Wednesday, March 30, 2016

Bệnh khô mắt

Mắt bị khô khi nước mắt ta tiết ra không đủ để làm mắt nhờn ướt. Ta không đủ nước mắt có thể vì nhiều lý do: mắt không tiết đủ nước mắt hoặc nước mắt tiết ra không tốt.
Triệu chứng
Thường thì cả 2 bên mắt đều bị khô, đưa tới những triệu chứng sau:
-Mắt cảm thấy như bị châm, trầy hay bỏng
-Có những sợi chất nhờn vương trong hay quanh mắt
-Khi trời có khói hay gió, mắt bị khó chịu
-Mắt bị mỏi sau khi đọc sách một thời gian ngắn
-Nhậy cảm với ánh sáng
-Khó mang kính sát tròng
-Có những lúc bị ra nước mắt thật nhiều
-Mắt nhìn bị mờ, nhất là cuối ngày hoặc sau khi phải chú ý một thời gian dài.
Nguyên nhân
Như trên đã nói, ta bị khô mắt là do nước mắt tiết ra không đủ. Nước mắt là sự pha trộn của nước, dầu béo (fatty oils), chất đạm và những chất điện giải. Hỗn hợp này giúp bề mặt của mắt bằng phẳng và trong, cũng như bảo vệ mắt khỏi nhiễm trùng.
Một số người thường bị khô mắt do sự mất cân bằng giữa những chất trong hỗn hợp nước mắt. Một số người khác bị khô do không đủ nước mắt. Một vài nguyên nhân khác: mí mắt có vấn đề, thuốc men, những yếu tố môi trường như gió, bụi...
1.Nước mắt không tốt
Màng nước mắt gồm có 3 lớp căn bản: dầu, nước và chất nhờn. Bất cứ lớp nào “có vấn đề” cũng đều có thể gây ra khô mắt.
-Lớp dầu: Là lớp ngoài cùng của màng nước mắt, do những tuyến nằm nơi rìa mí mắt tiết ra, chứa những chất dầu béo gọi là lipids. Lớp này làm màng nước mắt phẳng mịn và giúp lớp nước ở giữa bớt bị bốc hơi. Nếu các tuyến chất dầu không tiết đủ, lớp nước mắt sẽ bốc hơi nhanh làm mắt bị khô. Mắt rất dễ khô khi các tuyến này bị nghẹt, triệu chứng thường xẩy nơi các bệnh viêm rìa mí mắt (blepharitis), bệnh da sưng đỏ (rosacea) và một vài loại bệnh ngoài da khác.
-Lớp nước: Lớp giữa của màng nước mắt gồm hầu hết là nước, với một ít chất muối, được tiết ra từ những hạch nước mắt, có nhiệm vụ làm sạch mắt và quét đi những phần tử từ ngoài vào hay những chất gây khó chịu. Nếu lượng nước tiết ra bị thiếu thì lớp dầu và lớp chất nhờn sẽ đụng nhau và tạo ra những dây ghèn.
-Lớp chất nhờn: Lớp trong cùng của màng nước mắt giúp trải đều nước mắt trên mặt ngoài của mắt. Nếu thiếu chất nhờn này, trên mặt ngoài của mắt sẽ có những điểm khô.
2. Nước mắt không được tiết ra đủ
Do những nguyên nhân sau:
-Người lớn hơn 50 tuổi: Càng lớn tuổi thì nước mắt càng ít đi. Người trên 50 tuổi rất dễ bị khô mắt.
-Đàn bà tuổi hết kinh: Nước mắt ít đi có thể do kích tố thay đổi. Do đó đàn bà tuổi hết kinh dễ bị khô mắt.
-Bị một bệnh nào đó khiến nước mắt giảm đi, thí dụ như tiểu đường, thấp khớp, lupus, scleroderma, bệnh Sjogren's, bệnh tuyến giáp trạng, và bệnh thiếu vitamin A.
-Đã từng được mổ mắt bằng tia laser thí dụ như Lasix. Chứng này thường chỉ xẩy ra tạm thời.
-Tuyến nước mắt bị hư hại do viêm sưng hay tia quang tuyến
-Vấn đề của mí mắt: Mỗi khi ta chớp mắt, mặt ngoài của mắt được phủ một màng mỏng nước mắt. Mí mắt bị cụp vào hay vảnh ra sẽ làm cho nước mắt không phủ đều do ta khó chớp mắt, do đó ta bị khô mắt.
