Thursday, April 28, 2016

Đôi điều về bệnh lú lẫn Alzheimer"s

A. Những giai đoạn tiến triển của Alzheimer's
Bệnh lú lẫn Alzheimer's tiến triển rất chậm chạp. Sự nhận biết của bệnh nhân có thể giảm dần trong vòng 7 tới 10 năm. Cuối cùng tất cả các bộ phận sinh hoạt của óc như trí nhớ, cử động, ngôn ngữ, cách cư xử, sự phán đoán và óc suy luận trừu tượng đều bị ảnh hưởng. Bệnh Azheimer's thường được chia ra 3 giai đoạn. Tìm biết về 3 giai đoạn này có thể giúp bệnh nhân và gia đình chuẩn bị cách đối phó cho tương lai. Tuy nhiên, không hẳn là bệnh nhân nào cũng theo đúng những giai đoạn này hoặc có những triệu chứng giống nhau.

1. Giai đoạn nhẹ:
Bệnh nhân trong giai đoạn này thường giảm bớt trí nhớ, đôi khi không phán đoán sáng suốt và có sự thay đổi tính tình chút ít. Họ có thể giảm sự chú ý, và bỏ dở việc đang làm. Họ cũng không muốn thay đổi và ngại chuyện khó khăn và có thể bị đi lạc ngay cả ở những chỗ đã quen thuộc.

Người nào thì cũng có lúc quên một vài tiếng hay tên người trong lúc nói chuyện nhưng người bệnh lú lẫn thì quên nhiều hơn và càng ngày càng quên thêm. Họ có thể chế ra những chữ không đâu để thay thế. Họ sẽ tránh nói chuyện để khỏi mắc lỗi và càng ngày càng khép kín, nhất là trong những dịp phải giao thiệp xã hội hay phải suy nghĩ nhiều.

Bệnh nhân Alzheimer's có thể cất đồ vô những chỗ khác thường thí dụ như cất bóp vô tủ lạnh hay cho quần áo vô máy rửa chén. Họ có thể hỏi đi hỏi lại những câu hỏi và cất giữ những thứ vô giá trị. Khi mệt mỏi hoặc bực mình họ có thể nổi giận dữ dội dù thường ngày hiền lành.
2. Giai đoạn khá nặng
Trong giai đoạn này, bệnh nhân không thể sắp xếp tư tưởng hay theo được những giải thích có tính lý luận cũng như không theo được những chỉ dẫn viết ra. Họ cần được giúp chọn quần áo mặc cho thích hợp với thời tiết hoặc sinh hoạt. Dần dần họ sẽ phải được giúp mặc quần áo vì họ có thể mặc đồ lót ra ngoài hay đi giầy nhầm chân. Họ cũng có thể đại tiểu tiện trong quần.

Trong giai đoạn này, người bệnh thường mất khả năng nhận diện người thân và bạn bè. Họ có thể nhầm lẫn cho con là bạn hay vợ chồng là người lạ. Họ lẩn không biết họ đang ở đâu và không biết ngày tháng. Họ quên địa chỉ hay số điện thoại của chính mình và dễ bị đi lạc vì không thể xét đoán biết mình đang ở đâu, do đó không thể để họ một mình mà phải có người trông nom trong giai đoạn này. Họ trở nên không yên, làm đi làm lại vài cử chỉ, nhất là về buổi chiều, hoặc nhắc đi nhắc lại một câu chuyện, một vài chữ hay cử động vô nghĩa, thí dụ như ngồi xé giấy.

Càng ngày họ càng không thể nói chuyện được với ai và dẫn đến những cử chỉ kỳ lạ như hoảng loạn, kết tội người khác ngoại tình hay ăn cắp.

Bứt rứt, giận dữ, khó chịu đưa tới chửi thề, đấm đá, đánh cắn, chụp giựt người khác hay la hét.
3. Giai đoạn nặng
Trong giai đoạn này, người bệnh cần được giúp đỡ trong mọi mặt sinh sống. Họ không thể tự đi lại và sau cùng không thể ngồi được. Họ không biết tự đi vệ sinh, không nói rõ được. Họ không nhận biết người nhà. Họ dễ bị sặc vì khó nuốt và có thể từ chối ăn uống.
Bệnh sẽ kéo dài bao lâu?
Mực độ tiến triển của bệnh thay đổi tùy theo mỗi người. Một số người bệnh nặng khoảng năm năm sau khi được định bệnh. Những người khác có thể kéo dài 10 năm. Trung bình, người bệnh sống khoảng 8 tới 10 năm sau khi định bệnh. Một vài người sống lâu tới 20 năm. Đa số bệnh nhân không chết vì bệnh Alzheimer's mà chết vì những nguyên do khác như sưng phổi, nhiễm trùng đường tiểu hay biến chứng sau khi té.
B. Ngăn ngừa bệnh Alzheimer's: tập thể dục là cách tốt nhất
Một báo cáo gần đây nhất của Hội bệnh Alzheimer's tiên đoán là 10 triệu người Mỹ thế hệ baby boomer tức sinh ra sau thế chiến thứ 2 sẽ bị bệnh Alzheimer's (tức tỉ lệ 1/8) khiến những người trong lứa tuổi này thấy lo sợ không ít. Hiện nay đã có vài loại thuốc làm bệnh chậm tiến triển nhưng con đường tìm ra thuốc chữa hãy còn rất gian nan. Trong lúc chờ đợi thuốc chữa bệnh, chúng ta hãy nghe các nhà nghiên cứu nói về kết quả của họ.

Càng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy vận động thân thể mỗi ngày không những chỉ có tác dụng tốt lên hệ tim mạch và giữ cho khỏi lên cân quá nhiều mà còn có thể ngăn ngừa chứng bệnh lú lẫn quái ác. Những nghiên cứu trên dân số cho thấy tập thể dục mỗi ngày sao cho nhịp tim tăng lên trong ít nhất 30 phút có thể làm giảm nguy cơ bị bệnh.

Trong một nghiên cứu trên chuột, người ta thấy vận động thân thể có vẻ như ngăn chận được những thay đổi của óc đưa tới bệnh Alzheimer's .

Một nghiên cứu có tính chất quan sát về liên hệ giữa vận động với hoạt động của trí óc trên 6000 phụ nữ từ 65 trở lên trong vòng 8 năm, cho thấy những phụ nữ thường xuyên tập thể dục ít bị sút giảm trí óc như những phụ nữ thụ động.

Một nghiên cứu khác tại viện đại học Chicago được thực hiện trên những con chuột đã được nuôi sao cho óc bị những mảng giống như óc bệnh lú lẫn. Một số chuột được cho vận động thường xuyên, số còn lại không được vận động. Óc của những con chuột vận động nhiều có từ 50 đến 80% ít mảng plaque gây bệnh hơn những con thụ động. Chuột vận động cũng tiết ra nhiều chất phân hóa tố chống tạo ra plaque.
Họ kết luận: “Vận động thân thể thường xuyên có lẽ là cách tốt nhất để ngừa bệnh Alzheimers, tốt hơn cả thuốc men, vận dụng trí óc hay thuốc bổ và ăn uống kiêng cữ.
C. Cách nói chuyện với bệnh nhân Alzheimer's
Bệnh nhân Alzheimers thường dần dần mất khả năng đối thoại khiến người nói chuyện với họ không hiểu nổi họ đang nghĩ gì, nói gì. Do đó, nói chuyện với người bệnh là việc rất khó, chúng ta nên tìm hiểu rõ để bớt được sự bực dọc cho mình và cho họ.
Tiến triển của bệnh:
Những tuyến đường thần kinh trong óc của người bệnh Alzheimer thường bị phá hủy khiến họ không nhớ và không còn hiểu những chữ thường dùng nữa. Họ có thể cảm tưởng như biết chữ đó, có sẵn trên đầu lưỡi nhưng không thể nói ra, vì thế họ rất bực dọc.
Họ có thể dùng một chữ khác để thay thế chữ định nói dù ý nghĩa khác hẳn. Hay họ có thể chế ra một chữ mới để thế chữ họ định nói. Họ cũng có thể như bị kẹt vô một cái rãnh trên máy hát, nhắc đi nhắc lại mãi một câu hỏi.
Người bệnh Alzheimer's cũng có thể
- Bị mất dòng suy nghĩ
- Vật lộn với cấu trúc của câu, chữ cho có nghĩa
- Cần thêm thời gian để hiểu bạn muốn nói gì
- Chửi thề hay nói lỗ mãng
Phải làm sao?
- Hiểu người bệnh. Hiểu rằng họ không cố tình làm như vậy.
- Cho họ thấy mình chú ý tới họ. Nhìn thẳng vào mắt họ và luôn ở gần bên để người bệnh biết là bạn đang lắng nghe và muốn hiểu họ.
- Không nói chuyện ở chỗ đông người và nhiều tiếng động
- Dùng chữ đơn giản, câu ngắn. Tránh nói những câu phức tạp hay đưa lời chỉ dẫn. Khi cần, nói chậm và chia thành từng đoạn một. Đưa ra quá nhiều giai đoạn cùng lúc sẽ làm bệnh nhân rối loạn thêm.
- Không ngắt câu bệnh nhân có thể cần nhiều phút để trả lời. Không phê bình, vội vã, sửa lỗi họ, cãi nhau với họ.
- Đưa ra vật dụng hay hình ảnh rõ ràng khi nói. Thí dụ dẫn họ đến cầu tiêu để hỏi họ cần đi hay không.
- Không cãi nhau với người bệnh. Họ đã mất khả năng lý luận và phán đoán, do đó cố chứng minh họ sai chỉ là việc không tưởng, làm cả hai cùng tức giận.
- Giữ bình tĩnh và thư giãn. Dù bực tức, bạn nên giữ giọng hòa nhã, bình tĩnh. Nếu lời nói và giọng nói không đi đôi với nhau, bệnh nhân sẽ khó hiểu. Giọng nói, cử chỉ của bệnh nhân nhiều khi nói lên nhiều hơn chính tiếng nói của bạn.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Thursday, April 21, 2016

