Monday, December 14, 2015

Lợi và hại của thuốc Aspirin

Aspirin là môt tên thuốc rất quen thuộc với đa số chúng ta, một thứ thuốc làm giảm đau và sốt được sử dụng rất thường. Nhưng từ khoảng 35 năm trở lại đây, Aspirin bớt thông dụng vì các tác dụng phụ tai hại như làm chảy máu ruột hay Reyes syndrome. Sau khi các thuốc giảm đau khác như acetaminophen, ibuprofen dần thay thế nó, aspririn được khám phá là có thể giúp chống những cơn đột quị tim và tai biến mạch máu não nếu uống hằng ngày. Tuy nhiên việc dùng aspirin thường ngày như vậy không phải bao giờ cũng là điều tốt vì aspirin có nhiều tác dụng phụ tai hại.
Aspirin ngăn ngừa đột quị tim và stroke bằng cách nào?
Aspirin làm ngăn trở cơ chế đông máu. Khi chúng ta chảy máu, những tiểu cầu (platelets) có trong máu sẽ đóng cục ngay chỗ mạch máu bị đứt làm máu ngưng chảy. Nhưng cục tiểu cầu này có thể được thành lập ngay trong những mạch máu chạy đến nuôi tim và óc. Những mạch máu này có thể đã bị hẹp lại do những mảnh mỡ đóng trong thành mạch máu. Khi những mảnh mỡ này vỡ ra, tiều cầu sẽ đóng cục ngay tại đó làm mạch máu tắc, máu không chảy đến tim hay óc được gây ra đột quị tim hay stroke. Thuốc aspirin có thể ngăn chận các tiểu cầu đóng cục lại, nhờ thế ngăn được heart attack và stroke.
Tác dụng của aspirin lên đàn ông và đàn bà khác nhau
-Nơi đàn ông mọi lứa tuổi, aspirin có thể ngăn ngừa cơn đột quị tim đầu tiên và thứ nhì, giảm nguy cơ bị bệnh tim.
-Nơi đàn bà 65 tuổi hay lớn tuổi hơn, aspirin có thể ngăn ngừa cơn đột quị tim đầu tiên và thứ nhì, giảm nguy cơ bị bệnh tim và ngăn ngừa cơn stroke đầu tiên.
-Nơi đàn bà dưới 65 tuổi, aspirin có thể ngăn ngừa cơn đột quị tim thứ nhì, giảm nguy cơ bị bệnh tim và ngăn ngừa cơn stroke đầu tiên.
Tuy nhiên nguy cơ bị chảy máu khi uống aspirin hằng ngày thì giống nhau cho cả hai phái.
Như vậy có nên uống aspirin mỗi ngày không?
Điều này tùy thuộc vào nguy cơ bệnh tim và srtoke của bạn có cao không. Những yếu tố dễ gây ra nguy cơ bệnh tim và stroke gồm có:
- Hút thuốc
- Huyết áp cao trên 140/90
- Mực cholesterol là 240 mg/dl hay cao hơn
- Mực cholesterol xấu LDL 130mg/dl hay cao hơn
- Không tập thể thao thường xuyên
- Bị bệnh tiểu đường
- Bị stress nhiều
- Uống rượu nhiều, đàn ông trên 2 ly mỗi ngày, đàn bà trên 1 ly mỗi ngày
- Trong gia đình có người bị stroke hay heart attack
Nếu bạn đã từng bị heart attack hay stroke, phần nhiều là bác sĩ đã có nói với bạn về chuyện uống thuốc aspirin để ngăn ngừa cơn bệnh thứ hai.
Nếu bạn có những yếu tố dễ gây bệnh nhưng chưa từng bị heart attack hay stroke, bạn cũng có thể uống aspirin để tránh chúng. Tuy nhiên, bạn nên nói chuyện với với bác sĩ để xem mình có những yếu tố gây nguy cơ chảy máu nguy hiểm không.
Nếu có bệnh dễ gây chảy máu thì có uống aspirin được không?
Bạn không nên uống aspirin nếu bạn bị những bệnh có thể gây ra chảy máu như sau:
- Bệnh về đông máu khiến bạn bị chảy máu dễ dàng
- Bệnh suyễn
- Bệnh loét bao tử
- Bệnh suy tim
Cũng rất quan trọng là bạn nên nói cho BS biết tất cả những thuốc bạn đang uống kể cả thuốc bổ (supplements) hay thuốc mua tự do. Uống aspirin chung với thuốc ibuprofen (Advil, Motrin…) làm giảm lợi ích của aspirin. Uống aspirin chung với thuốc chống đông máu như warfarin (Coumadin) có thể làm tăng cao nguy cơ chảy máu.
Nên uống lượng aspirin nào?