3.Thuốc gây ra khô mắt
Gồm có thuốc trị cao máu, thuốc chống dị ứng antihistamines và thuốc nghẹt mũi, thuốc ngừa thai, thuốc chữa trầm cảm, thuốc giảm đau như ibuprofen (Motrin, Advil) và naproxen (Aleve), thuốc trị mụn có chứa chất isotrenitoin.
4.Những nguyên nhân khác
Gồm có: gió, độ cao, không khí khô, những việc khiến ta phải chú ý lâu thí dụ như ngồi trước máy vi tính, lái xe, hay đọc sách.
Hậu quả của chứng khô mắt
Gồm có:
-dễ bị nhiễm trùng mắt do mặt ngoài mắt không được nước mắt bảo vệ
-Bị sẹo trên mặt ngoài mắt: Chứng khô mắt nếu không được chữa, có thể đưa đến viêm mắt và sẹo trên mặt ngoài của mắt khiến bệnh nhân không nhìn rõ.
Tự chữa
Người bị khô mắt nhẹ có thể dùng những loại thuốc nhỏ mắt mua tự do và rửa mắt thường xuyên để tự chữa. Nếu bị nặng hơn nên gặp bác sĩ để được định bệnh và chữa bệnh theo từng nguyên nhân.
1.Thuốc nhỏ mắt mua tự do
Có rất nhiều loại “nước mắt giả” giúp cho mắt bớt khô. Nên hỏi bác sĩ thuốc loại nào thích hợp cho mình. Sau đây là cách chọn thuốc:
-Thuốc có chất bảo quản hay không: Thuốc có chất bảo quản có thể để lâu được và có thể được dùng 4 lần mỗi ngày, dùng thường xuyên hơn có thể khiến mắt bị khó chịu. Thuốc không có chất bảo quản chỉ dùng được một lần nên thường gồm nhiều ống nhỏ, dùng một ống mỗi lần. Nếu cần phải nhỏ nhiều hơn 4 lần mỗi ngày nên dùng loại thuốc không có chất bảo quản.
-Thuốc nhỏ (eye drops) hay thuốc nhờn (ointment): thuốc nhờn bảo vệ mắt lâu hơn nhưng có thể làm khó chịu và không nhìn rõ được nên chỉ dùng trước khi đi ngủ.
Dùng thuốc nhiều hay ít là tùy theo triệu chứng. Có người cần nhỏ thuốc mỗi giờ, có người chỉ cần 1 lần mỗi ngày.
2.Cách chữa khác
-Rửa mắt để giảm viêm sưng: Người hay bị viêm rìa mí mắt hay những bệnh khác gây ra sưng mắt khiến nghẽn đường cho chất nhờn tiết ra, nên dùng cách rửa mắt bằng miếng bông ướt đặt lên mắt khoảng 5 phút và nhẹ nhàng day cho chất rỉ rơi ra hoặc rửa mí mắt bằng xà bông nhẹ. Nên rửa như vậy mỗi ngày, ngay cả khi mắt không bị khô.
-Phương pháp “ngoại khoa”:
Một vài nghiên cứu sơ khởi cho thấy chất acid béo omega-3 có thể giúp giảm triệu chứng khô mắt nhờ giảm phản ứng viêm trong cơ thể. Nếu muốn tránh vị tanh cá sau khi uống chất omega-3 FA, có thể ăn hay uống những thứ có chứa chất này như canola oil, dầu đậu nành, dầu flaxseed, hạt walnut, cá hồi, cá mòi, trứng của gà nuôi bằng thức ăn chứa nhiều omega-3 FA...
Ngừa bệnh
Nên theo những chỉ dẫn sau:
-Tránh gió thổi thẳng vào mắt bằng cách không chĩa máy sấy tóc, máy sưởi, máy lạnh hay quạt máy vào mắt
-Đeo kính vào những ngày có gió nhiều và đeo goggle khi bơi
-Bật máy phun hơi ẩm vào những ngày khô
-Đeo kính to bản che chở mắt
-Cho mắt nghỉ khi phải làm việc cần sự chú ý quá lâu bằng cách nhắm mắt vài phút hay chớp mắt liên tục cho chất nhờn được tiết ra.
-Đặt màn hình máy vi tính thấp xuống dưới tầm mắt để khỏi phải mở mắt quá to, giúp nước mắt không bị bốc hơi nhanh.
-Bỏ hút thuốc và tránh khói thuốc