Nghẽn kênh dẫn nước mắt (tear duct obstruction)

Nước mắt được sản xuất liên tục ở các tuyến nước mắt để giữ cho phía trước mắt đừng khô. Đồng thời nước mắt được một hệ thống dẫn lưu đem xuống mũi, gồm mỗi bên một ống dẫn đi từ hai lỗ trên bờ mí mắt (puncta) hứng nước mắt ở gần mũi lúc chớp mắt, qua hai kênh nhỏ trên và dưới (canaliculi), họp lại thành một cái túi lệ (lacrimal sac), đi vào ống lệ chạy xuyên qua xương mũi vào mũi (nasolacrimal duct).
Ở bé mới sinh, 6% có thể bị nghẽn ống dẫn nước mắt.
(Nguồn: Henry Gray Anatomy of the Human Body/Wikipedia)
Lý do:
•    Thường gặp nhất: phần cuối ống lệ chưa thông, còn một màng mỏng chặn lại (valve of Hasner);
•    Nhiễm trùng;
•    Xương đè trên ống lệ;
•    Phần nước mắt vào lỗ trên mí mắt (puncta) bị nghẽn hay không hiện hữu (tồn tại)(imperforate lacrimal puncta);
•    Ở người lớn, nguyên nhân có thể liên hệ tới tuổi già, lớp tế bào trong ống có thể dày ra, các cơ cấu trong mũi bất bình thường làm nghẽn đường nước mắt chảy, hay biến chứng sau khi phẫu thuật vùng mắt, mũi.

Triệu chứng:
•    Phụ huynh có thể phát hiện mắt em bé nhem hay ghèn ngay trong tuần đầu. Thường là một bên, có khi cả hai bên.
•    Mắt luôn luôn ướt, mí mắt lem nhem, hoặc nước mắt trào chảy xuống. Có thể lúc nhiều lúc ít, nghẹt nhiều hơn lúc bé bị cảm, nghẹt mũi.
•    Có ghèn, trắng hoặc hơi vàng hay vàng xanh, mí mắt dính nếu bị nhiễm trùng. Đáng lẽ vi trùng được nước mắt cuốn đi thì lại bị dồn lại trên mắt, nên dễ nhiễm trùng.
•    Trường hợp viêm, có thể thêm nhiễm trùng, vùng túi nước mắt bị viêm, khoé mắt về phía mũi sưng đỏ và đau (dacryocystitis).

Chữa trị:
•    Mỗi lần thay tã cho em bé (cho dễ nhớ, nghĩa là nhiều lần trong ngày), dùng ngón tay (sạch, nhớ cắt móng tay ngắn) đặt lên giữa sống mũi và khoé mắt, chà lên chà xuống chừng 5 lần. Mục đích là dùng ngón tay massage ống dẫn nước mắt nằm dưới da để giúp nước mắt dễ lưu thông.
•    Nếu bị cảm, dị ứng, nghẹt mũi, nhớ hút mũi sạch đàm nhớt, hay dùng nước muối dùng cho nhỏ mũi (normal saline nose drops), hay cho uống thuốc dị ứng nếu có cần. Đa số trường hợp tự nó sẽ khỏi, không cần can thiệp.
•    Những trường hợp nhiễm trùng có thể cần thuốc kháng sinh nhỏ mắt hay uống.
•    Những trường hợp kéo dài quá năm đầu tiên, hay có nguyên nhân đặc biệt, bác sĩ có thể phải thông ống dẫn nước mắt (nasolacrimal duct probing); các em bé có thể dùng thuốc tê (local anesthetic), các em lớn hơn có thể cần thuốc mê nhẹ, ngắn (short general anesthesia).
•    Có lúc, phải đặt ống (stent) vào ống dẫn nước mắt; hay probing để giữ đường nước mắt được thông.
•    Hiếm hơn, có lúc cần giải phẫu để giải quyết vấn đề (vd: dacryocystorhinostomy, DCR, mở xương mũi và tạo đường thoát cho nước mắt, nhớt đi thẳng từ các hai kênh nhỏ [canaliculi] vào niêm mạc mũi).

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Wednesday, April 20, 2016

Quai bị


Trong vòng vài tháng nay đã có 3 trường hợp bệnh quai bị xẩy ra trong quận Cam, nơi có đông người Việt sinh sống. Các trường hợp này đều xẩy ra nơi các sinh viên đại học sống bên ngoài tiểu bang nhưng lúc bệnh thì đang ở quận Cam.
Ở các nước chậm tiến, bệnh quai bị được biết đến nhiều vì rất thông thường, khác với tại Mỹ là nơi mà việc chích ngừa quai bị đã làm tỉ lệ bệnh này hạ xuống đáng kể; cho đến thời gian gần đây, cũng như bệnh sởi, bệnh quai bị có vẻ đã trở lại vì dân chúng ngày nay “ngại” chích ngừa.
Quai bị là một bệnh nhiễm virus, làm sưng tuyến nước bọt ở mang tai (parotid glands) - đây là một trong ba đôi tuyến nước bọt nằm bên dưới và phía trước của tai. Bệnh có thể gây sưng một hoặc cả hai tuyến mang tai. Khác với tin tưởng trong dân gian là hễ con trai bị quai bị thì sẽ bị sưng “hòn dái” và sẽ bị vô sinh, không thể có con được, trong thực tế biến chứng này ít khi xảy ra.
Triệu chứng
Người bị nhiễm virus quai bị có thể không có triệu chứng hoặc bị rất nhẹ. Triệu chứng thường xuất hiện khoảng 2- 3 tuần sau khi nhiễm virus và có thể gồm:
- Sưng, đau tuyến nước bọt ở một hoặc cả hai bên mặt (viêm tuyến mang tai)
- Sốt
- Đau đầu
- Đau bắp thịt
- Cảm thấy yếu và mệt mỏi
- Ăn mất ngon
- Đau khi nhai hoặc nuốt
Dấu hiệu chính của bệnh quai bị là tuyến nước bọt bị sưng khiến má phồng ra.
Khi nghi ngờ con mình bị quai bị, cha mẹ nên đem con đi khám bệnh ngay và nên báo trước để khỏi phải ngồi chờ trong phòng đợi lâu, có thể lây bệnh cho các trẻ khác.
Các loại virus và vi trùng khác cũng có thể làm sưng các tuyến mang tai, trông giống như bệnh quai bị.
Nguyên nhân
Nguyên nhân gây ra bệnh quai bị là virus quai bị, lây lan dễ dàng từ người này sang người khác qua nước bọt. Nếu không có miễn dịch nhờ chích ngừa, người ta có thể bị lây quai bị khi hít thở những giọt nước bọt li ti của người bệnh bắn ra sau khi hắt hơi hoặc ho. Cũng có thể lây quai bị từ việc chia sẻ đồ dùng hoặc ly uống nước với người bị bệnh quai bị.
Các biến chứng
1.Viêm: Hầu hết các biến chứng từ quai bị liên quan đến việc viêm và sưng một số bộ phận của cơ thể, chẳng hạn như:
- Tinh hoàn (hòn dái). Viêm tinh hoàn gây ra sưng một hoặc cả hai tinh hoàn ở người nam đã đến tuổi dậy thì. Viêm tinh hoàn gây đau, nhưng hiếm khi dẫn đến vô sinh (không có khả năng làm cha).
- Tuyến tụy tạng. Viêm tụy tạng làm đau ở vùng bụng trên, buồn nôn và ói mửa.
- Buồng trứng và vú. Những phụ nữ đã đến tuổi dậy thì có thể bị viêm buồng trứng hoặc vú. Khả năng sinh sản ít bị ảnh hưởng.
- Óc. Virus quai bị, có thể gây ra viêm não, dẫn đến các vấn đề về thần kinh và đe dọa tính mạng.
- Màng và chất lỏng xung quanh não và tủy sống. Tình trạng này, được gọi là viêm màng não, có thể xảy ra nếu virus quai bị lan ra máu và đến hệ thần kinh trung ương.
2. Các biến chứng khác
- Mất thính lực. Trong trường hợp hiếm, quai bị có thể gây ra mất vĩnh viễn thính giác, ở một hoặc cả hai tai.
- Sẩy thai. Mặc dù chưa được chứng minh, bị quai bị trong khi đang mang thai, đặc biệt là thời gian đầu, có thể dẫn đến sẩy thai.
Chích ngừa
Quai bị gây ra do virus nên thuốc trụ sinh không được dùng được chữa trị. Tuy nhiên, hầu hết các bệnh nhân, không bị biến chứng đều bình phục sau khoảng hai tuần.
Bệnh nhân không còn được coi là truyền nhiễm và có thể trở lại làm việc hoặc đi học một tuần sau khi được chẩn đoán bệnh quai bị.
Một người được xem là miễn dịch với bệnh quai bị nếu trước đó đã từng bị bệnh hoặc nếu đã được chủng ngừa bệnh quai bị.
Thuốc chủng ngừa quai bị thường được kết hợp với sởi và ban Đức (rubella) gọi tắt là MMR. Trẻ em nên được chích ngừa bằng MMR 2 lần cách nhau 3- 4 năm trước khi đi học.

