều thứ hai của thuốc chích ngừa sởi
- Đã chích một liều MMR và không có nguy cơ cao tiếp xúc với bệnh sởi hoặc quai bị
- Thử máu cho thấy miễn dịch với bệnh sởi, quai bị và rubella
- Đàn ông sinh trước năm 1957
- Phụ nữ sinh trước năm 1957 và không có ý định có thêm con nữa
2.Ngoài ra, không nên chích ngừa MMR nếu:
- Là phụ nữ mang thai hoặc dự định có thai trong vòng bốn tuần tới
- Từng bị phản ứng dị ứng đe dọa đến tính mạng với gelatin hoặc neomycin
- Có hệ thống miễn dịch bị tổn hại nghiêm trọng, hoặc những người đang uống corticoid
3. Những ai nên chủng ngừa MMR:
- Những người không thuộc vào các trường hợp trên
- Phụ nữ không mang thai trong độ tuổi sinh đẻ
- Học đại học, trường dạy nghề hoặc trường sau trung học
- Làm việc trong một bệnh viện, cơ sở y tế, trung tâm chăm sóc trẻ hay trường học
- Sẽ đi du lịch ở nước ngoài
4.Những người nên chờ đợi ít lâu trước khi chủng ngừa MMR:
- Vừa bị bệnh nặng. Nên chờ cho đến khi hồi phục.
- Đang mang thai. Chờ cho đến khi sau khi sinh con.
5.Những người nên hỏi bác sĩ trước khi chích:
- Người đang bị ung thư
- Người bị bệnh về máu
- Người có một bệnh ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch như HIV / AIDS
- Người đang được điều trị bằng thuốc như steroid, có ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch
- Người đã chích ngừa một thứ khác trong vòng bốn tuần qua
Bệnh nhân không còn được coi là truyền nhiễm và có thể trở lại làm việc hoặc đi học một tuần sau khi được chẩn đoán bệnh quai bị.
Một người được xem là miễn dịch với bệnh quai bị nếu trước đó đã từng bị bệnh hoặc nếu đã được chủng ngừa bệnh quai bị.
Thuốc chủng ngừa quai bị thường được kết hợp với sởi và ban Đức (rubella) gọi tắt là MMR. Trẻ em nên được chích ngừa bằng MMR 2 lần cách nhau 3- 4 năm trước khi đi học.
1. Không cần phải chủng ngừa nếu:
- Đã chích hai liều MMR sau 12 tháng tuổi hoặc một liều MMR cộng với một liều thứ hai của thuốc chích ngừa sởi
- Đã chích một liều MMR và không có nguy cơ cao tiếp xúc với bệnh sởi hoặc quai bị
- Thử máu cho thấy miễn dịch với bệnh sởi, quai bị và rubella
- Đàn ông sinh trước năm 1957
- Phụ nữ sinh trước năm 1957 và không có ý định có thêm con nữa
2.Ngoài ra, không nên chích ngừa MMR nếu:
- Là phụ nữ mang thai hoặc dự định có thai trong vòng bốn tuần tới
- Từng bị phản ứng dị ứng đe dọa đến tính mạng với gelatin hoặc neomycin
- Có hệ thống miễn dịch bị tổn hại nghiêm trọng, hoặc những người đang uống corticoid
3. Những ai nên chủng ngừa MMR:
- Những người không thuộc vào các trường hợp trên
- Phụ nữ không mang thai trong độ tuổi sinh đẻ
- Học đại học, trường dạy nghề hoặc trường sau trung học
- Làm việc trong một bệnh viện, cơ sở y tế, trung tâm chăm sóc trẻ hay trường học
- Sẽ đi du lịch ở nước ngoài
4.Những người nên chờ đợi ít lâu trước khi chủng ngừa MMR:
- Vừa bị bệnh nặng. Nên chờ cho đến khi hồi phục.
- Đang mang thai. Chờ cho đến khi sau khi sinh con.
5.Những người nên hỏi bác sĩ trước khi chích:
- Người đang bị ung thư
- Người bị bệnh về máu
- Người có một bệnh ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch như HIV / AIDS
- Người đang được điều trị bằng thuốc như steroid, có ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch
- Người đã chích ngừa một thứ khác trong vòng bốn tuần qua
Tác dụng phụ của thuốc chích ngừa
Thuốc ngừa MMR không gây ra bệnh, và hầu hết những người chích ngừa đều không bị tác dụng phụ. Một số ít có thể bị sốt nhẹ hoặc phát ban, và một số người (đa số là người lớn) bị đau khớp một thời gian ngắn. Ít hơn 1 phần triệu liều gây ra phản ứng dị ứng nghiêm trọng.