BS Nguyễn Thị Nhuận

Thuốc bổ và tương tác thuốc men

1) Một trong những nguyên tắc lúc đi khám bệnh là nên cho bác sĩ biết tất cả những thuốc mà mình đang dùng, dù là thuốc bổ, thuốc "phụ dinh dưỡng", thuốc dược thảo hay thuốc nam, thuốc bắc. Ngay đến việc những thức ăn thông thường cũng có thể có tác dụng trên thuốc men. Ví dụ bệnh nhân uống metronidazole (để trị vi trùng gây loét dạ dày Helicobacter pylori hay vì nhiễm trùng bệnh phụ nữ) không được uống rượu. Uống rượu cùng với metronidazole có thể làm đau bụng, ói mửa, nhức đầu, bừng bừng đỏ mặt, hạ áp huyết.
Ginkgo biloba (bạch quả), được bán phổ biến và được cho là làm máu lưu thông lên đầu tốt hơn, cho là giảm bệnh lẫn, cũng có tác dụng làm cho máu khó đông hơn. Ở người dùng aspirin để phòng ngừa bệnh tim mạch (aspirin làm các tiểu bản [platelets] trong máu bớt khả năng kết tụ, nên khả năng máu đông giảm đi), hay người đang dùng thuốc warfarin làm "loãng" máu, giảm khả năng khối huyết/thrombosis), nếu dùng Ginkgo biloba chung với aspirin hay warfarin có thể làm cho máu loãng (dễ chảy máu) hơn là ý định của bác sĩ.
Tỏi (garlic), gừng (ginger) hay nghệ (turmeric) nếu dùng lượng rất nhiều có thể tác dụng lên cơ năng các tiểu bản và làm giảm khả năng máu đông, tránh chảy máu (hemostasis) ở người bình thường, cũng như làm những người dùng aspirin và warfarin dễ chảy máu hơn mức chỉ tiêu mà bác sĩ dự liệu.
Trái lại sâm (ginseng) cũng như trà xanh (green tea) làm đảo ngược tác dụng của warfarin và làm máu dễ đông hơn.
Một tương tác quan trọng khác là giữa thuốc chống trầm cảm loại MAOI [monoamine oxidase inhibitor antidepressants, vd Isocarboxazid (Marplan), Phenelzine (Nardil), Selegiline (Emsam) Tranylcypromine (Parnate)] và thức ăn có chứa chất tyramine [một số cheese để lâu (aged cheese), thịt ướp lâu (cured meat), trái cây khô, trái cây quá chín] và các thức uống có cồn (alcoholic beverages).
2) Alendronate (Fosamax) là thuốc chữa bệnh xương xốp (osteoporosis). Thuốc không được dùng cho người suy thận nặng. Thuốc dễ làm thực quản (esophagus) khó chịu, viêm hay lở loét (esophagitis). Nên uống thuốc lúc buổi sáng, uống một ly nước đầy để thuốc chạy xuống dạ dày; không nhai, cắn, ngậm viên thuốc; và đợi ít nhất 30 phút mới ăn, uống hay uống thuốc thường lệ của mình, và nếu cần nằm xuống, phải đợi 30 phút sau khi uống thuốc [và sau khi ăn].
Trong viên Teva-Alendronate/Cholecalciferol ngoài 70 mg alendronate, còn có 70 µg cholecalciferol [2800 units vitamin D3], trong Centrum có 500 đơn vị vitamin D, trong Caltrate 600+D3 có 600mg Calcium và 800 đơn vị Vitamin D.
Nếu bệnh nhân cần uống tất cả các thứ thuốc trên, nên hỏi bác sĩ của mình lượng vitamin D và calcium từ nhiều ngưồn khác nhau như vậy có thích hợp với mình không. Bác sĩ có thể đo mức vitamin D và Calcium trong máu bệnh nhân để theo dõi.
Vitalux là thuốc có thể giúp cho sức khoẻ của mắt, làm cho thoái hoá võng mạc của người già (AMD, age-related macular degeneration) chậm xuất hiện hơn nhờ hai chất Lutein và Zeaxanthin.
Hiện nay, ở Mỹ, người trên 60 tuổi được khuyên nên đi khám mắt định kỳ trong đó bs mắt cho nở đồng tử để khám phần sau của mắt (dilated eye exam). AMD là một bệnh thường gặp cần được screen cho lứa tuổi này. Lúc khám bs chuyên khoa mắt, nên hỏi bác sĩ về những thuốc "bổ mắt" như Vitalux xem có thích hợp với mình không.
Trong Vitalux, có một số chất đã được một nghiên cứu năm 2001 (Age Related Eye Disease Study, AREDS) chứng minh là có ích cho việc ngăn chặn một phần AMD, như Vitamin C, vitamin E, Zinc, đồng (Copper) ( AREDS formulation). Các chất này cũng được tìm thấy trong Centrum.
Vitalux chứa 250mg vitamin C, là một liều khá cao, nhất là cộng với 500mg vitamin C mà thính giả uống mỗi ngày. Nói chung người ta nghĩ rằng mỗi ngày chúng ta cần từ 90mg và nếu nhiều hơn thì không quá 2000 mg (The North American Dietary Reference Intake). Hiện nay, nhiều trường phái trong y khoa chủ trương dùng vitamin C liều cao để trị nhiều bệnh khác nhau từ bệnh cảm cúm, cho đến bệnh dị ứng, bệnh đau tim, tuy chưa có bằng chứng cụ thể và còn tranh luận lâu dài. Nói chung liều vitamin C trên 2000 mg/ngày có lẽ không được an toàn cho lắm, có thể gây tiêu chảy và sạn thận (còn tranh cãi). Đối với những người từng bị sạn thận, nên giới hạng liều vitamin C dưới 1000 mg/ngày.
3) Một số thuốc trị bệnh áp huyết cao, thuộc loại "ACE inhibitors" (vd lisinopril) có thể làm tăng lượng bradykinin và substance P trong cuống phổi, làm cho bệnh nhân ho khan, không có đàm trong 5-35% trường hợp, phải đổi qua thuốc khác. Một loại thuốc khác gọi là beta-blockers có khả năng làm cuống phổi thắt lại, khò khè và ho. Thuốc hạ áp huyết amlodipine thuộc loại calcium channel blocker, không làm ho.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Nghiên cứu mở ra hy vọng khôi phục trí nhớ cho người mắc bệnh Alzheimer

