Thursday, February 18, 2016

Đau ngực

Nguyên nhân gây đau ngực rất đa dạng, có thể là một chuyện nhỏ như chứng khó tiêu hoặc căng thẳng, cho đến những trường hợp nghiêm trọng như một cơn đột quỵ tim hoặc tắc phổi.
Rất khó để tìm ra nguyên nhân của đau ngực, nhất là khi trước đó không có triệu chứng nào cả. Ngay cả các bác sĩ vẫn có thể khó quyết định xem đau ngực là dấu hiệu của một cơn đột quỵ tim hoặc một cái gì đó ít nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như chứng khó tiêu.

Nếu bạn bị đau ngực không rõ nguyên nhân kéo dài hơn một vài phút, tốt hơn hết là tìm kiếm sự trợ giúp y tế khẩn cấp ngay được chẩn đoán và chữa trị.
Đột quỵ tim (heart attack)
Heart attack xảy ra khi một động mạch cung cấp oxygen cho bắp thịt tim bị tắc nghẽn. Một cơn heart attack có thể gây đau ngực kéo dài 15 phút hoặc lâu hơn, hoặc cũng có thể không có dấu hiệu hoặc triệu chứng nào cả.
Nhiều người bị heart attack đã có những dấu hiệu cảnh báo xảy ra nhiều giờ, nhiều ngày hoặc vài tuần trước. Các dấu hiệu cảnh báo sớm có thể là những cơn đau ngực bắt đầu khi đang vận động và bớt đi khi nghỉ vận động.
Dấu hiệu của một cơn đột quỵ tim có thể gồm một hay nhiều những triệu chứng sau đây:
- Cảm thấy một áp lực khó chịu trong ngực, đầy nghẹt lồng ngực hoặc cảm giác đau thắt ở trung tâm của ngực kéo dài hơn một vài phút.
- Đau lan đến vai, cổ, hàm hay cánh tay
- Choáng váng, ngất xỉu, vã mồ hôi, buồn nôn hoặc khó thở
Nếu bạn hoặc một người nào khác có những triệu chứng trên, nên theo những chỉ dẫn sau:
- Gọi 911. Đừng chịu đựng các triệu chứng của một cơn heart attack quá hơn năm phút. Nếu không có cách tìm dịch vụ y tế khẩn cấp, nên nhờ một người hàng xóm hoặc bạn bè đưa bạn đến bệnh viện gần nhất. Tự lái xe chỉ là phương sách cuối cùng, vì tự lái xe là đặt bạn và những người khác vào nguy hiểm nếu tình trạng của bạn đột nhiên nặng lên.
- Nhai 1 viên aspirin 325mg. Aspirin làm giảm đông máu, có thể giúp máu chạy thông qua động mạch bị nghẹt. Tuy nhiên, không nên dùng aspirin nếu bạn bị dị ứng với aspirin, có vấn đề về máu, hoặc đang uống một loại thuốc làm loãng máu, hoặc nếu bác sĩ của bạn trước đây đã nói là bạn không nên uống aspirin.
- Uống nitroglycerin, nếu đã được cho toa mua thuốc sẵn. Nếu bạn nghĩ rằng bạn đang bị đột quỵ tim và bác sĩ trước đây đã cho toa mua nitroglycerin, nên uống thuốc theo chỉ dẫn. Không nên dùng nitroglycerin của người khác.
- Bắt đầu cấp cứu hồi sức tim phổi (CPR) nếu cần thiết. Nếu nạn nhân tình nghi bị heart attack đ bất tỉnh, người trực 911 hoặc một chuyên gia y tế khẩn cấp có thể khuyên bạn nên bắt đầu CPR. Nếu bạn chưa bao giờ học CPR, nên bỏ qua hô hấp miệng qua miệng (mouth to mouth) và thực hiện nhấn ngực (khoảng 100 một phút). Nhân viên 911 có thể hướng dẫn bạn làm CPR trong khi chờ đợi xe cứu thương đến.
- Nếu có sẵn máy khử rung tim ( AED) và nạn nhân bất tỉnh, làm CPR trong khi máy được lấy ra và chuẩn bị. Gắn máy và làm theo hướng dẫn được cung cấp bởi máy AED sau khi máy đánh giá tình trạng nạn nhân.
Đau thắt ngực (Angina)
Angina là đau ngực hoặc cảm giác khó chịu do máu đến cơ tim bị giảm. Thường chữ angina được dùng khi bệnh nhân đ được định bệnh là có bệnh tim liên quan đến chứng xơ vữa động mạch. Đau thắt ngực có thể ổn định hoặc không ổn định:
- Đau thắt ngực ổn định - đau ngực bị đi bị lại, kéo dài, thường xảy ra khi làm việc thể chất nặng và biết trước được
- Đau thắt ngực không ổn định – xảy ra bất thình lình, l cơn đau ngực mới, hoặc không giống như thường xảy ra trước kia, có thể là tín hiệu một cơn đột quỵ tim.
Đau thắt ngực thường xảy ra nhưng khá khó khăn để phân biệt chứng này với các loại đau ngực khác, chẳng hạn như cơn đau hoặc khó chịu của bệnh khó tiêu.
Nếu bạn đang bị đau thắt ngực kèm với bất kỳ triệu chứng nào dưới đây thì đây có thể là dấu hiệu của một tình trạng nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như đột quỵ tim (heart attack):
- Đau ở cánh tay, cổ, hàm, vai hoặc lưng kèm theo đau ngực
- Buồn nôn
- Mệt
- Khó thở
- Bồn chồn lo lắng
- Đổ mồ hôi
- Chóng mặt
Mức độ nghiêm trọng, thời gian kéo dài và loại đau thắt ngực có thể khác nhau. Nếu bạn bị đau ngực khác với mọi lần hoặc mới bị lần đầu, những triệu chứng này có thể báo hiệu một loại đau thắt ngực nguy hiểm hơn (đau thắt ngực không ổn định) hoặc một cơn đột quỵ tim. Nếu cơn đau thắt ngực của bạn nặng hơn lên hoặc đổi khác, nên đến phòng cấp cứu ngay.
Tắc mạch phổi (pulmonary embolism)
Chứng tắc mạch phổi xảy ra khi một cục máu đông - thường là từ các tĩnh mạch của chân hoặc vùng chậu – mắc kẹt trong một động mạch trong của phổi, khiến máu không tới vùng mô phổi liên hệ, gây ra hoại tử vùng này. Điều này làm phổi khó cung cấp đủ oxygen cho cơ thể.
Các dấu hiệu và triệu chứng của chứng tắc mạch phổi có thể gồm có:
- Đột ngột đau ngực dữ dội, thường kèm theo khó thở
- Đột ngột khó thở, ngay cả khi không đau
- Ho, có thể kèm theo đờm dính máu
- Nhịp tim nhanh kết hợp với khó thở
- Ngất xỉu
- Bồn chồn lo lắng dữ dội
- Đổ mồ hôi không rõ nguyên nhân
Tắc mạch phổi có thể đe dọa tính mạng. Cần gọi 911 hoặc trợ giúp y tế khẩn cấp ngay lập tức.
Động mạch chủ bị tách vỏ (aortic dissection)
Động mạch chủ bị tách vỏ là một tình trạng nghiêm trọng, khi một vết rách xảy ra ở lớp vỏ bên trong của động mạch chủ, một mạch máu lớn chạy từ tim ra. Máu dâng qua vết rách này vào lớp vỏ giữa của động mạch chủ, khiến lớp vỏ trong và lớp vỏ giữa bị tách ra. Nếu vùng căng phồng đầy máu này bị vỡ động mạch chủ thông qua lớp vỏ ngoài, nạn nhân sẽ bị chết.
Các dấu hiệu và triệu chứng điển hình gồm có:
- Đột ngột đau ngực hoặc đau lưng vùng trên dữ dội, thường được mô tả như một cảm giác bị xé rách, hoặc bị cắt, lan lên cổ hoặc xuống lưng
- Bất tỉnh (ngất xỉu)
- Khó thở
- Đột ngột bị khó nói, mất thị giác, yếu hoặc liệt một bên của cơ thể, giống như bị stroke
- Đổ mồ hôi
- Mạch một bên tay yếu hơn so với bên kia
Nếu bạn đang gặp bất cứ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào kể trên, đây có thể là động mạch chủ bị tách vỏ hoặc một số điều kiện nghiêm trọng khác. Đến phòng cấp cứu ngay lập tức.
Viêm phổi kèm viêm màng phổi
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh viêm phổi thường là đau ngực kèm theo ớn lạnh, sốt và ho ra đờm có máu hoặc có mùi hôi. Khi viêm phổi xảy ra kèm theo viêm màng phổi, bệnh nhân có thể bị đau ngực đáng kể khi thở hay ho.
Một dấu hiệu của viêm màng phổi là cơn đau sẽ giảm đi tạm thời bằng cách nín thở hay đè lên vùng ngực bị đau, không giống như khi bị heart attck. Nếu bạn vừa mới được chẩn đoán viêm phổi và sau đó bắt đầu có triệu chứng của viêm màng phổi, nên gọi bác sĩ hoặc tìm chăm sóc y tế ngay lập tức để xác định nguyên nhân của cơn đau ngực. Viêm màng phổi tự nó không phải là một cấp cứu, nhưng bạn không nên tự định bệnh mà phải tới bệnh viện để được khám ngay.
Đau lồng ngực (chest wall pain)
Một trong những loại đau ngực thường xảy ra nhưng vô hại là đau lồng ngực. Một trong những loại đau lồng ngực làviêm sụn sườn. Chứng này gây đau và khó chịu trong và xung quanh các sụn nối xương sườn với xương ức.
Trong viêm sụn sườn, nhấn trên một số điểm dọc theo cạnh của xương ức thường gây ra đau đáng kể. Nếu chỉ dùng một ngón tay nhấn cũng gây đau ngực thì chắc rằng không phải một tình trạng nghiêm trọng, chẳng hạn như heart attack, là nguyên nhân của cơn đau ngực của bạn.
Các nguyên nhân khác của đau ngực gồm có:
- Bắp thịt ngực căng thẳng do vận động hay ho quá mức
- Bắp thịt ngực bị bầm do chấn thương nhỏ
- Bồn chồn (anxiety) bất chợt và ngắn hạn, kèm thở nhanh
- Bệnh viêm loét dạ dày
- Đau do đường tiêu hóa, chẳng hạn như trào ngược thực quản, đau loét dạ dày hoặc đau túi mật, có thể cảm thấy tương tự như triệu chứng đau tim
- Bệnh viêm màng bao tim