Mặc dù sự liên hệ giữa MMR và bệnh tự kỷ đã được liên tiếp đặt ra, các thông cáo từ Viện Hàn Lâm Nhi Khoa Mỹ, Viện Y Học và CDC đều kết luận rằng không có liên hệ giữa MMR và bệnh tự kỷ.
Mặc dù sự liên hệ giữa MMR và bệnh tự kỷ đã được liên tiếp đặt ra, các thông cáo từ Viện Hàn Lâm Nhi Khoa Mỹ, Viện Y Học và CDC đều kết luận rằng không có liên hệ giữa MMR và bệnh tự kỷ.
Chữa trị
Thời gian và nghỉ ngơi là các phương pháp điều trị tốt nhất. Có thể theo những cách sau đây để giảm bớt đau và khó chịu cũng như tránh bớt lây nhiễm.
- Nghỉ ngơi cho đến khi hết sốt
- Cô lập bệnh nhân để khỏi lây bệnh sang người khác. Có bệnh nhân có thể lây nhiễm một tuần sau khi xuất hiện các triệu chứng.
- Dùng thuốc giảm đau như acetaminophen (Tylenol), ibuprofen (Advil, Motrin IB) để giảm bớt các triệu chứng. Người lớn cũng có thể sử dụng aspirin nhưng trẻ em và thanh thiếu niên hồi phục từ các triệu chứng giống như cúm không nên dùng aspirin ví có liên quan đến hội chứng Reye, một bệnh hiếm gặp nhưng có khả năng đe dọa tính mạng.
- Đắp miếng gạc ấm hoặc lạnh để các tuyến bị sưng bớt đau.
- Đeo miếng che chắn và chườm lạnh để làm bớt đau nếu bị sưng tinh hoàn.
- Tránh các loại thực phẩm cần phải nhai nhiều. Ăn thức ăn mềm, chẳng hạn như khoai tây nghiền hoặc bột yến mạch nấu chín, hay dùng xúp.
- Tránh các thức ăn chua như cam quýt hoặc các loại nước ép vì chúng kích thích sản xuất nước bọt.
- Uống nhiều chất lỏng.
- Kiểm soát xem có bị biến chứng không. Gọi cho bác sĩ nếu bệnh nhân bị: sốt 103 F (39 C) hoặc cao hơn, ăn uống khó khăn, trở nên lẫn lộn hoặc mất phương hướng, đau bụng, đau và sưng tinh hoàn.
- Nghỉ ngơi cho đến khi hết sốt
- Cô lập bệnh nhân để khỏi lây bệnh sang người khác. Có bệnh nhân có thể lây nhiễm một tuần sau khi xuất hiện các triệu chứng.
- Dùng thuốc giảm đau như acetaminophen (Tylenol), ibuprofen (Advil, Motrin IB) để giảm bớt các triệu chứng. Người lớn cũng có thể sử dụng aspirin nhưng trẻ em và thanh thiếu niên hồi phục từ các triệu chứng giống như cúm không nên dùng aspirin ví có liên quan đến hội chứng Reye, một bệnh hiếm gặp nhưng có khả năng đe dọa tính mạng.
- Đắp miếng gạc ấm hoặc lạnh để các tuyến bị sưng bớt đau.
- Đeo miếng che chắn và chườm lạnh để làm bớt đau nếu bị sưng tinh hoàn.
- Tránh các loại thực phẩm cần phải nhai nhiều. Ăn thức ăn mềm, chẳng hạn như khoai tây nghiền hoặc bột yến mạch nấu chín, hay dùng xúp.
- Tránh các thức ăn chua như cam quýt hoặc các loại nước ép vì chúng kích thích sản xuất nước bọt.
- Uống nhiều chất lỏng.
- Kiểm soát xem có bị biến chứng không. Gọi cho bác sĩ nếu bệnh nhân bị: sốt 103 F (39 C) hoặc cao hơn, ăn uống khó khăn, trở nên lẫn lộn hoặc mất phương hướng, đau bụng, đau và sưng tinh hoàn.
BS Nguyễn Thị Nhuận
No comments:
Post a Comment