Một nghiên cứu mới công bố mở ra hy vọng khôi phục kí ức đã mất ở những bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer.
Những nhà nghiên cứu tại Đại học Công nghệ Massachusetts (MIT), viết trên chuyên san Nature rằng trong phòng thí nghiệm, những con chuột ở giai đoạn đầu của căn bệnh thoái hóa não bộ này hình thành những ký ức mới. Những con chuột không mắc bệnh cũng vậy, nhưng không thể nhớ lại được những ngày sau đó.
Sử dụng một kỹ thuật gọi là di truyền học ánh sáng, các nhà nghiên cứu đã có thể khơi dậy những ký ức đó.
Các nhà nghiên cứu nói di truyền học ánh sáng vẫn chưa được chấp thuận để sử dụng nơi con người.
"Điểm quan trọng là đây là bằng chứng của khái niệm. Đó là, ngay cả khi trí nhớ dường như đã mất, nó vẫn còn ở đó. Vấn đề làm thế nào để khôi phục," tác giả Tonegawa Susumu từ Trung tâm Di truyền Mạch Thần kinh RIKEN-MIT nói.
Ông nói thêm rằng trong tương lai, công nghệ này có thể được phát triển để có thể thúc đẩy phục hồi trí nhớ ở người.
Đối với nghiên cứu này, ông Tonegawa và nhóm của ông cho những con chuột vào một cái buồng nơi mà chúng sẽ bị điện giật ở chân. Tất cả những con chuột "đều tỏ ra sợ hãi" khi được cho vào cùng cái buồng này, nhưng sau vài ngày, chỉ có những con chuột khỏe mạnh vẫn tỏ ra sợ hãi. Những con chuột mắc bệnh Alzheimer dường như không nhớ bị điện giật.
Tuy nhiên, sử dụng đèn flash ánh sáng xanh dương để kích thích vùng hồi hải mã của não bộ, những con chuột mắc bệnh Alzheimer dường như nhớ buồng điện giật và cho thấy những dấu hiệu của sự sợ hãi.
Theo Huffington Post, nghiên cứu này dựa trên những nghiên cứu trước đó cho thấy rằng bệnh Alzheimer hủy hoại những xi-náp (synapse) thần kinh, nhưng không nhất thiết là trí nhớ.
"Miễn là những tế bào thần kinh vẫn còn sống, trí nhớ vẫn sẽ ở đó, có nghĩa là bạn có lẽ có thể phục hồi được một số kí ức đã mất trong giai đoạn đầu của bệnh Alzheimer," nhà nghiên cứu David Glanzman nói.

Người uống rượu đỏ mặt dễ bị ung thư?

Người uống rượu đỏ mặt dễ bị ung thư?
Ít ai trong chúng ta không từng biết một người có đặc tính “lạ”: uống rượu, dù chỉ là một vài hớp bia, mặt họ sẽ đỏ bừng lên. Thật ra chứng này không có gì là “lạ” vì nó xảy ra thường đến nỗi người Mỹ có danh từ cho chứng này đàng hoàng: “Asian flush”. Cơ quan National Institute on Alcohol Abuse and Alcoholism của Mỹ đã nghiên cứu về chứng đỏ mặt này và nói rằng có tới 1 phần 3 dân Á châu bị đỏ mặt sau khi uống rượu. Thông thường thì họ không những bị đỏ mặt mà còn bị nhức đầu, buồn nôn và tim đập nhanh khiến họ rất khó chịu.

Nguyên nhân của chứng này là do di truyền. Nạn nhân không có khả năng tiêu hóa chất ethanol trong rượu. Thường thì chất ethanol được các phân hóa tố từ gan biến đổi trước tiên thành một chất độc là acetaldehyde, chất này gây ung thư nơi thú vật bằng cách hủy hoại DNA và các hiệu ứng khác. Sau đó, acetaldehyde mới được biến đổi tiếp thành một chất vô hại là acetate. Người bị chứng đỏ mặt khi uống rượu bị một khuyết điểm di truyền là không có phân hóa tố ALDH 2 nên không thể biến dưỡng chất độc acetaldehyde thành chất vô hại acetate. Do đó chất độc acetaldehyde sẽ tích tụ trong máu, gây triệu chứng nở mạch máu khiến mặt và tai họ đỏ bừng.