BS Nguyễn Thị Nhuận

Tuesday, February 16, 2016

Bệnh giảm tiểu cầu

Một ngày đẹp trời nào đó, bạn bỗng thấy chân tay mình nổi lên những chấm đỏ li ti lẩn trong da. Những chấm đỏ này xuất hiện ngày càng nhiều tuy bạn chưa cảm thấy triệu chứng gì cả. Như vậy là rất có thể bạn đã bị bệnh giảm tiểu cầu, và những chấm đỏ li ti kia là những điểm chảy máu nhỏ trên cơ thể.
Ta bị bệnh giảm tiểu cầu khi số lượng tiểu cầu trong máu xuống thấp tới một mức nào đó, gây ra nhiều triệu chứng mà dễ thấy nhất là chảy máu li ti dưới da. Tiểu cầu (thrombocytes) là những tế bào máu không màu, đóng một vai trò quan trọng trong việc làm đông máu. Tiểu cầu làm ngừng chảy máu bằng cách đóng cục lại và cắm vào chỗ hở (khiến gây ra chảy máu) của mạch máu.
Triệu chứng của bệnh giảm tiểu cầu: những chấm đỏ li ti ở chân dưới.


Triệu chứng
Bao gồm:
-Dễ bị bầm tím hay bị quá nhiều
-Chảy máu cạn dưới da thành những vết đỏ bầm li ti, thường là nơi chân dưới (bắp chuối)
-Chảy máu kéo dài khi bị đứt da
- Chảy máu nướu răng hoặc chảy máu mũi
-Nước tiểu hoặc phân có máu
-Kinh nguyệt ra nhiều máu bất thường
-Chảy máu rất nhiều khi giải phẫu hay sau khi làm răng
Khi nào nên đi khám bệnh?
Gọi bác sĩ nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào làm bạn lo lắng.
Chảy máu không ngừng là một trường hợp khẩn cấp. Cần tìm sự giúp đỡ ngay lập tức nếu bạn chảy máu mà không làm ngừng được bằng các kỹ thuật cấp cứu thông thường, chẳng hạn như đè chặt chỗ chảy máu một lúc lâu.
Nguyên nhân
Nếu vì bất kỳ lý do gì, số lượng tiểu cầu trong máu giảm xuống dưới mức bình thường thì được gọi là bệnh giảm tiểu cầu. Thông thường, chúng ta có từ 150.000 đến 450.000 tiểu cầu trong mỗi ml máu. Vì tiểu cầu chỉ sống khoảng 10 ngày, cơ thể chúng ta liên tục cung cấp tiểu cầu mới bằng cách sản xuất tiểu cầu trong tủy xương.Giảm tiểu cầu có nhiều nguyên nhân:

1.Tiểu cầu bị kẹt trong lá lách
Lá lách là một bộ phận lớn cỡ bàn tay, nằm ngay dưới khung xương sườn phía bên trái của bụngThông thường, lá lách hoạt động để chống nhiễm trùng và lọc các vật liệu không tốt từ máu. Lá lách bị lớn vì một nguyên nhân nào đó, có thể giữ lại quá nhiều tiểu cầu, khiến số lượng tiểu cầu lưu thông bị giảm đi.