1. Không cần phải chủng ngừa nếu:
- Đã chích hai liều MMR sau 12 tháng tuổi hoặc một liều MMR cộng với một liều thứ hai của thuốc chích ngừa sởi
- Đã chích một liều MMR và không có nguy cơ cao tiếp xúc với bệnh sởi hoặc quai bị
- Thử máu cho thấy miễn dịch với bệnh sởi, quai bị và rubella
- Đàn ông sinh trước năm 1957
- Phụ nữ sinh trước năm 1957 và không có ý định có thêm con nữa

2.Ngoài ra, không nên chích ngừa MMR nếu:
- Là phụ nữ mang thai hoặc dự định có thai trong vòng bốn tuần tới
- Từng bị phản ứng dị ứng đe dọa đến tính mạng với gelatin hoặc neomycin
- Có hệ thống miễn dịch bị tổn hại nghiêm trọng, hoặc những người đang uống corticoid

3. Những ai nên chủng ngừa MMR:
- Những người không thuộc vào các trường hợp trên
- Phụ nữ không mang thai trong độ tuổi sinh đẻ
- Học đại học, trường dạy nghề hoặc trường sau trung học
- Làm việc trong một bệnh viện, cơ sở y tế, trung tâm chăm sóc trẻ hay trường học
- Sẽ đi du lịch ở nước ngoài

4.Những người nên chờ đợi ít lâu trước khi chủng ngừa MMR:
- Vừa bị bệnh nặng. Nên chờ cho đến khi hồi phục.
- Đang mang thai. Chờ cho đến khi sau khi sinh con.

5.Những người nên hỏi bác sĩ trước khi chích:
- Người đang bị ung thư
- Người bị bệnh về máu
- Người có một bệnh ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch như HIV / AIDS
- Người đang được điều trị bằng thuốc như steroid, có ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch
- Người đã chích ngừa một thứ khác trong vòng bốn tuần qua
Tác dụng phụ của thuốc chích ngừa
Thuốc ngừa MMR không gây ra bệnh, và hầu hết những người chích ngừa đều không bị tác dụng phụ. Một số ít có thể bị sốt nhẹ hoặc phát ban, và một số người (đa số là người lớn) bị đau khớp một thời gian ngắn. Ít hơn 1 phần triệu liều gây ra phản ứng dị ứng nghiêm trọng.
Mặc dù sự liên hệ giữa MMR và bệnh tự kỷ đã được liên tiếp đặt ra, các thông cáo từ Viện Hàn Lâm Nhi Khoa Mỹ, Viện Y Học và CDC đều kết luận rằng không có liên hệ giữa MMR và bệnh tự kỷ.
Chữa trị
Thời gian và nghỉ ngơi là các phương pháp điều trị tốt nhất. Có thể theo những cách sau đây để giảm bớt đau và khó chịu cũng như tránh bớt lây nhiễm.
- Nghỉ ngơi cho đến khi hết sốt
- Cô lập bệnh nhân để khỏi lây bệnh sang người khác. Có bệnh nhân có thể lây nhiễm một tuần sau khi xuất hiện các triệu chứng.
- Dùng thuốc giảm đau như acetaminophen (Tylenol), ibuprofen (Advil, Motrin IB) để giảm bớt các triệu chứng. Người lớn cũng có thể sử dụng aspirin nhưng trẻ em và thanh thiếu niên hồi phục từ các triệu chứng giống như cúm không nên dùng aspirin ví có liên quan đến hội chứng Reye, một bệnh hiếm gặp nhưng có khả năng đe dọa tính mạng.
- Đắp miếng gạc ấm hoặc lạnh để các tuyến bị sưng bớt đau.
- Đeo miếng che chắn và chườm lạnh để làm bớt đau nếu bị sưng tinh hoàn.
- Tránh các loại thực phẩm cần phải nhai nhiều. Ăn thức ăn mềm, chẳng hạn như khoai tây nghiền hoặc bột yến mạch nấu chín, hay dùng xúp.
- Tránh các thức ăn chua như cam quýt hoặc các loại nước ép vì chúng kích thích sản xuất nước bọt.
- Uống nhiều chất lỏng.
- Kiểm soát xem có bị biến chứng không. Gọi cho bác sĩ nếu bệnh nhân bị: sốt 103 F (39 C) hoặc cao hơn, ăn uống khó khăn, trở nên lẫn lộn hoặc mất phương hướng, đau bụng, đau và sưng tinh hoàn.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Monday, April 18, 2016

Màu thời gian

Tuổi tác, tình trạng sức khỏe, di truyền và các yếu tố môi trường tất cả đều là những yếu tố ảnh hưởng đến việc tóc bị bạc đi. Trong đó tuổi tác có vẻ là yếu tố quan trọng và thường gặp nhất.
Có người cho rằng tóc bạc là khởi đầu của sự già cỗi. Có người coi nó như là một dấu hiệu của sự từng trải.
Nhiều người tin rằng bạc tóc là hậu quả của sự lo âu căng thẳng.
Nếu quan niệm rằng “trẻ” là khả năng có thể hấp thụ được chất bổ, những điều hữu ích, để thay đổi, vươn lên, thì dù bao nhiêu tuổi, tóc xanh hay bạc, đều vẫn “trẻ.”
Còn nếu không biết rút tỉa kinh nghiệm từ cuộc sống, cố chấp, sai bao nhiêu lần vẫn cứ hoàn sai không học được gì, thì dù đầu bạc đến đâu, có “lên voi xuống chó” đến đâu. Có lẽ, cũng không thể gọi là “từng trải.”
Dù có nhiều truyền thuyết về một số nhân vật chỉ quá lo lắng trong một đêm mà tóc chuyển sang bạc trắng, cho đến nay vẫn chưa có chứng cớ khoa học nào cho thấy rằng sự lo lắng có thể làm thay đổi các tế bào sắc tố khiến cho tóc chuyển màu qua đêm.
Tại sao tóc bạc?
Tóc bạc bắt đầu khi cơ thể chúng ta ngưng sản xuất một chất tạo ra màu gọi là sắc tố (melanin). Cả mái tóc của chúng ta bao gồm nhiều dải tóc (strands of hair). Mỗi dải tóc mọc ra từ một nang tóc (follicle) trong đó có chứa các tế bào chứa sắc tố gọi là các tế bào sắc tố (melanocytes). Các tế bào sắc tố chuyển sắc tố sang các tế bào tạo ra lớp bọc ngoài của tóc (keratinocytes) làm cho tóc có màu và sáng mượt. Có hai loại sắc tố:
-Eumelanin có màu nâu đậm hay đen.
-Pheomelanin có màu vàng hoe (reddish yellow).
Theo thời gian, số lượng sắc tố trong keratinocytes giảm đi. Tóc bạc đi, đơn giản chỉ là tóc đã bị giảm sắc tố. Khi không còn chút xíu sắc tố nào cả thì tóc bạc trắng. Sự suy giảm sắc tố cũng làm cho tóc bớt mượt đi. Do đó, khi tóc bạc đi, nó cũng trở nên khô và thô hơn.
Tóc bạc đi như thế nào?
Trong quá trình bạc tóc, các nang tóc tạo ra các dải tóc bạc một cách ngẫu nhiên. Các dải tóc bạc đầu tiên thường xuất hiện ở vùng màng tang (thái dương) và đỉnh đầu. Người ta vẫn chưa rõ tại sao tóc bạc thường bắt đầu ở các khu vực này trước tiên.
Thật ra, mỗi sợi tóc không chuyển từ đen sang bạc. Mỗi ngày, một cách bình thường, bao giờ cũng có một số tóc rụng đi và được thay thế bằng tóc mới. Vào bất cứ lúc nào cũng vậy, khoảng 85 đến 90 phần trăm số lượng tóc của cả mái tóc ở trong tình trạng hoạt động, trong khi phần còn lại trong tình trạng nghỉ ngơi.
Bình thường, mỗi dải tóc phát triển trong vòng hai tới bốn năm. Sau đó, nó sẽ bước vào giai đoạn nghỉ ngơi khoảng hai tới bốn tháng. Cuối cùng, nó sẽ rụng đi và được thay thế bằng tóc mới. Trung bình, mỗi người chúng ta rụng khoảng 50 đến 100 dải tóc mỗi ngày. Tóc đen thường che phủ tóc bạc, khi tóc rụng nhiều trong một thời gian ngắn, như khi bị quá căng thẳng, bệnh nặng, sau khi mổ, số tóc đen bên ngoài rụng đi nhiều làm cho mớ tóc bạc “lòi” ra, khiến cho người ta có cảm giác như là tóc bạc đi chỉ sau một đêm. Các tình trạng bị stress như kể trên có thể làm rụng đi đến 300 dải tóc mỗi ngày.
Khi nào tóc bắt đầu bạc?
Trong giai đoạn đầu của quá trình bạc tóc, các tế bào sắc tố vẫn hiện diện nhưng không hoạt động. Dần dần, chúng bắt đầu giảm đi. Quá trình bạc tóc tự nhiên này có thể bắt đầu ngay từ lúc mười mấy tuổi. Tuy nhiên, tóc bạc thường bắt đầu được ghi nhận vào lứa tuổi ba mươi ở đại đa số. Một số nghiên cứu cho thấy rằng đàn ông thường bắt đầu có tóc bạc vào khoảng tuổi ba mươi, trong khi ở phái đẹp, tóc thường bắt đầu bớt xanh vào khoảng tuổi băm lăm.
Di truyền cũng là một yếu tố. Ở một số gia đình, nhiều người bắt đầu có tóc bạc vào tuổi hai mươi.
Tuy nhiên, việc khi nào tóc bắt đầu bạc rất khác nhau giữa người này với người khác, sắc dân này với sắc dân khác. Và do đó các chuyên gia về da và tóc cũng như các nhà nghiên cứu về di truyền đã kết luận rằng tuổi tác không phải là yếu tố chính xác nhất để biết được khi nào tóc bắt đầu bạc.
Một số tình trạng có thể là nguyên nhân bạc tóc
Vì thiếu tài trợ cho việc nghiên cứu về vấn đề bạc tóc (chẳng làm chết ai) này, người ta vẫn không có nhiều chứng cớ khoa học về chuyện này. Tuy nhiên, một số nghiên cứu lẻ tẻ cho thấy một số yếu tố có thể góp phần vào việc làm cho tóc bạc:
-Thuốc lá: Một nghiên cứu cho thấy rằng những người hút thuốc dễ bị bạc tóc sớm gấp bốn lần so với những người không hút.
-Ðôi khi, tóc bạc đi bất thường có thể là dấu hiệu của một số bệnh như:
*Bệnh thiếu máu ác tính (pernicious anemia): thường do thiếu sinh tố B12. Ðôi khi liên quan đến việc giảm việc sản xuất các sắc tố.
*Hội chứng Werner (một hội chứng bao gồm các triệu chứng lão hóa vào tuổi hai mươi).
*Bất cứ bệnh nào làm rụng tóc đều làm cho tóc bạc bị “lòi” ra (như đã trình bày bên trên).
*Một số thuốc gây ra rụng tóc cũng làm cho mái tóc nhìn có vẻ bạc đi. Ví dụ như thuốc lithium thường dùng trị bệnh hưng trầm cảm (bipolar disorder), methotrexate thường dùng trị ung thư và viêm khớp dạng thấp.
Tuy nhiên, có một hiện tượng người ta vẫn chưa giải thích được là ở một số bệnh nhân bị rụng tóc bạc do hóa trị liệu (chemotherapy - thường dùng để trị ung thư), khi tóc mọc trở lại, nó có thể lại đen trở lại. Hiện tượng này gợi ý rằng các tế bào sắc tố tạo ra ít sắc tố có thể được kích thích để tạo ra nhiều sắc tố hơn. (Hy vọng hiện tượng này sẽ được nghiên cứu kỹ hơn để chế ra thuốc trị bạc tóc sau này).
Có cách nào trị bạc tóc không?
Nếu bị bạc tóc một cách bất thường do rụng quá nhiều tóc, cách điều trị là trị hoặc tránh các nguyên nhân (nếu có thể được) như đã kể trên.
Trên thị trường, có một số sản phẩm hứa hẹn sẽ làm cho tóc bạc trở lại màu như lúc còn trẻ. Tuy nhiên, cho tới nay chưa có chứng cớ khoa học nào về sự hiệu quả của các loại thuốc này.
Cho tới nay, cách trị bạc tóc duy nhất là... nhuộm tóc thường xuyên. (Tuy nhiên nếu lông mũi cũng bị bạc thì rất khó... che giấu).
Nếu có triệu chứng gì khác bênh cạnh việc có vài sợi tóc bạc, ta nên đến bác sĩ để được thăm khám xem có bị bệnh gì (ví dụ như là thiếu máu ác tính) hay không.

Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng 

Sởi Ðức - Rubella

Rubella, còn được gọi là sởi Ðức (German measles) hoặc sởi-ba-ngày (three-day measles), do virus Rubella gây ra.
Rubella cũng gây ra ban như sởi (tiếng Mỹ là measles, hoặc rubeola). Tuy nhiên virus rubella là một loại virus (dĩ nhiên là) khác với virus sởi (rubeola). Rubella thường ít lây lan hơn, và thường cũng nhẹ hơn sởi.
Rubella đã được CDC (Centers for Disease Control and Prevention, Các Trung Tâm Phòng và Kiểm Soát Bệnh của Hoa Kỳ) tuyên bố là đã bị tiêu diệt (elimitated) ở nước Mỹ. Tuy nhiên, các bậc cha mẹ nên cẩn thận cho con cái và chính mình chích ngừa (trong mũi thuốc MMR - ngừa cả ba quai bị, sởi và rubella) như được khuyến cáo, để đề phòng bệnh quay trở lại. Nhất là việc du lịch đi đây đi đó, đến những nơi bệnh này còn có thể lưu hành, là chuyện phổ biến hiện nay.
Rubella lây như thế nào
Virus rubella lan truyền khi bệnh nhân ho hay ách xì (hắt hơi). Nó cũng có thể lây qua việc tiếp xúc trực tiếp với chất tiết từ hệ hô hấp của bệnh nhân (như đàm, nước mũi). Nó cũng có thể lan truyền từ mẹ đang có bầu sang bào thai qua đường máu.
Bệnh nhân bị rubella có thể lan truyền bệnh trong khoảng từ 10 ngày trước khi triệu chứng xuất hiện, cho đến 2 tuần sau khi ban biến mất.
Rubella hiếm gặp ở Mỹ, vì hầu hết trẻ em đều được chủng ngừa từ sớm để phòng bệnh này. Tuy nhiên, bệnh này vẫn đôi khi xảy ra, thường là ở người lớn, sinh ra ở nước ngoài, không được chủng ngừa.
Dù là hơn phân nửa các nước trên thế giới đã áp dụng thuốc chủng Rubella, bệnh này vẫn còn phổ biến ở nhiều nước. Và đó là điều ta cần để ý, nhất là khi đi du lịch. Nhất, nhất là khi ta đang, hay có thể có bầu.
Các triệu chứng của Rubella
Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh thường nhẹ đến nỗi nhiều khi ta cũng không nhận ra, nhất là ở trẻ em. Nếu có triệu chứng, chúng thường xuất hiện từ khoảng hai đến ba tuần sau khi bị lây. Chúng thường kéo dài hai đến ba ngày, và có thể bao gồm:
-Sốt nhẹ (khoảng từ 102 độ F hay 38.9 độ C trở xuống).
-Nhức đầu 
-Nghẹt hoặc sổ mũi
-Ðỏ mắt
-Nổi hạch đau ở sau cổ, dưới tai.
-Ban màu hồng, mịn bắt đầu ở mặt, nhanh chóng lan xuống thân mình, rồi ra tay chân. Sau đó ban biến mất cũng theo thứ tự như vậy.
-Ðau khớp, nhất là ở phụ nữ trẻ.

Các biến chứng của Rubella
Rubella thường nhẹ. Sau khi khỏi bệnh, ta thường có miễn nhiễm suốt đời. Một vài phụ nữ có thể thấy đau ở các ngón tay, cổ tay và đầu gối, thường kéo dài khoảng một tháng.
Hiếm gặp, rubella có thể dẫn đến viêm tai giữa hoặc viêm não.
Tuy nhiên, nếu đang có thai mà bị nhiễm rubella, em bé sinh ra có thể bị các dị tật trầm trọng.
Có thể đến 85 phần trăm trẻ sơ sinh từ các bà mẹ bị rubella trong vòng 11 tuần đầu của thai kỳ sẽ bị hội chứng rubella bẩm sinh. Hội chứng này bao gồm một hoặc nhiều các vấn đề sau đây ở các bé:
-Chậm phát triển
-Cườm khô (cataracts)
-Ðiếc
-Bị các khiếm khuyết tim bẩm sinh
-Khiếm khuyết ở các cơ quan khác
-Chậm phát triển tâm thần

Nguy cơ bào thai bị hội chứng này cao nhất nếu mẹ bị nhiễm rubella trong ba tháng đầu thai kỳ. Tuy nhiên, dù bị nhiễm bệnh này trễ hơn trong lúc có thai, nguy cơ vẫn còn cao cho bào thai

Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng 

Tuesday, April 12, 2016

Hội chứng sợ không gian hẹp (Claustrophobia)

Trong y khoa, claustrophobia được định nghĩa như là: "Một sự sợ hãi bất bình thường, dai dẳng đối với những không gian đóng, hoặc sợ bị nhốt lại, ví dụ trong thang máy, trong hầm, hay trong bất kỳ không gian giới hạn nào khác.”
Trong định nghĩa này chúng ta để ý hai thành phần:
•    Sợ bất bình thường: sợ không có lý do chính đáng (irrational fear) và dai dẳng, chứ không phải một lần, khi có khi không.
•    Không gian giới hạn (confined space): chỗ chật chội, khép kín, sự chật chội và khép kín có thể do sự hiện diện của đám đông chung quanh.
Tiếng latin có chữ claudere là đóng lại. Từ đó có động từ tiếng Anh là "to close" có nghĩa là đóng lại ("closet" trong nhà bên Mỹ chỉ những tủ trong vách đóng kín để giấu các đồ vật), và danh từ "claustrum" tiếng la-tinh nghĩa là một chỗ là "chỗ đóng kín, chỗ bít bùng." Cộng vào đó căn "phobia" có nghĩa là sợ, chữ Hán gọi là "khủng". Việt Nam dịch là “bệnh sợ chỗ vây kín” hay như vị thính giả nêu ở đây "hội chứng phòng kín" hay "dị ứng với không gian hẹp."
Thật ra nếu vào một nơi chật hẹp, đóng kín, thì hầu như chẳng ai thích hay thấy thoải mái cả. Vì vậy mà hiện nay, trong tiếng Anh thông thường, không phải y khoa bệnh lý, người ta hay dùng tính từ "claustrophobic"để mô tả cảm giác sợ hãi vì đang ở trong một nơi chật chội hay đông người, hoặc một nơi có vẻ như khó thoát ra được một cách nhanh chóng; hay để chỉ những nơi làm cho mình sợ hay không thoải mái vì nó nhỏ, chật, hoặc khó thoát ra nhanh chóng được. Ví dụ rất nhiều người bình thường rất sợ khi phải vào máy để chụp hình cộng hưởng từ trường MRI hay CT scan vì họ phải nằm khá lâu trong một cái ống chật nên họ sợ (MRI, CT claustrophobia). Những máy MRI mở (open MRI) cho phép đứng ngồi, cử động và không làm cho bệnh nhân ngộp.
Dịch học: chừng 10% dân số bị chứng này, tuy có nơi ước tính 3- 37%. Đại đa số bệnh nhân không tìm cách chữa trị vì nhẹ thôi.
Triệu chứng:
Bệnh nhân hoảng sợ lúc ở một nơi, hay nghĩ đến một nơi chật, bít kín, hay đông người; cảm thấy hụt hơi, ngộp và bất an (distress). Những triệu chứng có thể kèm theo: nhức đầu, chóng mặt, thở nhanh, toát mồ hôi, tim đập mạnh, nhanh, miệng khô, tay chân run rẩy áp huyết lên cao, đau bụng, buồn nôn, muốn đi cầu, hay cơn khủng hoảng "panic attack", mất phương hướng.
Những triệu chứng thường gặp:
•    Vừa vào trong một phòng là đã tìm xem đường thoát hiểm EXIT ở đâu.
•    Vào phòng họp luôn luôn ngồi gần cửa ra vào.
•    Tránh đi xa lộ, xe lúc đường đông xe, giờ "rush hours".
•    Tránh đi thang máy mặc dù đi bộ lâu và mệt hơn.
•    Hoảng sợ lúc cửa xe, phòng đóng lại.
•    Tránh các cửa xoay (revolving door) lúc ra vào.
•    Sợ các nơi rửa xe bằng máy (carwash).
•    Sợ đi máy bay, hay vào phòng vệ sinh trên máy bay.
•    Sợ vào phòng thử áo quần, sợ đi vào hầm xe lửa.