Một số người còn có tới 2 phiên bản của cái gene khiếm khuyết khiến triệu chứng đỏ mặt của họ nặng đến nỗi họ không thể nếm một giọt rượu nào cả. Người chỉ có một phiên bản thì có thể chịu đựng nổi và vẫn có thể uống rượu.

Tuy nhiên, đây mới là mấu chốt của vấn đề. Người thiếu ALHD2 có nguy cơ cao sẽ bị ung thư thực quản nếu họ uống rượu. Càng uống nhiều rượu thì nguy cơ càng cao.

Một nghiên cứu cho thấy một người với chỉ một phiên bản của gene khiếm khuyết, khi uống 2 lon bia một ngày sẽ có nguy cơ bị ung thư thực quản cao gấp 10 lần so với người có thể tiêu hóa rượu bình thường.
Nhiều người gốc Á châu không xa lạ gì với chuyện bị đỏ mặt khi uống rượu nhưng ít người biết rằng việc uống rượu bị đỏ mặt như vậy có liên hệ mật thiết tới nguy cơ ung thư thực quản, một trong những loại ung thư gây tử vong cao nhất trên thế giới.

Người gốc Á châu nên cẩn thận hơn trong việc uống rượu nếu họ bị đỏ mặt vì số lượng độc chất acetaldehyde được tạo ra trong khắp cơ thể.


Coi chừng: Tiếng động nghe trong đầu có thể là bệnh thật chứ không phải tưởng tượng
Một cô người Anh nọ sau khi đi nghỉ hè ở Peru về bỗng nhiên nghe trong đầu mình có tiếng rào rào. Sau khi khám bệnh cho cô xong, các bác sĩ cho biết cô đang bị một đám dòi sống trong lỗ tai cô tấn công.

Cô Rochelle Harris, 27 tuổi , nhớ lại rằng cô có lấy một con ruồi từ lỗ tai ra khi cô đang ở Peru nhưng rồi quên đi cho đến khi cô bắt đầu bị nhức đầu và đau một bên mặt khi về đến Anh. Một hôm, khi thức dây, cô thấy gối bị thấm mủ. Nghĩ rằng mình bị viêm tai, cô đến nhà thương để khám bệnh. Bác sĩ đã tìm thấy một đám dòi nằm trong một cái lỗ trong ống tai của cô. Họ dùng dầu ô liu bơm vào ống tai để làm trôi đám dòi ra khỏi tai.

Cô Harris cảm thấy rất sợ hãi, “Không biết chúng có vào óc tôi không? Mấy tiếng đồng hồ chờ bác sĩ lấy dòi ra khỏi tai là những tiếng dài nhất trong đời tôi. Lúc đó tôi vẫn còn cảm nhận được chúng, nghe chúng và biết được những tiếng động đó là cái gì, cái nhột nhạt trong tai ấy là cái gì, eo ơi, kinh quá...” Sau khi dầu ô liu không làm cho mấy con dòi ra khỏi ổ, bác sĩ phải giải phẫu và lấy ra được 8 con dòi, con cháu của một con ruồi giống New World Army Screw Worm.

Hát Happy Birthday làm bánh sinh nhật ngon hơn!
Không biết có người lớn nào thích tổ chức sinh nhật để được đứng cạnh một chiếc bánh sinh nhật nghe mọi người “gào” bài happy birthday. Nhưng ăn bánh thì đa số đều thích. Một nghiên cứu mới đây cho thấy rằng thực hiện một nghi lễ trước khi ăn - giống như nghi lễ hát happy birthday trước khi cắt bánh - thực sự làm cho hương vị thức ăn tốt hơn.

Hầu hết chúng ta đều làm những “nghi lễ” như vậy - và không chỉ vào ngày sinh nhật - mà không nhận ra, thí dụ như cụng ly và nói “dô” trước khi nốc rượu. Trên thế giới, nhiều nền văn hóa khác đã tìm ra việc này – như việc chuẩn bị và trình bày của “lễ trà” truyền thống của Nhật Bản.

Trong một thí nghiệm, các nhà nghiên cứu tuyển chọn 52 người và cho họ ăn một thanh chocolate. Khoảng một nửa số người đã được hướng dẫn làm một “nghi lễ” trước khi ăn: bẻ hai thanh chocolate mà không mở giấy bọc, mở giấy bọc của nửa thanh và ăn, sau đó mới mở giấy bọc của nửa kia và ăn. Những người khác thì chỉ cần ăn kẹo như bình thường. Kết quả là những người đã thực hiện một nghi lễ nào đó trước khi ăn nói rằng họ thích thanh chocolate hơn những người ăn một cách bình thường. Họ cũng ăn thanh kẹo chậm hơn và nói rằng họ sẽ phải mua thêm. Và điều này không chỉ áp dụng cho kẹo: thí nghiệm dùng nước chanh và cà rốt cũng cho kết quả tương tự.