2.Giảm sản xuất tiểu cầu
Tiểu cầu được sản xuất trong tủy xươngMột số bệnh như ung thư máu và thiếu máu có thể đưa đến số lượng tiểu cầu sản xuất bị giảm đi. Nhiễm siêu vi kể cả HIV, có thể làm giảm khả năng chế tạo tiểu cầu của tủy xương. Hóa chất, thuốc hóa trị và uống nhiều rượu cũng có thể làm giảm sản xuất tiểu cầu.

3.Tiểu cầu bị phân hủy quá nhiều
Một số bệnh có thể làm cơ thể sử dụng hoặc phá hủy tiểu cầu nhanh hơn là được sản xuất, khiến đưa đến tình trạng thiếu tiểu cầu trong máuVí dụ như:
-Mang thai.
Việc mang thai có thể gây ra giảm tiểu cầu nhẹ.
-Bệnh giảm tiểu cầu tự phát (ITP): Trong bệnh này, hệ thống miễn nhiễm coi tiểu cầu như một mối đe dọa và làm ra kháng thể tấn công và phá hủy chúng.
-Bệnh tự miễn nhiễm: Hệ thống miễn nhiễm của cơ thể tấn công các mô khỏe mạnh, gây ra giảm tiểu cầu. Ví dụ: bệnh lupus và thấp khớp.
-Nhiễm trùng máu có thể dẫn đến sự phá hủy tiểu cầu.
-Bệnh giảm tiểu cầu huyết khối (TTP): Trong bệnh hiếm thấy này, những cục máu đông nhỏ đột nhiên xuất hiện khắp cơ thể, sử dụng một số lượng lớn tiểu cầu.
-Hội chứng urê huyết: Bệnh hiếm gặp này gây ra giảm tiểu cầu, phá hủy các hồng huyết cầu và suy thận, đôi khi gây ra bởi vi trùng E. coli có trong thịt sống hoặc nấu chưa chín.
-Thuốc: Một số thuốc có thể làm giảm số lượng tiểu cầu trong máu vì tác dụng lên hệ miễn nhiễm khiến tiểu cầu bị phá hủy. Ví dụ: heparin, quinidine, quinine, sulfa, interferon, thuốc chống co giật và muối vàng.
Biến chứng
Khi số lượng tiểu cầu giảm xuống dưới 10.000/ ml, bệnh nhân có thể bị chảy máu nhiều, gây nguy hiểmGiảm tiểu cầu nặng cũng có thể gây chảy máu trong óc hoặc ở ruột, có thể gây chết người.
Phương pháp điều trị và thuốc
1.Giảm tiểu cầu nhẹ: Nhiều trường hợp giảm tiểu cầu nhẹ có thể không cần điều trị, bệnh sẽ tự hết. Ví dụ, giảm tiểu cầu nhẹ ở phụ nữ mang thai thường hết sau khi sinh.
2.Giảm tiểu cầu nặng hơn
-Điều trị nguyên nhân: Nếu bác sĩ có thể xác định nguyên nhân gây ra giảm tiểu cầu và chữa trị, triệu chứng sẽ hết.
-Truyền máu: Nếu mức độ tiểu cầu quá thấp, bác sĩ có thể cho truyền hồng huyết cầu hoặc tiểu cầu.
-Bệnh ITP có thể được chữa bằng các loại thuốc ngăn chặn kháng thể tấn công tiểu cầu như corticosteroid. Nếu corticosteroids không chữa được, bác sĩ có thể giải phẫu cắt bỏ lá lách hoặc dùng thuốc mạnh hơn để ngăn chặn hệ thống miễn dịch của bạn.
Tự giúp
Nếu bị bệnh giảm tiểu cầu, nên:
-Tránh các hoạt động có thể gây ra thương tích như các môn thể thao quyền Anh và bóng đá, hay cưỡi ngựa và trượt tuyết.
-Uống rượu ở mức độ vừa phải hay ngưng uống vì rượu làm chậm quá trình sản xuất tiểu cầu.
-Thận trọng khi dùng các loại thuốc over-the-counter. Thuốc giảm đau mua tự do có thể ảnh hưởng đến tiểu cầu của bạn: aspirin và ibuprofen (Advil, Motrin, hiệu khác).