Nguyên nhân:
1.    Đứa trẻ có thể từng té xuống giếng, xuống sông, bị ngộp, suýt chết đuối, bị thất lạc trong đám đông. Hay đứa bé bắt chước (vô ý thức) hành vi như vậy của những người trong gia đình.
2.    Những nghiên cứu y học cho thấy ở những người bị rối loạn hoảng sợ (panic disorder), amygdala (hạch hạnh nhân - là một bộ phận nhỏ ở dưới não bộ phụ trách về các sự lo âu, sợ hãi) nhỏ hơn bình thường (Fumi Hayano).(1)
3.    Ngoài ra, có khảo cứu cho thấy một số người bị claustrophobia do một gene bất thường (The human GPM6A gene located on chromosome 4q32-q34)(A El-Kordi) (2).
4.    Trong một số trường hợp, người ta nghĩ bệnh được truyền qua các di thể từ đời này qua đời khác vì trong quá khứ đã xa, tổ tiên đã thích ứng với một tình huống nào đó (ví dụ sợ có lý do những hang núi chật hẹp nguy hiểm), tuy rằng hiện nay những đe doạ đó không còn tồn tại nữa. Do đó, theo giả thuyết này (prepared phobia: "sẳn sàng để biết sợ"), bộ óc của chúng ta đã được lập trình (programmed) sẵn để chúng ta học "biết sợ" một một cách vô ý thức, một cách nhanh chóng, những tình huống có thể thể gây ngộp thở, chết đuối hay tù hãm.

Trị liệu:
1.    Cognitive behavioral therapy (CBT): giúp cho bệnh nhân hiểu là những nơi chốn gây sợ không có gì nguy hiểm hay đe doạ. Ví dụ giáo dục, giải thích cho bệnh nhân hiểu nguyên nhân của nỗi lo sợ của mình và tập cho bản thân người bệnh từ từ làm quen với những chỗ chật chội, bít bùng, đồng thời giúp cho họ kiểm soát những phản ứng do sợ sệt và lo âu gây ra (exposure treatment). (2) Những nhà khảo cứu ở Karolinska Institute (Sweden) cũng chứng minh rằng có thể chữa được các chứng sợ hãi (phobia) bằng cách nhìn những người khác đối phó một cách an toàn với những vật mà mình sợ. Nên lập đi lập lại loại "làm quen" gián tiếp này.
2.    Virtual reality: Làm quen với vật hay tình huống mà mình sợ bằng cách tiếp cận với chúng qua không gian ảo (ví dụ trải nghiệm đi máy bay)(6)
3.    Thuốc men: bác sĩ có thể dùng một số thuốc an thần để giúp bệnh nhân bớt lo âu, thuốc chống trầm cảm (antidepressants), thuốc beta blocker làm giảm hồi hộp, tim đập quá nhanh và mạnh lúc sợ sệt căng thẳng trong một số hoàn cảnh cần thiết, tuy nhiên không chữa từ gốc bệnh.
4.    Các kỹ thuât giúp thư giãn, ngồi thiền, kiểm soát hơi thở có thể giúp bệnh nhân bớt sợ sệt, lo âu, tự chủ hơn.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bụng 'bia'

"Bụng bia" (beer belly) là do mỡ tích tụ ở bụng, làm bụng lớn ra. Chính xác hơn, chúng ta có thể dùng từ "béo phì bụng" (abdominal obesity) hay "béo phì nột tạng" (visceral obesity).
Bụng bia thường đi cùng với một nhóm yếu tố cơ nguy khác của đời sống hiện nay làm cơ nguy bị bệnh tim mạch, bệnh tai biến mạch máu não và bệnh tiểu đường càng lúc càng cao trong dân chúng gọi là Hội chứng chuyển hoá (metabolic syndrome). Hội chứng này có thể trở thành nguy cơ gây bệnh tim mạch số một, thay thế vị trí của thuốc lá hiện nay. Biện pháp chính là thay đổi nếp sống, phần chính là ăn uống ít lại và vận động cơ thể nhiều hơn.
Hội chứng chuyển hoá (metabolic syndrome) gồm có:
•    Bụng quá lớn do mập, "bụng phệ" (abdominal obesity,"a large waistline", having an apple shape="hình dạng như trái táo, phình ra ở giữa, thay vì phình ra ở mông và đùi với hình dạng trái lê)
•    Mỡ triglycerides trong máu quá cao (hoặc đang cần phải uống thuốc để hạ xuống)
•    Cholesterol "tốt" quá thấp (HDL=High Density Lipoprotein; "good cholesterol"))
•    Áp huyết cao (hay đang dùng thuốc hạ áp huyết)
•    Đường trong máu quá cao lúc chưa ăn sáng (fasting blood glucose)

1)    Nói chung, béo phì bụng xảy ra lúc lượng calories được cơ thể hấp thụ nhiều hơn lượng calories được dùng trong các hoạt động khác nhau.
2)    Trong xã hội tây phương, các sinh hoạt cần đến thể lực càng ngày càng giảm đi: di chuyển bằng xe cộ, thang máy; ngay trong các siêu thị, phi trường cũng không cần đi bộ vì có máy cuốn đi; máy giặt, máy rửa chén. Những nhu cầu của cơ thể như toát mồ hôi lúc trời nóng, run lúc trời lạnh để các cơ phát nhiệt lúc trời lạnh đều không còn cần thiết vì đã điều hoà không khí. Cuộc sống gắn liền với truyền hình, máy tính, điện thoại di động làm giảm nhu cầu di chuyển cũng như cơ hội để di chuyển. Do đó lượng calories được dùng càng ngày càng ít, trừ trường hợp chúng ta chủ động tập thể thao, vận động đều đặn.
3)    Xã hội các nước đang phát triển cũng đưa người dân vào cuộc sống dư thừa calories này với xe hơi, xe gắn máy, máy điều hoà không khí, ti vi và nhu cầu ngồi trước màn hình, hay sự thu hút của màn hình. Đối với những nơi đô thị hoá cao, con người gần như bị nhốt trong nhà; nhất là trẻ em không được phép ra ngoài chạy nhảy thong thả như trước đây, một phần vì phải bận rộn học hành, một phần vì an ninh chung càng ngày càng bị đe doạ ở nơi đông đúc.
Ngoài ra ý thức người dân về các đe doạ sức khoẻ nói trên còn mới mẻ, chưa ăn sâu vào ý thức quần chúng như ở tây phương. Ngoài ra, cơ thể của người dân nước nghèo từng thích ứng với cuộc sống nghèo: tiêu thụ calories nhiều vận động cơ bắp nhiều để sinh tồn và nguồn calories từ thực phẩm tương đối thấp, do đó cơ thể đã tập thích ứng bằng cách hoạt động hữu hiệu hơn, chuyển hoá "dè xẻn" (“thrifty metabolism”). Cho nên đến lúc đột ngột đổi qua nếp sống đô thị hoá theo kiểu tây phương, sự dè xẻn này lại trở nên có hại: cơ thể tiếp tục tiết kiệm, dưới hình thức biến các calories dư thừa thành những lớp mỡ trong cơ thể quá mập phì.
4) Béo phì bụng xảy ra nhiều hơn với lượng fructose quá nhiều trong thức ăn. Fructose là loại đường đơn giản monosaccharide trích ra từ mía, củ cải đường và bắp. High Fructose Corn Syrup (HFCS) (xy-rô đường chứa một tỷ lệ fructose cao), cùng với glucose, và dùng chế biến các thực phẩm cho ngọt. Fructose là chất đường ngọt nhất, ngọt gấp đôi so với đường mía là sucrose (disaccharide kết hợp fructose và glucose). Ngoài ra, dùng nhiều quá fructose (cũng như corn syrup) có thể làm cholesterol "xấu" tăng lên, mỡ triglycerides tăng, áp huyết lên cao, bệnh gout (phong thấp do có nhiều acid uric trong máu), kháng insulin (ínsulin resistance, (tế bào không đáp ứng với insulin nên không tiêu thụ được đường), tiểu đường. Các thức ăn chế biến, nhất là các thực phẩm "ăn nhanh" như hamburger, nước ngọt soda, nước trái cây có thể chứa nhiều high fructose corn syrup và đây là thêm một lý do không nên ăn uống quá nhiều các thức ăn này.
Nên để ý là trái cây tươi, mặc dù chứa fructose là chất đường chính, lại là một thức ăn tốt vì có nhiều vitamin, sợi xơ và các hất antioxidant (chống oxy hoá). Ăn trái cây là điều tốt, trừ trường hợp ăn thái quá, vì trái cây cũng chứa calories đáng kể (100 Cal [kilocalories] trong một trái chuối), nên cần cẩn thận nếu thật sự muốn giảm cân.
5)    Lượng nước uống có cồn dùng tại Việt Nam đang tăng nhanh. Những người uống bia nhiều dễ bị bụng bự (beer belly hay pot belly) vì những lý do sau đây:
●    Rượu hay bia chứa nhiều năng lượng (calories). Một chai/ly (serving) bia (12 oz) chứa 150 Cal, nếu uống vài lon là đã có lượng calories đáng kể. Rượu hay bia chứa cồn ethanol (trung bình 4-5%) được gan "đốt" để biến thành năng lượng thay vì "đốt" các chất mỡ, do đó có tác dụng để dành mỡ, và có khuynh hướng để dành trong mỡ nội tạng, chứa trong xoang bụng.
●    Năng lượng dư thừa được tồn trữ dưới dạng mỡ. Do hệ thống nội tiết khác nhau, phụ nữ trữ mỡ dưới da, ví dụ đùi, tay, dưới da bụng, đàn ông thì khác, có lớp mỡ dưới da ít, và mỡ có khuynh hướng được tồn trữ trong xoang bụng, bám vào các nội tạng như gan, màng treo ruột (mesentery). Loại mỡ này có khuynh hướng xâm nhập vào gan qua tĩnh mạch cửa (portal vein) hơn mỡ từ các nơi khác.
●    Lúc uống rượu, nhậu, khẩu vị được kích thích, ăn ngon miệng và thường ăn những món nhiều calories và mặn (nhiều muối Natri) như pizza, gà chiên, khoai chiên.
●    Ở người già nam cũng như nữ, các hormone giảm đi nhiều, làm mỡ có khuynh hướng tụ lại ở khúc giữa của cơ thể. Đồng thời, nhu cầu calories cũng giảm vì ít hoạt động, tính cường cơ (tone) các cơ vách bụng cũng giảm đi, làm bụng lại có khuynh hướng phình to ra, "phệ" ở người được cung cấp qua nhiều calories từ rượu hay những thức ăn có quá nhiều chất béo bổ.
●    Ở Mỹ, những khảo cứu cho thấy nếu bụng "phệ" to quá 35 in (89 cm) ở đàn bà, trên 40 inch (101 cm) ở đàn đàn ông, làm tăng cơ nguy bệnh tim mạch và "hội chứng chuyển hoá". Mỡ nhiều trong xoang bụng bên cạnh gan cũng làm cho cơ nguy gan bị nhiễm mỡ (trên 5-10% gan là mỡ)(fatty liver disease, hepatic steatosis).