Làm sao giảm hay ngừa chứng hôi miệng
Hôi miệng có nhiều nguyên nhân. Sau khi thử những cách sau đây, nếu không hiệu quả chút nào, có thể bạn phải đi khám bác sĩ hay nha sĩ để tìm nguyên nhân.

-Đánh răng sau khi ăn. Giữ một bàn chải đánh răng tại nơi làm việc để sử dụng sau khi ăn. Đánh răng với kem đánh răng có chứa fluoride ít nhất hai lần một ngày, đặc biệt là sau bữa ăn. Kem đánh răng có tính chất kháng vi trùng, đã được chứng minh là làm giảm hôi miệng.

-Dùng chỉ nha khoa (floss) ít nhất một lần một ngày. Dùng chỉ nha khoa đúng cách để loại bỏ các hạt thức ăn và mảng bám giữa răng, giúp kiểm soát hơi thở hôi.

-Nạo lưỡi. Lưỡi là môi trường nuôi dưỡng vi trùng, vì vậy nạo lưỡi để giảm bớt những chất bám vào lưỡi, có thể làm giảm mùi hôi. Những người bị lưỡi trắng do vi trùng phát triển quá mức, thí dụ từ hút thuốc lá hoặc bị khô miệng, có thể bớt bị hôi miệng khi dùng cạo lưỡi hoặc sử dụng một bàn chải đánh răng có gắn dụng cụ làm sạch lưỡi.

-Giữ sạch răng giả hoặc các thiết bị nha khoa. Nếu bạn có cầu răng hay hàm răng giả, nên làm sạch kỹ ít nhất một lần mỗi ngày hoặc theo chỉ dẫn của bác sĩ nha khoa của bạn. Nếu bạn đeo miếng giữ răng (retainer) hoặc miếng bảo vệ miệng (mouth guard), nên làm sạch chúng trước khi đặt vào trong miệng. Nha sĩ có thể giới thiệu các sản phẩm làm sạch tốt nhất cho bạn.

-Tránh khô miệng. Để giữ miệng ẩm, tránh hút thuốc lá, và uống nhiều nước - cà phê, nước giải khát hoặc rượu có thể làm miệng khô hơn. Nhai kẹo cao su hoặc ngậm kẹo (không đường) để kích thích nước bọt. Đối với chứng khô miệng mạn tính, nha sĩ hoặc bác sĩ có thể kê toa mua nước bọt nhân tạo hoặc một loại thuốc uống kích thích nước bọt.

-Điều chỉnh cách ăn uống. Tránh các loại thực phẩm như hành tây và tỏi có thể gây hơi thở hôi. Ăn nhiều các thực phẩm có đường cũng được liên kết với hơi thở hôi.

-Thường xuyên dùng bàn chải đánh răng mới. Thay đổi bàn chải đánh răng của bạn khi nó bị sờn, mỗi 3-4 tháng, và chọn bàn chải mềm.

-Khám nha khoa thường xuyên theo định kỳ, thường hai lần một năm, để kiểm tra và làm sạch răng hay răng giả.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Monday, March 7, 2016

Nhiễm độc chì

Nhiễm độc chì xảy ra khi chì tích tụ trong cơ thể, thường trong khoảng thời gian nhiều tháng hoặc nhiều năm. Ngay cả một lượng chì nhỏ cũng có thể gây ra vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Trẻ em dưới 6 tuổi đặc biệt dễ bị ngộ độc chì, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc phát triển tinh thần và thể chất. Ở mức độ rất cao, nhiễm độc chì có thể gây tử vong.

Sơn có chứa chất chì và bụi chì trong các căn nhà xây đã lâu năm là những nguồn gây nhiễm độc chì ở trẻ em. Các nguồn khác bao gồm không khí, nước và đất bị ô nhiễm. Người lớn làm việc với pin, làm trong kỹ nghệ xây cất nhà cửa hoặc làm việc trong tiệm sửa xe hơi cũng có thể tiếp xúc nhiều với chì.

Nhiễm độc chì có thể chữa được, nhưng nên dùng một số biện pháp phòng ngừa đơn giản để giảm thiểu việc bị nhiễm chì, giúp bảo vệ bản thân và gia đình.