BS Nguyễn Thị Nhuận

Tuesday, February 9, 2016

Các thuốc vitamin và nước tiểu vàng

Màu nước tiểu có thể giúp cho chúng ta biết về một số khía cạnh của sức khoẻ.
1) Bình thường, nước tiểu màu vàng nhạt do một chất gọi là urochrome (uro=nước tiểu; chrome=màu); hay urobilin.Thời Trung cổ, một số người tưởng đây là vàng thật, định trích vàng từ nước tiểu nhưng dĩ nhiên thất bại. Chất này là hậu quả của chất huyết sắc tố (hemoglobin) trong các hồng cầu trong máu. Các hồng cầu sống được chừng 120 ngày thì chết, bị thay thế và huỷ hoại, thải ra chất bilirubin, do gan đào thải vào ruột và đi vào phân biến thành urobilinogen, rồi thành chất stercobilin làm phân màu vàng. Một phần nhỏ urobilinogen được hấp thụ từ ruột vào máu và chuyển hoá thành urochrome (urobilin). Nếu cơ thể không đủ nước, nước tiểu đậm đặc hơn, và vàng hơn do nồng độ urochrome cao hơn. Nếu uống nhiều hoặc quá nhiều nước, urochrome nước tiểu bị pha loãng ra và gần như không còn màu vàng óng ánh.
2) Một số người bị bệnh phá huỷ hồng cầu nhiều quá (như bệnh sốt rét, bệnh huyết tán [hemolysis]), những người bệnh gan không chuyển hoá bilirubin được, hay ống dẫn mật của họ bị nghẽn, trong máu chứa quá nhiều bilirubin, làm họ vàng da. Một số bilirubin tan trong nước (conjugated bilirubin), được đào thải qua nước tiểu làm nước tiểu rất vàng và đậm. Trong những trường hợp nghẽn ống mật, vì bilirubin không vào ruột nhiều, phân trắng như đất sét, nước tiểu rất vàng vì chứa bilirubin, nhưng chất urochrome trong nước tiểu có thể thấp hơn bình thường.
Cho nên nói chung, lúc nào nước tiểu vàng cũng làm chúng ta nghĩ đến bệnh gan. Tuy nhiên, đa số trường hợp nước tiểu vàng nhiều chỉ vì cơ thể thiếu nước và do đó tiết kiệm nước bị đào thải qua nước tiểu, do đó nồng độ urochrome tăng và nước tiểu vàng.
Trong trường hợp người uống thuốc Centrum, các vitamin B được hấp thụ từ ruột, qua máu và phần dư được bài tiết vào nước tiểu. Vài giờ sau, hết thuốc thì hết màu vàng. Đặc biệt vitamin B2 còn gọi là riboflavin (flavus có nghĩa là vàng) là chất màu mạnh nhất. Vitamin C cũng như chất sắt cũng cho nước tiểu màu vàng, cũng như một số chất phụ trong một số thuốc cũng làm nước tiểu vàng. Centrum Silver cho người già không có chất sắt. Một số thuốc như rifampin chữa bệnh lao, nitrofurantoin (kháng sinh chữa nhiễm trùng đường tiểu) cũng có thể làm nước tiểu, nước mắt có màu vàng. Màu vàng có thể làm hư quần lót đắt tiền cũng như màu vàng trong nước mắt có thể làm soft contact lens bị lấm màu. Một số thức ăn như cải, cà rốt có thể làm thay đổi màu nước tiểu qua màu vàng ( do carotene). Thuốc trụ sinh ciprofloxacin làm nước tiểu màu hồng hay đỏ. Một số em bé do nước tiểu bị một con vi khuẩn ngoài môi trường (Serratia marcescens) chuyển hoá gây ra một chất màu đỏ; bác sĩ không kinh nghiệm và không cẩn thận có thể kết luận là em bé tiểu ra máu và thử nghiệm không cần thiết.
Nhân dịp chúng ta bàn về các viên multivitamin, xin nhắc lại ở đây vài điểm sau:
1)    Multivitamin cung cấp một số chất dinh dưỡng mà chúng ta không được cung cấp đầy đủ trong thức ăn uống. Ví dụ người ta thấy phần đông người Mỹ ăn không đủ calcium, potassium, vitamin D và vitamin B12.
2)    Tuy nhiên, đừng tin cậy quá nhiều vào những lời quảng cáo, nhà bào chế có thể gợi ý là thuốc của họ chữa bệnh này bệnh nọ, nhưng họ không nói trắng ra vì FDA không cho phép vì không có bằng chứng cho các chất thuốc bổ "nutritional supplements". Tuy nhiên FDA không trực tiếp quản lý (regulate) các loại thuốc bổ này nên người tiêu thụ cần tìm hiểu để đừng bị lường gạt.
3)    Nên uống đều đặn, nhưng coi chừng uống nhiều thứ cùng một lúc có thể chồng chéo lên nhau. Không phải càng nhiều càng tốt. Ví dụ uống quá nhiều vitamin A có thể gây tật bẩm sinh (birth defect) nếu người phụ nữ có bầu. Trên 50 tuổi nam cũng như nữ thường không cần uống thêm chất sắt.
4)    Ăn những thức ăn tươi, lành mạnh, đa dạng vẫn là nguồn dinh dưỡng tốt nhất.
5)    Những người có cách ăn uống riêng như ăn chay, không uống sữa, ăn kén, ăn ít để tụt cân nên tìm hiểu xem trong thực đơn mình thiếu những chất gì. Ví dụ người không uống sữa, ăn bơ, phô-ma (dairy products) có thể cần uống thêm Calcium và vitamin D.
6)    Phụ nữ đang tuổi có thể có con cần được cung cấp đầy đủ chất folic acid (một loại vitamin B) tìm thấy trong đậu lăng lentils, hạt đậu Hà Lan peas, rau xanh đậm (dark green vegetables, ví dụ: súp lơ xanh - broccoli, rau chân vịt - spinach, cải bắp - collard or turnip greens, mướp tây - okra, và măng tây - asparagus). Thiếu folic acid làm hệ thần kinh bào thai phát triển không bình thường (khuyết tật do ống thần kinh / neural tube defects). Từ 1998, ở Mỹ FDA khuyến cáo cho thêm folic acid vào bánh mì và cereal. Các thuốc như Centrum cho phụ nữ có chứa chất này đủ theo mức khuyến cáo là 400 microgram/ngày. Các thuốc bổ dành cho các bà có bầu (prenatal pills) chứa gấp đôi số lượng trên, là 800 microgram/ ngày.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Tuesday, February 2, 2016

Siêu vi Zika là gì?