Tóm lại, "bụng bia" phần chính là do cơ thể quá nhiều calories dư và tích trữ năng lượng dư này dưới hình thức mỡ, với những yếu tố (calories từ rượu, giới tính nam) làm mỡ tích tụ trong bụng, bao quanh nội tạng (visceral obesity).
Biện pháp chính là vận động cơ thể, thể dục thể thao, ăn uống vừa đủ, thức ăn tươi, lành mạnh, quân bình (không quá nhiều dầu mỡ, không quá nhiều đường nhất là corn syrup) và nếu uống rượu, bia thì uống giới hạn, để ý ăn trước rồi "nhậu" sau để tránh ăn vặt quá nhiều lúc nhậu rượu.
Cuối cùng, nói về trách nhiệm của người bán thức ăn trong việc gây bệnh mập nơi người tiêu thụ. Ở Mỹ đã có rất nhiều áp lực đối với giới sản xuất thức ăn nhanh và họ đã lãnh trách nhiệm trong một số biện pháp như: ghi rõ lượng calories và thành phần đường, mỡ trên hộp thức ăn, ngưng dùng các mỡ trans-fat, giới hạn các ly nước ngọt quá lớn (“super-size”). Tuy nhiên, trách nhiệm vẫn trong tay người tiêu thụ, là người phải tự chế và quyết định món ăn thức uống của mình một cách thông minh và hiểu biết. Cách đây mấy năm, vài thiếu niên Mỹ đã kiện McDonald's vì đã làm cho họ mập. Đơn kiện đã bị toà án từ chối không xét xử vì không có cơ sở. Thêm nữa, các nhà làm luật trong 20 tiểu bang Mỹ đã quyết định cấm không cho kiện vớ vẩn (frivolous lawsuits) các công ty thức ăn nhanh theo kiểu này. Tóm lại, khác với trường hợp các hãng sản xuất thuốc lá bị kiện tụng và trừng phạt nặng nề vì các hậu quả thuốc lá, cho đến nay, ở Mỹ, trách nhiệm muốn ăn hay không vẫn nằm trong tay người ăn.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Chảy máu từ hệ tiêu hoá (GI bleeding)

1)    Sau dạ dày, ruột non to bằng ngón tay dài chừng 6,7m (22 feet, theo Cleveland Clinic) là nơi tiêu hoá thức ăn và hấp thụ chất dinh dưỡng, rồi tới ruột già dài 1,8 m là nơi các chất thải được cô đọng, nước được hấp thụ lại tuỳ theo nhu cầu cơ thể. Đoạn cuối nối với hậu môn là một ống thẳng (rectum=thẳng), dài chừng 10-15cm, phía dưới cùng phình ra thành ampulla (latinh ampulla =cái bình chứa). Lúc phân đầy trực tràng, vách trực tràng giãn ra và được những thụ thể (stretch receptors) trong vách ghi nhận, gây phản xạ đẩy phân ra khỏi hậu môn. Nếu bài tiết phân (defecation) chậm quá, thì gọi là bón (constipation).
2)    Cơ thể được cung cấp nhiều nước (uống nước, ăn đồ lỏng nhiều như cháo) thì ruột già hấp thụ nước ít, phân lỏng. Nếu thời tiết nóng, ra mồ hôi nhiều, hay ít uống nước, hay ói mửa mất nước, thì ruột già hấp thụ nước nhiều hơn để bảo vệ nước. Phân có khuynh hướng trở nên khô, thể tích phân nhỏ hơn, ít kích thích phản xạ của ruột già làm nó bóp lại (nhu động) để đẩy phân ra, do đó bệnh nhân phải rặn nhiều, làm tăng áp suất trong xoang bụng để đẩy phân ra ngoài.
3)    Ở Mỹ người ta hay dùng từ "GI bleeding" để chỉ hiện tượng chảy máu từ hệ tiêu hoá, Gi viết tắt gastrointestinal, nghĩa là gồm dạ dày và ruột, đó là chưa kể thực quản. Lúc máu chảy ở phần trên ống thực quản nhiều quá, có khả năng ói ra máu, thường là máu tươi hoặc máu cục.
Máu chảy ra ngả hậu môn vì hậu môn là đường đi ra duy nhất phía dưới. Nếu máu chảy từ phía trên nằm lâu mới ra ngoài thì làm cho phân màu đen (như dầu hắc trải đường, “melena”).
4)    Dễ hiểu nhất là người bị trĩ (hemorrhoids). Những tĩnh mạch phía trong trực tràng giãn nở, sưng to là nội trĩ (internal hemorrhoid), không đau vì vùng này ít dây thần kinh. Những tĩnh mạch của hậu môn (dưới da) gây ngoại trĩ, có thể đau đớn. Bệnh nhân không đủ nước, gây bón, phân cứng, ra khó khăn làm chảy máu ở các mạch máu trĩ, thường thấy máu tươi dính vào giấy lau đi cầu.
5)    Tuy nhiên trĩ không phải là nguyên nhân duy nhất làm máu chảy ở hậu môn. Danh sách các nguyên nhân chảy máu khác nhau, rất dài, chỉ nêu ra đây vài nguyên nhân quan trọng:
- Nứt hậu môn (anal fissure)
- Mạch máu giãn nở bất bình thường (angiodysplasia,vascular ectasia)
- Ung thư ruột già
- Túi cùng ruột già (diverticulum)
- Viêm ruột già (ulcerative colitis, Crohn disease)

6)    Bác sĩ có thể cần tìm hiểu thêm về các điều kiện có thể làm dễ chảy máu nói chung, trong đường tiêu hoá nói riêng: như bệnh gan, xơ gan, bệnh nhân dùng thuốc làm máu khó đông hơn như heparin, warfarin; thuốc làm giảm cơ năng các tiểu bản (platelets) ngăn không cho kết dính (aspirin, clopidogrel [Plavix, thuốc ngừa bệnh đau tim hay tai biến mạch máu não], NSAID như ibuprofen); làm yếu khả năng che chở của niêm mạc dạ dày và ruột ( thuốc giảm viêm không phải steroid/NSAID).
7)    Bác sĩ cũng cần tìm hiểu về bệnh sử của gia đình bệnh nhân. Ví dụ, hiện nay ở Mỹ (American Cancer Society), bệnh nhân trên 50 tuổi được khuyến cáo nên đi soi ruột già (colonoscopy) để truy tầm ung thư ruột già 10 năm một lần (cho người trung bình) hoặc thử nghiệm truy tầm máu trong phân mỗi năm, hay truy tầm DNA bất thường trong phân 3 năm một lần.
8)    Tuy nhiên, nếu bệnh sử (history) người bệnh hay gia đình họ có những yếu tố cơ nguy như bệnh viêm ruột, polyp ("thịt dư) ruột già, ung thư ruột già, gen gây ung thư ruột già (family history of a hereditary colorectal cancer syndrome), bác sĩ ruột có thể theo dõi và screen bệnh nhân (ví dụ colonoscopy) sớm hơn (trước tuổi 50), và thường xuyên hơn.
9)    Riêng về bệnh trĩ, nói chung uống nước đầu đủ, tránh các gia vị quá cay, hay chất có thể làm bón như chocolat, nên ăn trái cây, rau quả, thức ăn có sợi xơ giúp tạo nên lượng phân thích hợp cho trực tràng làm việc, vận động cơ thể, tránh ngồi lâu một chỗ nếu có thể, vệ sinh vùng hậu môn, tránh lau chùi nhiều quá, tránh rặn quá mạnh, tránh không khiêng đồ nặng (làm áp suất trong bụng tăng cao); có thể dùng những máy tự động phun nước rửa lúc đi cầu, có thể giúp làm bệnh nhân dễ chịu hơn.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bệnh co thắt cơ nửa mặt (Hemifacial Spasm)