Thời gian đầu, việc ngộ độc chì có thể khó nhận ra - ngay cả những người có vẻ khỏe mạnh cũng có thể có nồng độ chì trong máu cao. Các dấu hiệu và triệu chứng thường không xuất hiện cho đến khi lượng chì nguy hiểm được tích lũy.
Các triệu chứng ngộ độc chì ở trẻ em
- Chậm phát triển
- Học khó khăn
- Hay cáu gắt
- Ăn mất ngon
- Giảm cân
- Trông trì trệ và mệt mỏi
- Đau bụng
- Nôn
- Táo bón
- Mất thính lực
Các triệu chứng ngộ độc chì ở trẻ sơ sinh
Những em bé tiếp xúc với chì trước khi sinh có thể gặp:
- Học khó khăn
- Tăng trưởng chậm lại
Các triệu chứng ngộ độc chì ở người lớn
Mặc dù đa số nguy cơ nhiễm chì xẩy ra ở trẻ em, nhiễm độc chì cũng là mối nguy hiểm cho người lớn. Các dấu hiệu và triệu chứng ở người lớn có thể gồm có:
- Huyết áp cao
- Đau bụng
- Táo bón
- Đau khớp
- Đau bắp thịt
- Hoạt động tâm thần bị suy giảm
- Đau, tê hoặc ngứa ran tay chân
- Đau đầu
- Mất trí nhớ
- Rối loạn tâm trạng
- Số lượng tinh trùng giảm, tinh trùng bất thường
- Xẩy thai hoặc sinh non ở phụ nữ mang thai
Chì có nơi đâu?
Chì là một kim loại có tự nhiên trong lớp vỏ của trái đất, nhưng những hoạt động của con người như khai thác mỏ, đốt các nhiên liệu hóa thạch và sản xuất - đã khiến cho chì thông dụng hơn. Chì đã từng là một thành phần quan trọng trong sơn và xăng và vẫn được sử dụng trong các loại pin, hàn, ống, gốm sứ, vật liệu lợp mái nhà và một số mỹ phẩm.
Chì trong sơn
Việc sử dụng các loại sơn có chì cho nhà, đồ chơi trẻ em và đồ nội thất trong gia đình đã bị cấm ở Hoa Kỳ kể từ năm 1978. Tuy nhiên, sơn có chất chì vẫn còn nằm trên các bức tường và đồ gỗ trong nhiều ngôi nhà và căn hộ cũ. Hầu hết nhiễm độc chì ở trẻ em là do chúng ăn những mảnh sơn có chì bị tróc ra.
Ống nước và hàng hóa đóng hộp nhập cảng
Ống dẫn nước bằng chì, đường ống nước bằng đồng và ống đồng hàn bằng chì có thể cho ra các mảnh chì vào nước. Và mặc dù hàn chì trong thực phẩm đóng hộp đã bị cấm ở Hoa Kỳ, nó vẫn được sử dụng ở một số nước khác.
Những phương thuốc cổ truyền
Một số trường hợp ngộ độc chì đã được truy ra là từ việc sử dụng các loại thuốc truyền thống, thí dụ như:
- Greta hoặc azarcon: Chất bột mịn màu cam này - còn được gọi là calcium san hô và san hô biển - là một phương thuốc gốc từ Tây Ban Nha dùng chữa rối loạn dạ dày, táo bón, tiêu chảy và ói mửa. Nó cũng được sử dụng để làm dịu đau khi em bé mọc răng.
- Litargirio: Còn được gọi là litharge, bột mầu hồng đào này được sử dụng như một chất khử mùi, đặc biệt là ở Cộng Hòa Dominican.
- Ba- Baw- san: Phương thuốc từ Trung Quốc này được sử dụng để điều trị đau bụng ở trẻ sơ sinh.
- Ghasard: Một chất bột màu nâu, ghasard được sử dụng như một loại thuốc bổ ở Ấn Độ.
- Daw Twa: Phương thuốc trợ giúp tiêu hóa sử dụng ở Thái Lan, daw Twa chứa hàm lượng chì và arsenic cao.
Các nguồn khác của chì
Chì cũng có thể đôi khi được tìm thấy trong:
- Đất : Chì nằm trên mặt đất là từ ​​xăng pha chì hoặc sơn có chì, có thể tồn tại trong nhiều năm. Đất nhiễm chì vẫn còn là một vấn đề lớn trên xa lộ và trong một số môi trường đô thị. Đất gần những bức tường của ngôi nhà cũ có thể chứa chì.
- Nước: Ống nước đồng hàn chì là một nguồn gây ô nhiễm nước uống trong gia đình.
- Bụi trong nhà. Bụi trong nhà có thể chứa chì từ các mảnh vụn sơn có chất chì hoặc từ đất bị ô nhiễm đưa vào từ bên ngoài.
- Đồ gốm: Men sứ trên một số đồ gốm, đồ sứ có thể chứachất chì và chì có thể xâm nhập vào thực phẩm.
- Đồ chơi: Chì đôi khi được tìm thấy trong đồ chơi và các sản phẩm khác được sản xuất ở các nước ngoài nước Mỹ.
- Mỹ phẩm truyền thống: Kohl là một mỹ phẩm truyền thống, thường được sử dụng như bút kẻ mắt. Thử nghiệm các mẫu khác nhau của kohl cho thấy có hàm lượng chì cao.
Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ nhiễm độc chì:
- Lứa tuổi: Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có nhiều nguy cơ tiếp xúc với chì hơn là trẻ em lớn hơn. Chúng có thể nhai mảnh vụn sơn, và tay chúng có thể bị dính bụi chì. Trẻ nhỏ cũng hấp thụ chì dễ dàng hơn và bị nguy hại nhiều hơn so với người lớn và trẻ lớn.