Trong vài tuần gần đây, siêu vi zika là đề tài làm xôn xao giới y tế vì biến chứng nguy hại của nó: các bà bầu khi nhiễm siêu vi này và mắc bệnh trong lúc mang thai thì đứa bé sinh ra có thể bị nhiều bệnh khác nhau nhưng nguy hiểm nhất là chứng óc bị nhỏ (microcephaly) khiến đứa bé không thể sống bình thường được. Bệnh này đang hoành hành ở những quốc gia Nam Mỹ và mới đây bộ y tế các nước Ba Tây và Ecuador đã ra khuyến cáo rằng các bà nên “nhịn” mang bầu vài năm, chờ cho các bác sĩ tìm hiểu thêm về bệnh và tìm cách chữa. Quan trọng hơn là đã có tin một bà bầu ở Mỹ đang có bệnh khiến dân Mỹ cũng cần phải lo.
Vậy thì siêu vi Zika là gì?
Virus Zika là một loại siêu vi truyền đi qua muỗi. Các loại muỗi này được tìm thấy nhiều trong toàn khu vực châu Mỹ, gồm cả các vùng ở Hoa Kỳ. Chúng cũng truyền siêu vi gây bệnh sốt xuất huyết và chikungunya. Siêu vi Zika đã được ghi nhận là lây truyền qua cả hai ngả: truyền cho em bé khi còn trong tử cung, đưa đến nhiễm trùng bẩm sinh, và truyền trong khi sinh lúc siêu vi có trong máu của người mẹ. Siêu vi Zika cũng được phát hiện có trong sữa mẹ, nhưng chưa có bằng chứng là siêu vi có thể lây truyền qua sữa mẹ.
Người ta ước tính có khoảng 80% số người bị nhiễm virus Zika không có triệu chứng. Bệnh có triệu chứng thường là nhẹ: sốt, phát ban, đau khớp, hoặc viêm mắt. Các triệu chứng thường kéo dài từ vài ngày đến 1 tuần. Ít có trường hợp cần nhập viện và con số tử vong rất hiếm. Trong vụ dịch hiện nay ở Brazil, virus Zika đã được xác định trong mô não, nhau thai và nước ối từ một số trẻ sơ sinh bị đầu nhỏ và những trường hợp sẩy thai ở phụ nữ bị nhiễm virus Zika trong thai kỳ. Bộ Y Tế Brazil đã cho biết có sự gia tăng đáng kể số trẻ sinh ra bị đầu nhỏ và có điểm đóng vôi trong óc, nhưng không biết bao nhiêu trong số những trường hợp này có liên quan với việc nhiễm virus Zika.
Các triệu chứng
Khoảng 1 trong 5 người bị nhiễm virus Zika sẽ bị phát bệnh.
Các triệu chứng phổ biến nhất của Zika là sốt, phát ban, đau khớp, hay viêm kết mạc (mắt đỏ). Những triệu chứng khác bao gồm đau nhức bắp thịt và đau đầu. Thời kỳ ủ bệnh không được biết rõ, nhưng có khả năng là một vài ngày đến một tuần.
Bệnh thường nhẹ với các triệu chứng kéo dài trong vài ngày đến một tuần.
Virus Zika sẽ còn ở trong máu của người bị nhiễm bệnh một vài ngày, nhưng có thể lâu hơn ở một số người.
Bệnh nặng cần nhập viện ít thấy.
Trường hợp tử vong là rất hiếm.
Chẩn đoán
-Các triệu chứng của Zika tương tự như của bệnh sốt xuất huyết và chikungunya.
-Nên đi khám bệnh ngay nếu bạn có các triệu chứng được mô tả ở trên và đã từng đến vùng có virus Zika.
-Nếu gần đây bạn đã đi du lịch, nên nói cho bác sĩ về nơi chốn và thời gian bạn đi du lịch.
-Bác sĩ có thể yêu cầu xét nghiệm máu để tìm Zika hoặc virus tương tự khác như sốt xuất huyết hoặc chikungunya.
Điều trị
-Không có thuốc chích ngừa hoặc thuốc ngăn chặn hoặc điều trị nhiễm trùng Zika.
-Điều trị các triệu chứng bằng cách nghỉ ngơi nhiề, uống nhiều nước để tránh mất nước. Dùng các loại thuốc, chẳng hạn như acetaminophen hoặc paracetamol, để làm giảm sốt và đau
-Không dùng aspirin và các thuốc chống viêm không steroid khác (NSAID) như ibuprofen và naproxen. Nên tránh Aspirin và các NSAID khác cho đến khi chắc chắn sẽ không bị xuất huyết. Nếu bạn đang dùng thuốc cho những bệnh khác, nói chuyện với bác sĩ trước khi dùng thêm thuốc.
-Nếu bạn bị bệnh Zika, tránh muỗi cắn trong tuần đầu tiên của bệnh vì trong tuần đầu tiên của nhiễm trùng, virus Zika có trong máu và truyền qua con muỗi khi muỗi đốt.
-Sau đó con muỗi bị nhiễm virus có thể lây lan virus cho người khác khi nó đốt người đó.
Phòng ngừa
-Ngăn chặn vierus Zika bằng cách tránh muỗi đốt (xem bên dưới).
-Muỗi lây lan virus Zika thường cắn vào ban ngày.
-Khi đi du lịch đến các nước nơi có virus Zika hoặc virus khác lây lan qua muỗi được tìm thấy, làm các bước sau đây:
-Sử dụng thuốc chống côn trùng
-Khi được sử dụng theo chỉ dẫn, thuốc chống côn trùng an toàn và hiệu quả cho tất cả mọi người, kể cả phụ nữ mang thai và cho con bú.
-Hầu hết các chất này có thể được sử dụng cho trẻ em. Không sử dụng sản phẩm có chứa chất dầu gió cho trẻ em dưới ba tuổi.
-Chất chống côn trùng có chứa DEET, Picaridin, IR3535, và một số dầu gió và các sản phẩm para-menthane-diol cung cấp bảo vệ lâu dài.
-Nếu bạn sử dụng cùng một lúc kem chống nắng và thuốc chống côn trùng, áp dụng kem chống nắng trước.
-Không xịt thuốc chống côn trùng vào da dưới quần áo của bạn.
- Xịt permethrin vào quần áo hoặc mua quần áo có ngấm chất permethrin.
-Luôn luôn thực hiện theo các hướng dẫn trên nhãn khi sử dụng thuốc chống côn trùng hoặc kem chống nắng.
-Khi thời tiết cho phép, mặc áo sơ mi dài tay và quần dài.
-Dùng máy lạnh hoặc cửa sổ có cửa lưới để giữ muỗi bên ngoài. Nếu bạn không thể tự bảo vệ khỏi muỗi bên trong nhà hoặc khách sạn của bạn, nên ngủ trong mùng.
-Giúp giảm số lượng muỗi bên trong và bên ngoài phòng nhà hoặc khách sạn của bạn bằng cách làm sạch nước đọng từ các hộp đựng như chậu hoa hoặc xô.
-Nếu bị Zika, bạn cần bảo vệ người khác khỏi bị bệnh
--Nếu bạn bị bệnh Zika, tránh muỗi cắn trong tuần đầu tiên của bệnh vì trong tuần đầu tiên của nhiễm trùng, virus Zika có trong máu và truyền qua con muỗi khi muỗi đốt.
-Sau đó con muỗi bị nhiễm virus có thể lây lan virus cho người khác khi nó đốt người đó.
Du lịch cần làm gì?
-Vào trang web Travelers Health của CDC để xem quốc gia bạn sắp đến có thông báo về y tế nào không.
-Tìm đọc bài ngừa muỗi cắn (Mosquito Bite Prevention) cho du khách của CDC
Trường hợp virus Zika được tìm thấy
-Trước năm 2015, dịch Zika đã xảy ra ở khu vực châu Phi, Đông Nam Á và các đảo Thái Bình Dương.
Trong tháng 5 năm 2015, Tổ chức Y tế Mỹ (PAHO) đã ban hành một cảnh báo liên quan đến việc xác nhận ca nhiễm virus Zika đầu tiên ở Brazil.
-Hiện nay, dịch đang diễn ra ở nhiều quốc gia. Virus Zika sẽ tiếp tục lây lan, rất khó tiên đoán cách thức virus sẽ lan rộng theo thời gian.
Zika tại Hoa Kỳ và các vùng lãnh thổ tùy thuộc
Không có trường hợp bệnh Zika lây tại địa phương nào đã được báo cáo trong lục địa Hoa Kỳ, chỉ có những trường hợp bệnh nơi du khách mới về từ những vùng có dịch.
Với trận dịch gần đây, số lượng trường hợp Zika của các du khách đến thăm hoặc trở về Hoa Kỳ có khả năng sẽ tăng lên.
Những trường hợp này có thể dẫn đến lây lan virus tại địa phương ở một số khu vực của Hoa Kỳ.