Các cử động các cơ trên mặt chúng ta phụ trách biểu lộ các nét mặt khác nhau (cười, nhăn mặt, hút gió) được điều khiển do dây thần kinh mặt (thần kinh sọ số 7, TK7), một dây TK7 bên phải và một dây bên trái. Dây thần kinh số 7 phần lớn phụ trách vận động. Dây thần kinh này đem mệnh lệnh từ não bộ đi ra khỏi cuống não (brainstem), thoát ra khỏi hộp xương sọ dưới tai, đi về hướng phía trước và chia thành 5 nhánh thần kinh đến các cơ liên hệ: cơ làm cho lông mày nhúc nhích, nhắm mắt, cử động các cơ chung quanh miệng. Nói chung là các cơ phụ trách biểu hiện trên khuôn mặt (facial expression).
Trong một số trường hợp hiếm, do thần kinh số 7 làm việc bất bình thường, nó có thể phát ra những tín hiệu làm cho các cơ mặt trong vùng nó kiểm soát co giật ngoài ý muốn (“misfire”). Lúc đầu có thể (trong 92% trường hợp) chỉ co giật vùng chung quanh mắt, sau đó có thể lan ra toàn mặt. Thiểu số còn lại lan chiều ngược, từ dưới cằm lan lên phía mắt. Thường chỉ xảy ra một bên, cho nên từ y học gọi là co thắt nửa mặt (hemifacial spasm/ HFS), tuy hiếm hơn nữa có người bị cả hai bên trái và phải, do cả hai thần kinh số 7 đều bị bệnh.
Dịch học:
•    Bệnh này hiếm (8/100,000 người ở Mỹ)
•    Thường người tuổi 40-60
•    Phụ nữ nhiều hơn nam giới

Triệu chứng:
•    Triệu chứng duy nhất là một bên nửa mặt có những cử động không kiểm soát được; cử động như co giật liên hồi (clonus), có thể nảy sinh lúc bệnh nhân mệt mỏi, lo âu, hay đọc sách báo. Một số người bị liệt thần kinh số 7 do chấn thương hay bệnh liệt Bell (Bell Palsy rồi sau đó bị co giật nửa bên mặt.)
•    Có thể nghe những âm thanh bất bình thường trong tai.
•    Có thể yếu nửa mặt.

Định bệnh:
Thường bệnh nhân cần được bác sĩ chuyên khoa thần kinh khám để phân biệt với những bệnh khác có thể gây ra những cử động bất bình thường trên mặt.
Chẩn đoán bằng hình ảnh quan trọng nhất là dùng cộng hưởng từ trường (MRI) để nghiên cứu tình trạng của dây thần kinh số 7, xem TK7 có bị chèn ép bởi một mạch máu ở vị trí bất bình thường (vascular compression by an aberrant branch of the inferior cerebellar artery or the vertebral artery), hay một u bướu nào đè lên trên dây thần kinh (mass compression), hay một hư hại trong não bộ nơi thần kinh 7 xuất phát (vd: stroke, multiple sclerosis).

Chữa trị:
1) Đối với trường hợp dây thần kinh số 7 không bị chèn ép, đè nén và triệu chứng còn nhẹ, giới hạn:
●    Dùng thuốc uống, loại thuốc chống co giật như carbamazepine (Tegretol), gabapentin;
●    Thuốc an thần loại benzodiazepine như clonazepam (Klonopin);
●    Thuốc làm cơ giãn (muscle relaxant, antispasmodic) như baclofen (Lioresal);
●    Thuốc có thể làm phản ứng chậm, mệt mỏi; tuỳ thuộc vào thuốc (drug dependence); không được uống rượu trong lúc uống thuốc baclofen;
●    Không ngưng thuốc đột ngột;
●    Haloperidol.

2) Giải phẫu [1,2,4]:
●    Giải quyết những chỗ dây thần kinh số 7 bị đè, chèn ép do mạch máu (microvascular decompression).
●    Bác sĩ khoan một lỗ vào xương sọ, đến chỗ TK7 chui ra từ cuống não, nhét một miếng teflon vào giữa mạch máu đang đè lên TK7 để TK7 không bị áp lực nữa.
●    Khỏi hẳn hoặc thấy giảm bớt triệu chứng trong 80-90%; một số ít có thể triệu chứng trở lại.
●    Giải phẫu có thể phức tạp, người mổ phải có chuyên môn cao về giải phẫu thần kinh; tốn kém.
●    Biến chứng: mất thính giác, tổn thương tiểu não, rò rỉ nước tuỷ sống (tổng cộng dưới 5%).(Theo Tan.[4])

3) Giải pháp hiện nay được ưa chuộng: chích độc tố botulinum vào các bắp thịt ở mặt với hướng dẫn bằng máy đo điện các cơ (botox injection with electromyographic guidance) [3,4].
Biến chứng có thể xảy ra: Sụp mí mắt, méo mặt, yếu cơ mặt, thường chỉ tạm thời.
Chích botulinum A toxin (vd Botox) là biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Thuốc do một con vi khuẩn sản xuất, chích vào cơ liên hệ làm gián đoạn truyền dẫn thần kinh từ dây thần kinh qua cơ và làm cho cơ tê liệt. Cơ chế: sự phóng thích của acetylcholine nhờ trung gian của Calci vào khớp nối liền giữa các dây thần kinh bị ức chế. (Botox inhibits the calcium‐mediated release of the acetylcholine into synaptic junction [4]). Thông thường dùng với mục đích thẩm mỹ, xoá các vết nhăn trên mặt. Trong trường hợp này các cơ (bắp thịt ) ở mặt không giật nữa. Sau 3-5 ngày, bệnh nhân cảm thấy thuyên giảm. Thuốc tác dụng được 3- 6 tháng thì hết tác dụng, thường vài tháng phải chích lại ngăn chặn co giật tái xuất hiện. Kết quả tốt trong 75-100% trường hợp [4]. Trong trường hợp hiếm, sau nhiều năm dùng thuốc có thể thuốc sẽ giảm hiệu nghiệm do cơ thể sinh ra kháng thể chống lại thuốc (immunoresistance) [4].
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Monday, April 11, 2016

Codeine và thuốc ho

1) Về thuốc ho, đối với bệnh nhân có vẻ đơn giản, nhưng đối với bác sĩ đây là một vấn đề rắc rối, nhiều tranh luận. Nền y học hiện nay muốn căn cứ trên các bằng chứng khách quan, vậy mà khó tìm được bằng chứng khách quan cho thấy "thuốc ho" giúp ích cho bệnh nhân phục hồi, hết bệnh nhanh hơn. Đa số bệnh nhân bị cảm cúm do nhiễm trùng siêu vi không hồi phục nhanh hơn người không uống thuốc ho. Những biện pháp như xông hơi nước, ăn cháo gà, uống nước nhiều, đầy đủ (bệnh nhân nóng sốt dễ mất nước vì mồ hôi), tỏi, nước trà gừng (ginger tea), nghỉ ngơi có lẽ ích lợi hơn.
2) Riêng về triệu chứng ho, ho cũng có mục đích của nó: giúp cho cơ thể thanh toán, đẩy ra ngoài những chất đàm nhớt từ mũi chảy xuống họng, trong cuống phổi. Tuy nhiên, nếu ho không ra đàm thì làm mất ngủ, khó chịu, bực mình. Nhất là đối với trẻ con, làm cha mẹ lo lắng, nhất là một số cha mẹ sợ rằng nếu bé ho mà không uống thuốc ho sẽ trở nặng thành "sưng phổi". "Thuốc ho" là một sản phẩm kinh doanh hàng tỷ đô la một năm ở Mỹ. Đa số chứa chất guaifenesin làm cho lỏng đờm gọi là "expectorant" (vd Mucinex), chất dextromethorphan (trong các thuốc ho có thêm hai chữ DM như Robitussin DM, Mucinex DM ); có thể thêm acetaminophen, làm giảm nóng và giảm đau.
Một số thuốc "cảm" muốn bao thêm các triệu chứng khác (“multi-symptom” cold medicine), chứa thêm chất làm bớt nghẹt mũi, bớt đàm như phenylephrine, pseudoephedrine; chất kháng histamine (antihistaminic, vd brompheniramine). Hai chất sau này có thể làm bệnh nhân lừ nhừ, hoặc bị kích thích, bứt rứt, khó ngủ.
Các phản ứng phụ này làm cho một số trẻ em phải vào phòng cấp cứu lúc các em ngộ độc vì các em uống các chai thuốc ho cảm lúc cha mẹ sơ ý. Hay phụ huynh cũng có thể cho các em uống nhiều quá, thấy em chưa giảm ho thì cho uống thêm nữa mặc dù chưa đến giờ, hay cho uống hai ba thứ thuốc mà không biết rằng tác dụng kích thích hay là buồn ngủ, làm lơ mơ, làm giảm nóng (acetaminophen) của các thuốc này cộng với nhau tới mức độc hại.
Hiện nay, FDA không chấp thuận dùng thuốc "cảm" (cold medicine) mua không cần toa cho trẻ dưới 24 tháng. AAP khuyến cáo tránh dùng thuốc "ho, cảm " cho trẻ dưới 6 tuổi (trừ trường hợp theo hướng dẫn của bác sĩ).
Đối với người lớn, các "thuốc cảm, thuốc ho" mua tự do nói trên tương đối an toàn nếu dùng theo đúng hướng dẫn.
3) Riêng thuốc Robitussin AC chứa chất làm lỏng đàm guaifenesin (100mg/5ml) và codeine (10mg/5ml) là một chất narcotic nhẹ có khả năng ức chế phản xạ ho. Vào cơ thể, codeine được chuyển hoá từ từ thành morphine, là chất ma tuý mạnh trong thuốc phiện. Codeine dùng lâu có thể gây nghiện. Một số trẻ em bị chết vì ngộ độc codeine trong vòng 1-2 ngày sau khi codeine đựoc dùng làm chất giảm đau sau khi giải phẫu cắt a-mi-đan. Những trẻ em này chuyển hoá codeine thành morphine quá nhanh (ultra-rapid metabolizers of codeine) tạo nên một lượng morphine nguy hiểm trong cơ thể chúng, mặc dù liều codeine được dùng là liều trung bình được chấp nhận.
Hiện nay, DEA (cơ quan kiểm soát thuốc men Mỹ "Drugs Enforcement Agency") xếp codeine vào Schedule II, bị kiểm soát cùng schedule với cocaine. Thuốc ho như Robitussin AC vì chứa một lượng nhỏ codeine, thuộc schedule V, nhưng vẫn bị DEA kiểm soát. (DEA xếp loại schedule từ I đến V, schedule I bị kiểm soát chặt chẽ nhất, schedule V ít nhất).
Nói chung không nên dùng thuốc ho có codeine như Robitussin AC hay Robitussin DAC (có thêm chất decongestant cho các bệnh ho kinh niên, ví dụ do suyễn, viêm cuống phổi mãn tính, phổi khí thũng (emphysema), ho ra đàm nhiều.)
Một số thuốc trị bệnh áp huyết cao, thuộc loại "ACE inhibitors" (vd lisinopril) có thể làm tăng lượng bradykinin và substance P trong cuống phổi, làm cho bệnh nhân ho khan, không có đàm trong 5-35% trường hợp, phải đổi qua thuốc khác. Một loại thuốc khác gọi là beta-blockers có khả năng làm cuống phổi thắt lại, khò khè và ho. (Thuốc hạ áp huyết amlodipine thuộc loại thuốc trị bệnh áp huyết cao “calcium channel blocker”, không làm ho.)
Tóm lại, càng dùng nhiều thuốc càng nên cẩn thận tương tác giữa các thuốc, cũng như trùng lặp các thuốc. Nên hỏi ý bác sĩ để được hướng dẫn. Ho chỉ là một triệu chứng, có thể do bệnh hay do ô nhiễm môi trường. Thuốc ho chỉ là là biện pháp tạm thời, không thể hay không nên dùng lâu dài, nhất là đối với người lớn tuổi hay trẻ nhỏ.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Nhiễm trùng máu (sepsis)