- Sống trong một căn nhà cũ: Mặc dù việc sử dụng các loại sơn có chì đã bị cấm từ những năm 1970, các căn nhà và các tòa nhà cũ thường giữ lại tàn dư của sơn này. Những người làm việc sửa chữa các ngôi nhà cũ có nguy cơ nhiễm chì cao hơn.

- Một số hobby: Làm kính màu cần sử dụng của hàn chì. Sơn sửa lại đồ nội thất cũ có thể làm bạn tiếp xúc với lớp sơn có chì.

- Quốc gia xuất xứ: Những người sống ở các nước đang phát triển có nguy cơ cao bị nhiễm độc chì vì những nước này ít có những quy định nghiêm ngặt về việc tiếp xúc với chì. Các gia đình người Mỹ nhận con nuôi từ nước khác có thể cần cho chúng thử máu xét nghiệm nhiễm độc chì.
- Chì có thể gây hại cho thai nhi, do đó phụ nữ có thai hoặc phụ nữ có khả năng có thai nên đặc biệt cẩn thận để tránh tiếp xúc với chì.

Tiếp xúc với mức độ thấp của chì vẫn có thể gây ra thiệt hại theo thời gian, đặc biệt là ở trẻ em. Nguy cơ lớn nhất là việc phát triển não bộ bị ảnh hưởng, một thiệt hại không thể xoay ngược lại được. Hàm lượng chì cao hơn có thể gây tổn hại cho thận và hệ thần kinh ở cả trẻ em và người lớn. Hàm lượng chì rất cao có thể gây co giật, bất tỉnh và có thể tử vong.

Nếu bạn nghĩ bạn hay con bạn đã bị nhiễm chì, hãy gặp bác sĩ hoặc liên lạc với bộ phận y tế công cộng tại địa phương. Thử nghiệm máu có thể giúp xác định nồng độ chì trong máu.
Mức chì trong máu được đo bằng microgram trên mỗi deciliter (mg / dL). Kết quả ở mức 5 mcg / dL hoặc cao hơn cho thấy bệnh nhân có thể đã vượt mức độ an toàn của chì trong máu và cần được kiểm tra định kỳ. Nếu nồng độ quá cao - 45 mcg / dL hoặc cao hơn - bệnh nhân cần được điều trị.
Phòng ngừa
Nên áp dụng những biện pháp phòng ngừa sau:
- Rửa tay và đồ chơi. Trẻ em có thể đem chì vào người từ tay có dính bụi nhiễm chất chì. Để giảm bớt nguy cơ này, nên rửa tay cho trẻ sau khi chúng chơi ngoài trời, trước khi ăn và trước khi đi ngủ. Rửa đồ chơi của chúng thường xuyên.
- Lau sạch bụi trên các bề mặt. Làm sạch sàn nhà bằng cách lau ướt và lau bàn ghế, cửa sổ và các bề mặt bụi bặm khác bằng vải ẩm.
- Bỏ phần nước đầu đi. Nếu nhà bạn có hệ thống ống nước cũ, nên để phần nước đầu chảy trong ít nhất một phút trước khi sử dụng. Không sử dụng nước nóng từ vòi để pha sữa cho em bé hoặc để nấu ăn.
- Không cho trẻ em chơi trên đất. Nên cho các em chơi trong sandbox được đậy lại khi không sử dụng. Trồng cỏ hoặc dùng mùn phủ kín nơi đất trống.
- Ăn uống lành mạnh: Bữa ăn thường xuyên và dinh dưỡng tốt có thể giúp ít hấp thụ chì hơn. Trẻ em cần có đủ calcium và sắt trong thức ăn.
Sửa nhà
Nếu sửa vặt vãnh hoặc sửa cho đẹp một căn nhà được sơn bằng sơn có chì, nên dùng những biện pháp phòng ngừa sau:
- Đừng cạo sơn bằng cách chà xát, rất nguy hiểm vì một lượng lớn các hạt nhỏ chứa chất chì sẽ văng ra và mọi người có thể hít chúng vào phổi.
- Không sử dụng ngọn đuốc mở để loại bỏ sơn. Ngọn lửa này làm bắn ra những hạt chì nhỏ mà chúng ta có thể hít phải.
- Che sơn cũ. Có thể rất khó loại bỏ sơn chì cũ. Nếu sơn dính chặt và không có nhiều sứt mẻ, có thể sơn chồng lên. Bạn cũng có thể sử dụng các tấm vách thạch cao hoặc đồ bọc kín tương tự như sơn chồng lên.
- Mặc quần áo và mang thiết bị bảo hộ. Thay quần áo, đi tắm và gội đầu khi ngưng việc. Không giũ quần áo làm việc hoặc giặt chung với quần áo khác.
- Cẩn thận nơi ăn. Không ăn hoặc uống trong một khu vực nơi có bụi chì.

BS Nguyễn Thị Nhuận