BS NGUYỄN THỊ NHUẬN

Những điều cần biết về virus Zika

Sau đây là thông tin về virus Zika do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Trung tâm Phòng chống Dịch bệnh (CDC) cung cấp.
ZIKA LÀ GÌ?
Zika là một loại virus do muỗi lây truyền đang làn tràn khắp Nam và Trung Mỹ châu. Ngoài mặt, Zika không nghiêm trọng gì nhiều hơn so với bệnh cúm. Các triệu chứng chính, theo Trung tâm Phòng chống Dịch bệnh, là “sốt, xây xát, đau khớp và đỏ mắt.” Nhập viện vì bệnh này và chuyện bất thường, nhưng các ca bệnh nặng có thể kéo dài tới 1 tháng và đôi khi khiến người bệnh phải vào bệnh viện.
Nguồn xuất phát Zika
Zika được phát hiện vào năm 1947 ở rừng Zika thuộc Uganda. Cho đến năm 2007, các vụ bộc phát rất hiếm và giới hạn hẹp ở các khu vực của châu Phi và Đông nam châu Á. Nhưng trong thập niên vừa qua, đã có những cơn dịch được báo cáo ở Micronesia và Polynesia, Easter Island, quần đảo Cook và Tân Caledonia. Ca bệnh đầu ở Nam Mỹ xuất hiện vào tháng 4 năm 2015 ở Brazil, và căn bệnh sau đó đã lan nhanh qua khắp Trung và Nam Mỹ châu.
Bao nhiêu ca bệnh đã được báo cáo?
Cho đến nay, hơn 1 triệu ca bệnh đã được báo cáo riêng ở Brazil. Nhưng Tổ chức Y tế Thế giới nói bệnh sẽ tác động đến từ 3 đến 4 triệu người trước khi ngưng phát tác. Chỉ có 1 trong 5 người phơi nhiễm với bệnh là bị đau ốm, nhưng tất cả những người này đều có thể truyền bệnh qua đường bị muỗi đốt.
Phương pháp trị liệu
Không có thuốc chủng ngừa hay phương pháp trị liệu y học nào hiện có cho virus Zika; WHO và CDC đề nghị người bệnh nghỉ ngơi, uống nhiều nước và dùng acetaminophen để giảm sốt và đau. CDC đề nghị các bệnh nhân nhiễm bệnh tránh để muỗi đốt vì “virus Zika có thể thấy trong máu và lây truyền từ người bị nhiễm bệnh qua người khác bằng cách bị muỗi đốt.”
Nếu ít khi xảy ra trường hợp tử vong và phải nhập viện, vì sao lại lo ngại?
Mối đe dọa thực thụ, theo CDC, dường như là có một liên hệ giữa Zika và một khuyết tật bẩm sinh nghiêm trọng gọi là “microcephaly” – tiếng Việt gọi là nhỏ đầu”  (một tình trạng trong đó đầu của đứa trẻ bị nhỏ hơn dự kiến so với các đứa trẻ khác cùng tuổi và cùng giới tính).” Khuyết tật này dường như biểu hiện ở các trẻ của những phụ nữ đã nhiễm Zika trong lúc mang thai. CDC nói “kiến thức về liên hệ giữa Zika và các hậu quả này còn đang diễn tiến,” nhưng cho đến khi biết được nhiều hơn, CDC đề nghị “các biện pháp đề phòng đặc biệt cho các phụ nữ đang có thai hoặc tìm cách có thai.” Bộ Y tế Brazil mới đây cho hay họ đã thấy có thêm 4 ngàn ca bị chứng nhỏ đầu kể từ vụ bộc phát, so với chưa đầy 500 ca trong cả năm 2014.
Làm gì để tránh mắc bệnh?
CDC đã công bố một Lệnh cảnh báo Cấp 2 và đang kêu gọi những khách du hành đến khu vực thực thi điều cơ quan này gọi là “các biện pháp phòng ngừa tăng cường” để tránh bị muỗi đốt. Trong các biện pháp này là mặc áo dài tay và quần dài, dùng thuốc ngừa côn trùng có chứa DEET hay mặc quần áo có tẩm chất permethrin. Cuối cùng là ngủ trong những khu vực được che kín hay có điều hòa không khí. Ngoài ra, phụ nữ đang mang thai nên tính đến việc đình hoãn du hành hoặc ít nhất nói chuyện với bác sĩ về cách nào là tốt nhất để tránh bị muỗi đốt. Cũng thế với những phụ nữ đang tìm cách có thai.
Những biện pháp nào đang được thực thi để ngăn chặn Zika
Bất cứ con số nhà nghiên cứu và viện nghiên cứu nào đang đi tìm một loại thuốc chủng ngừa và chữa trị Zika, song cho đến khi nào tìm ra được thì cách tốt nhất để phòng chống bệnh là chống lại những con muỗi mang virus. Các giới chức ở Brazil và khoảng trên 2 chục nước đang báo cáo các ca bệnh do Zika và đang tiến hành việc xịt thuốc trừ côn trùng và kêu gọi công dân đừng để nước ứ đọng trong các bể chứa để muỗi không có nơi sinh sản.

Đau cơ hàm mặt và thiết bị giữ răng

1.    “Máng răng” (gouttiere tiếng Pháp nghĩa là máng xối) mà vị thính giả hỏi tương ứng với "retainer" ở Mỹ (tương tự như tiếng Pháp appareil de contention). Các retainer này hình bán trụ (demi-cylindre), như là cái máng xối, bọc theo hàm răng và giữ răng cho khỏi xê dịch sau khi đã được điều chỉnh cho đúng chuẩn trong giai đoạn đầu của chỉnh nha (orthodontics, French: orthodontie).
Retainer thường làm bằng plastic PVC, bọc vòng cung răng, 24 giờ trong ngày trừ lúc ăn phải lấy ra để hai hàm răng chạm với nhau. Cũng vì thế mà trên lý thuyết retainer có thể ảnh hưởng đến động lực học của các cơ nhai và khớp nối hàm với xương thái dương. Trong trường hợp người hỏi, bác sĩ nha khoa người Bỉ không giải thích được nguyên nhân thì có thể nguyên nhân nằm ở chỗ khác, hay có thể nhờ một bác sĩ nha khoa khác, có thể chuyên về chỉnh nha. Bác sĩ nha khoa có thể xem xét thay loại "máng xối" bằng loại "fixed retainers"là những sợi dây gắn vào phía mặt sau (phía lưỡi) của răng, bệnh nhân không gỡ ra được, phải săn sóc kỹ lưỡng vệ sinh răng miệng hơn vì răng dễ bị plaque (cao răng) hơn, nướu răng dễ bị viêm hơn vì dùng chỉ răng (dental floss) khó khăn hơn.
 
2.    Vị thính giả nhắc đến chứng "co cơ quai hàm co thắt làm đau", làm rối loạn giấc ngủ ban đêm và cũng xảy ra ban ngày.