Gần đây có tin nữ tài tử kỳ cựu Patty Duke qua đời ở tuổi 67 vì bị nhiễm trùng máu. Ở một nước có nền y khoa tân tiến như Mỹ, chứng nhiễm trùng máu vẫn còn là một vấn đề vì xảy ra khá nhiều, nhất là ở người cao tuổi, và đôi khi rất khó chữa trị vì vi trùng đa số đã kháng lại các thuốc trụ sinh thông thường. Thực ra dùng chữ nhiễm trùng máu để dịch chữ sepsis thì dễ bị nhầm lẫn với chữ bacteremia trong khi sepsis, khác hon bacteremia, là một một biến chứng của nhiễm trùng máu dễ đe dọa tính mạng. Do đó, có lẽ nên để nguyên chữ sepsis trong bài này cho dễ hiểu hơn.

Sepsis xảy ra khi các chất do cơ thể tiết vào máu để chống lại nhiễm trùng lại gây ra phản ứng viêm trong cơ thể, kích hoạt một loạt các thay đổi gây hại cho nhiều hệ cơ quan, khiến các cơ quan này không còn làm việc được, gây nguy hiểm cho tính mạng.

Nếu bệnh đưa đến “sốc” nhiễm trùng, huyết áp sẽ giảm đáng kể, có thể dẫn đến tử vong.
Bất cứ ai cũng có thể bị sepsis, nhưng chứng này xảy ra nhiều nhất và nguy hiểm nhất ở người lớn tuổi hoặc những người có hệ miễn dịch suy yếu. Điều trị sớm, thường là với thuốc trụ sinh và một lượng lớn dịch truyền tĩnh mạch, có thể giúp cứu sống bệnh nhân.
Các triệu chứng
Nhiều bác sĩ xem sepsis là một hội chứng ba giai đoạn, bắt đầu với sepsis, đưa đến sepsis nặng, và cuối cùng dẫn tới sốc nhiễm trùng (septic shock). Do đó cần điều trị sepsis trong giai đoạn đầu, trước khi nó thành nguy hiểm hơn.
1.Sepsis
Chẩn đoán sepsis cần ít nhất hai trong số các triệu chứng dưới đây, cộng với một nhiễm trùng đang nghi ngờ hoặc đã xác định:
- Nhiệt độ trên 101 F (38,3 C) hoặc dưới 96,8 F (36 C)
- Nhịp tim nhanh hơn 90 nhịp một phút
- Nhịp thở nhanh hơn 20 hơi thở một phút

2.Sepsis nặng
Chẩn đoán tăng lên mức sepsis nặng nếu bệnh nhân có ít nhất một trong các triệu chứng cho thấy một cơ quan đang bị nguy cấp:
· Giảm lượng nước tiểu đáng kể
- Tình trạng tâm trí thay đổi đột ngột
- Giảm số lượng tiểu cầu
- Khó thở
· Tim bơm máu cách bất thường
- Đau bụng

3.Sốc nhiễm trùng (septic shock)
Chẩn đoán sốc nhiễm trùng cần các triệu chứng của sepsis nặng cộng với huyết áp rất thấp và không đáp ứng với cách chữa truyền chất lỏng.
Nguyên nhân
Bất kỳ loại nhiễm trùng nào, do vi trùng, siêu vi trùng hoặc vi nấm, đều có thể dẫn đến sepsis, nhưng những loại nhiễm trùng sau dễ đưa đến sepsis nhất:
Ẽ Nhiễm trùng phổi
Ẽ Nhiễm trùng ổ bụng
Ẽ Nhiễm trùng thận
Ẽ Bệnh nhiễm trùng máu
Tỉ lệ sepsis có vẻ đang tăng tại Hoa Kỳ. Nguyên nhân của sự gia tăng này có thể là:
Ẽ Dân số già. Người Mỹ hiện sống lâu hơn nên số người ở lứa tuổi nguy cơ cao nhất (trên 65 tuổi) cũng tăng cao.

Ẽ Vi trùng kháng thuốc. Nhiều loại vi trùng có thể chống lại những thuốc trụ sinh trước kia từng giết được chúng. Những vi trùng kháng thuốc thường là nguyên nhân chính của bệnh nhiễm trùng đưa đến sepsis.
Ẽ Hệ thống miễn dịch yếu. Nhiều người hiện đang sống với hệ thống miễn dịch suy yếu do nhiễm HIV, đang điều trị ung thư, uống thuốc sau khi được cấy ghép nội tạng...
Các yếu tố rủi ro
Bạn dễ bị sepsis hơn nếu:
Ẽ Bạn rất trẻ hoặc rất già
Ẽ Hệ thống miễn dịch bị suy yếu
Ẽ Đang bị bệnh rất nặng, thường là trong ICU (phòng chăm sóc đặc biệt) của bệnh viện
· Đang bị thương hoặc chấn thương, chẳng hạn như phỏng
Ẽ Đang được đặt những thiết bị như đường tĩnh mạch hoặc ống thở
Các biến chứng
Sepsis có thể nhẹ hay nặng. Khi sepsis nặng hơn, lưu lượng máu đến các cơ quan quan trọng như não, tim và thận của bạn trở nên suy yếu. Sepsis cũng có thể gây ra các cục máu đông trong các cơ quan và trong cánh tay, chân, ngón tay và ngón chân, dẫn đến các mức độ suy cơ quan và hoại tử khác nhau.
Hầu hết mọi người đều hồi phục sau khi bị sepsis nhẹ, nhưng tỷ lệ tử vong trong sốc nhiễm trùng là gần 50 phần trăm. Ngoài ra, đã một lần bị sepsis thì sẽ dễ bị thêm trong tương lai.
Chẩn đoán
Chẩn đoán sepsis có thể khó khăn vì triệu chứng của sepsis có thể được gây ra bởi những bệnh khác. Các bác sĩ thường làm một loạt các thử nghiệm để cố gắng tìm ra nhiễm trùng nguyên thủy. Các thử nghiệm này có thể bao gồm thử nghiệm máu, nước tiểu, chụp X ray, siêu âm, CT Scan hay MRI...

Điều trị
Điều trị sớm và tích cực làm tăng cơ hội sống sót. Những người sepsis nặng cần được theo dõi chặt chẽ và chữa trị trong phòng chăm sóc đặc biệt. Các biện pháp cứu sinh có thể cần thiết để làm ổn định hô hấp và chức năng tim.

1.Thuốc
Một số loại thuốc thường được sử dụng trong điều trị sepsis. Chúng bao gồm:
-Trụ sinh. Điều trị bằng thuốc trụ sinh nên bắt đầu ngay lập tức, trong vòng sáu giờ đầu hoặc sớm hơn. Mới đầu các thuốc trụ sinh có thể chống lại nhiều loại vi trùng (broad spectrum) sẽ được dùng. Sau khi biết kết quả xét nghiệm máu, bác sĩ có thể chuyển sang một loại trụ sinh khác thích hợp hơn đối với vi trùng đang gây ra bệnh trùng.
-Thuốc co mạch. Nếu huyết áp vẫn quá thấp sau khi được truyền dịch, bệnh nhân có thể được cho một thứ thuốc vận mạch làm co mạch máu, giúp tăng huyết áp.
Các thuốc khác có thể được dùng là corticosteroid, insulin để giúp ổn định mức độ đường trong máu, các loại thuốc thay đổi phản ứng của hệ miễn dịch, và thuốc giảm đau hoặc thuốc an thần.

2.Chăm sóc hỗ trợ
Những người bị sepsis nặng cần được có những chăm sóc hỗ trợ như oxygen và dịch truyền tĩnh mạch. Tùy thuộc vào tình trạng, bệnh nhân có thể cần máy thở hay lọc máu.

3.Giải phẫu
Giải phẫu có thể cần thiết để loại bỏ nguồn lây nhiễm, chẳng hạn nhọt mủ (abscess).

BS Nguyễn Thị Nhuận