Các cơ nhai (masticatory muscles) là những cơ được dùng nhiều nhất trong cơ thể, hàng ngàn lần mỗi ngày. Có những cơ phụ trách mở miệng (cơ hình cánh ngoài, external pterygoid muscles) và có những cơ phụ trách kéo hàm dưới lên, ngậm miệng lại: cơ masseter ( gốc Hy Lạp maseter có nghĩa là nhai) ở góc hàm dưới, cơ thái dương (temporal muscles) ở hai bên thái dương và cơ hình cánh trong nằm sau xương hàm. Masseter là cơ mạnh nhất trong cơ thể so với kích thước của nó, và là nơi có nhiều trigger point, những điểm mà nếu bị kích thích có thể gây triệu chứng chỗ khác như nhức đầu, đau tai, đau răng. Lúc nghiến răng, chúng ta có thể sờ thấy cơ masseter ở hàm và cơ thái dương co cứng lại.
Trong các cơn đau liên hệ tới răng miệng, người ta hay nhắc đến hai chứng sau:
1.    Bruxism (teeth grinding): là bệnh nhai hay nghiến răng (clenching) ban đêm lúc ngủ (sleep bruxism) hay ban ngày (daytime bruxism). Phụ nữ bị chứng bruxism ban ngày nhiều hơn. Nha sĩ khám thấy mặt trên của men răng bị mòn, hoặc có những vết nứt và gãy ở chân răng. Người bệnh nặng có thể bị nhức đầu, đau tai (mặc dù tai bình thường), đau các bắp cơ hàm, một phần vì các bắp thịt phụ trách các cử động xương hàm dưới phải làm việc quá nhiều, một phần có thể do khớp hàm-thái dương bị tổn thương. Nghiến răng lúc ngủ được xem như là một rối loạn cử động liên hệ tới giấc ngủ (sleep related movement disorder), và thường đi kèm với những rối loạn khác của giấc ngủ như ngáy (snoring) và ngưng thở lúc ngủ (sleep apnea).
Nói chung, trên thực tế, bệnh nhẹ chỉ cần đi khám răng đều đặn để bảo vệ sức khoẻ răng miệng. Nha sĩ có thể chế tạo cho bệnh nhân một loại vỏ bọc răng giống như “máng răng”, gọi là "night dental guard" để bệnh nhân mang ban đêm.
Chúng ta chưa hiểu rõ về nguyên nhân và cơ chế tại sao gây ra bệnh bruxism. Ngoài những nguyên nhân từ mất cân bằng hàm và răng ( malocclusion), có thể có những yếu tố khác như stress, lo âu, tràn dịch bao tử thực quản (dịch acid từ dạ dày chạy ngược lên thực quản và miệng, gastroesophageal reflux)), bệnh hệ thần kinh như Parkinson. Nói một cách khác, đau hàm do cơ co thắt hay cơ co thắt như là hiệu ứng của những rối loạn nào khác là một vấn đề khó giải quyết, nếu nặng và muốn biết tường tận cần nhiều bác sĩ khảo cứu và góp ý.
2.    Rối loạn trong khớp giữa xương thái dương và xương hàm (Temporomandibular joint disorder (TMD))
Một vấn đề khác mà chúng ta có thể để ý lúc bàn về chuyện cơ hàm co và đau. Đó là bệnh của khớp giữa xương thái dương và xương hàm (temporomandibular joint, TMJ). Nếu chúng ta để hai đầu ngón tay ngay phía trước lỗ tai và há miệng ra: phần nhúc nhích là 2 cái chấu của xương hàm dưới (condyle of the mandible) đang di chuyển trong một cái hố nhỏ là thành phần của xương thái dương, một phần của cái hộp sọ (mandibular fossa, hố dành cho hàm dưới).
Rối loạn trong TMJ (TMD: Temporomandibular Disorders) có thể gây ra những triệu chứng sau:
●    Đau ở khớp, đau mặt, đau ở cổ, ngay cả vai lúc nhai, nói, hay mở miệng.
●    Khó mở miệng, há miệng rộng không được.
●    Hàm dưới không mở ra được, hay không đóng lại được
●    Nhai khó.
●    Sưng mặt.
●    Cảm giác mỏi mệt trên mặt.
●    Tiếng kêu lắc cắc, lộp cộp lúc há miệng, nhai.
Nguyên nhân:
●    Chấn thương ở vùng khớp (trước tai)
●    Hư hại do nghiến rắng hay bruxism bàn ở trên.
●    Viêm, thoái hoá khớp.
●    Đĩa sụn trong khớp bị hư hại.

Định bệnh chính xác TMJ là thủ phạm một triệu chứng nào đó cần có bác sĩ nha khoa, bác sĩ chuyên về phẫu thuật răng hàm mặt hay bác sĩ chỉnh nha khám cẩn thận và điều trị nếu cần.
Bác sĩ nha khoa có thể làm mouth guard, chữa các răng hư và chỉnh đốn lại vị trí răng và hàm nếu cần.
Tuy vậy, có khảo cứu cho thấy yếu tố di truyền cũng như yếu tố tâm lý làm não bộ bệnh nhân phản ứng một cách quá nhạy cảm với nguồn gốc sự đau đớn, tương tự như trong các hội chứng đau mãn tính khác (chronic pain syndromes), nhất là ở phụ nữ. Mặc dù không tìm thấy bằng chứng khách quan về những tổn thương đáng kể ở các cơ hàm và vùng lân cận, bệnh nhân có thể trở thành quá mẫn (hypersensitivity) và điều kiện này có liên hệ đến những bệnh tâm lý như lo âu, trầm cảm, rối loạn stress sau chấn thương (post traumatic stress disorder). Khuynh hướng khá phổ biến cho rằng mọi triệu chứng đau trên đầu, mặt và hàm mà không tìm được nguyên nhân đều xuất phát từ TMJ là một tín điều đã được chứng minh là vô căn cứ. Nên tránh những phẫu thuật không cần thiết, chưa được chứng minh là có lợi.
Các triệu chứng TMD rất phổ biến, đại đa số trường hợp là nhẹ, không cần phải chữa. Chỉ chừng 5-10 cần trị liệu. Gần một nửa (40%) bệnh tự khỏi với thời gian.
Những biện pháp sau đây có thể giúp ích trong những trường hợp thông thường (theo WebMD):
1.    Uống thuốc giảm đau như acetaminophen, ibuprofen, theo chỉ dẫn.
2.    Đắp túi nước đá lên phía đau 10 phút. Tập há miệng ngậm miệng (jaw stretch) vài lần. Đắp khăn nhúng nước nóng 5 phút. Lập lại vài lần mỗi ngày.
3.    Ăn thức ăn mềm, không cần nhai nhiều. Không ăn những miếng cứng, dòn (crunchy, ví dụ củ cà rốt), dai và lớn làm mình phải há miệng rộng.
4.    Không la lớn, không hát lớn, ngáp lớn.
5.    Tránh tựa đầu trên bàn tay, nghẹo cổ để kẹp điện thoại.
6.    Tránh hai hàm răng chạm nhau. Nếu có thói quen nghiến răng ban ngày, giữ chóp lưỡi giữa hai hàm răng.
7.    Tập thư giãn các cơ hàm, nhờ nha sĩ hướng dẫn. Massage vùng trên của cơ masseter (trước trái tai, sau gò má) và cơ thái dương ở hai vùng "màng tang" hay thái dương ( giữa trán và tai). Giảm stress.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bệnh áp huyết cao

Nói chung, bác sĩ đo huyết áp bệnh nhân 2 lần hoặc nhiều lần hơn, và nên đo 2 bên phải và trái. Nếu cộng lại lấy số trung bình, áp suất lúc thu tâm (systolic pressure), là lúc tâm thất bóp vào (ventricular contraction), áp suất trên 140mm thuỷ ngân (above 140 mmHg), hay lúc trương tâm (diastolic pressure), là lúc tâm thất giãn ra để hứng máu từ tâm nhĩ chảy xuống (diastole), áp suất trương tâm (diastolic pressure) trên 90 mmHg thì định bệnh áp huyết cao.
Phân loại
(Categories)    Thu tâm (systolic), mmHg  Trương tâm (diastolic), mmHg
Tối hảo (Optimal)          <120           và         <80
Bình thường (Normal)      <130           và         <85
BT cao (High normal)      130–139          hay         85–89
Huyết áp cao (Hypertension)          
Stage 1 (nhẹ, mild)      140–159          hay/ or       90–99
Phân nhóm: vùng ranh giới
(Subgroup: borderline)         140–149          hay/or       90–94
Stage 2 (vừa, moderate)    160–179          hay/or       100–109
Stage 3 (nặng, severe)         ≥180                hay/ or       ≥110
Áp huyết thu tâm đơn độc:
(Isolated systolic hypertension)     ≥140          và         <90
Phân nhóm: cao, vùng ranh giới
(Subgroup: borderline)         140–149          và         <90
(Theo AHA)
Tuy nhiên bác sĩ có thể theo dõi một thời gian, đo đi đo lại trước khi dứt khoát là bệnh nhân mắc chứng áp huyết cao mãn tính. Nhất là nếu định bệnh huyết áp cao không rõ nguyên nhân (essential hypertension), cần loại bỏ những yếu tố như bệnh nhân lo âu lúc gặp người "áo choàng trắng" (white coat syndrome), đo lúc bệnh nhân vừa làm việc mệt nhọc, lúc nóng sốt, xúc động, dùng thuốc kích thích (caffeine, pseudoephedrine), có thể làm ảnh hưởng đến áp huyết. Có những người áp huyết lúc cao lúc thấp (labile hypertension). “Labile hypertension” là một chứng bệnh làm cho bệnh nhân áp huyết thay đổi đột ngột khi cao khi thấp nhiều lần trong ngày, khó giữ ở mức ổn định. Người bệnh có thể thấy nhức đầu, ù tai kèm theo. Những bệnh nhân này thường phản ứng với stress bằng các cơn áp huyết lên cao đột ngột. Stress có thể do mất việc làm, buồn phiền việc gia đình, hay chỉ những phiền toái đơn giản như phải chờ đợi lúc kẹt xe, bực bội vì một chuyện nhỏ nhặt nào đó. Stress cũng có thể do bệnh nhân sợ "máu cao" nguy hiểm cho mình, "đứt mạch máu", sợ chết.
Thường loại bệnh cao huyết áp "bất ổn" không đáp ứng tốt với các thuốc trị cao huyết áp thông thường. Uống thuốc loại này có thể làm huyết áp bất ổn thêm: ví dụ chóng mặt (dizziness) có thể không liên hệ đến huyết áp cao làm bệnh nhân sợ, sợ gây huyết áp vọt lên, bệnh nhân uống thuốc để hạ huyết áp, làm huyết áp tụt xuống quá thấp, lại gây chóng mặt, và như thế tiếp theo...Một số bệnh nhân cần có những biện pháp đối phó với chứng lo âu, đối phó với stress thay vì chữa bằng thuốc cao huyết áp: như dùng thuốc an thần, tâm lý trị liệu, hay những phương pháp thư giãn như thể thao, múa, thiền, tĩnh tâm v..v...
Cách đo áp huyết cũng quan trọng và cần để ý những điểm sau:
Về cách đo huyết áp bằng máy tự động:
1. Nên kiểm soát pin còn tốt hay không, pin yếu có thể đo sai.
2. Một số máy có ngày tháng và memory nhớ các kết quả cho hai người. Nên điều chỉnh cho đúng, có thể dành memory A, B cho mỗi người (vd vợ chồng khỏi lẫn lộn)
3. Ngồi xuống, lưng thẳng, đừng nằm xoài ra trên ghế.
4. Nghỉ ngơi vài phút, nhất là sau khi vừa mới làm việc gì mệt nhọc
5. Dùng cánh tay trần, hoặc áo vải mỏng; cởi áo len, áo khoác, v..v...
6. Để khuỷu tay phải lên bàn, cho máy đo nằm ngang tầm với tim, ngực mình.
7. Cho bờ dưới túi đo (cuff) cách nếp khuỷu tay chừng 1.25 cm (½ inch)
8. Cho ống cao su từ cuff nằm ngay giữa phía trước cánh tay.
9. Cho cuff bó vừa vào cánh tay, nếu thọc được hai đầu ngón tay vào phía trên là vừa.
10. Ngồi thẳng lên, hai chân nằm sát mặt đất và bắt đầu cho máy đo. Máy sẽ bơm cuff căng lên, làm cảm thấy tay bị siết lại.
11. Áp suất giảm từ từ, hai con số xuất hiện: số trên là áp suất thu tâm (SYS: systolic pressure) lúc tim bóp vào, và áp suất trương tâm (DIA: diastolic pressure) lúc tâm thất nghỉ ngơi và máu đi vào đầy hai tâm thất.
12. Nếu muốn đo lại để có trị số trung bình, có thể đo bên kia (trái), hoặc đợi vài phút trước khi đo lại cùng một bên (đo lại ngay có thể sai, quá thấp vì mạch máu vừa bị bóp chặt xong)
13. Nếu người mập quá, bắp cơ lớn quá, cần phải dùng máy có cuff lớn hơn trung bình. Nếu dùng cuff thường cho tay lớn quá, trị số áp huyết có thể quá cao so với áp suất thực tế (chẩn đoán cao áp huyết sai).(3)

Bác sĩ Hồ văn Hiền