Không có một liều lượng nhất định cho tất cả mọi người. Bạn và BS của bạn sẽ phải quyết định liều lượng. Liều thật thấp là 71mg/ ngày có thể cũng hiệu nghiệm. Bác sĩ có thể cho uống từ 81 tới 325mg/ ngày.
Chuyện gì xảy ra khi bạn ngưng uống thuốc?
Có thể bạn không ngờ rằng hành động giản dị là ngưng uống thuốc aspirin lại có thể gây ra hậu quả tai hại. Nhưng điều này có thể và đã xẩy ra: ngưng uống aspirin đột ngột sẽ có thể đưa tới tác dụng ngược là làm máu dễ đông khiến xẩy ra heart attack và stroke. Nếu bạn muốn ngừng uống aspirin, cần bàn với BS của bạn.
Bạn đang uống ibuprofen để chữa một bệnh khác, vậy bạn có thể uống aspirin không?
Aspirin và ibuprofen đều có tác dụng ngăn tiểu cầu làm việc. Uống cả hai thứ có thể làm tăng nguy cơ chảy máy bên trong. Nếu bạn chỉ cần uống ibuprofen 1 lần trong ngày, nên uống nó 8 tiếng đồng hồ trước hay 30 phút sau khi uống aspirin. Nếu bạn cần uống ibuprofin nhiều lần hơn, nên nói chuyện với bác sĩ để tìm ra một thuốc thích hợp nhất
Những tác dụng phụ của aspirin
Gồm có:
-Stroke do chảy máu (hemorrhagic stroke): aspirin giúp tránh stroke do máu đông nhưng lại có thể gây ra stroke do chảy máu.
-Chảy máu đường ruột: uống aspirin mỗi ngày có thể làm bạn dễ bị loét bao tử. Nếu bạn đang chảy máy vì loét bao tử, uống aspirin sẽ làm bạn chảy máu nhiều hơn và có thể nguy đến tính mạng.
-Dị ứng: nếu bạn dị ứng với aspirin, dù uống rất ít bạn cũng có thể bị phản ứng rất nặng nguy đến tính mạng.
-Ù tai và lãng tai: uống nhiều có thể gây ra ù tai và lãng tai nơi một số người.
Nếu bạn đang uống aspirin và cần phải đi mổ hay làm răng, bạn nên cho bác sĩ mổ hay nha sĩ biết điều này hầu có thể đối phó. Nếu không, bạn có thể bị chảy máu nhiều khi đang mổ hay làm răng.
FDA cũng khuyên bệnh nhân đang uống aspirin nên uống giảm bớt rượu vì rượu cũng có tác dụng loãng máu và loét bao tử. Nếu bạn đang uống aspirin mỗi ngày, bạn chỉ nên uống không quá 2 ly mỗi ngày nếu là đàn ông và không quá 1 ly mỗi ngày nếu là đàn bà.
Tác dụng của thuốc khác khi uống chung với aspirin
Nếu bạn đang uống thuốc chống đông máu như warfarin (Coumadin) để chữa một bệnh khác, uống thêm aspirin sẽ làm bạn dễ chảy máu nặng nhiều hơn. Nếu có bệnh như thay van tim nhân tạo ngăn ngừa cơn stroke thứ nhì, bệnh nhân có thể được cho uống cả 2 thứ, tuy nhiên, cần sự theo dõi sát của bác sĩ.
Những thuốc sau có thể làm tăng nguy cơ chảy máy nếu uống chung với aspirin:
-Warfarin (Coumadin)
-Heparin Ibuprofen uống thường xuyên
-Corticosteroids
-Thuốc chống trầm cảm như clomipramine, paroxetine…
Những thuốc bổ (supplements) sau có thể làm tăng nguy cơ chảy máu:
-Danshen
-Dong quai
-Evening primrose oil
-Ginkgo
-Omega-3 fatty acid (dầu cá)
-Policosanol
-Willow bark
Nếu đang uống aspirin mỗi ngày, có nên uống thêm khi đang bị heart attack?
Một số lớn các bệnh nhân đang bị heart attack thường được khuyên nên nhai 1 viên aspirin người lớn hay 2 tới 4 viên aspirin con nít. Bệnh nhân vẫn cần phải theo lời khuyên này dù đang uống aspirin hằng ngày. Nhai viên thuốc giúp thuốc được hấp thụ vào máu nhanh hơn. Tuy nhiên nếu bạn bị bệnh loãng máu, không nên uống aspirin khi đang bị heart attack. Không nên uống aspirin nếu nghĩ rằng bạn đang bị stroke vì không phải stroke nào cũng gây ra do cục máu đông mà có thể do một mạch máu vỡ ra làm chảy máu. Uống thêm aspirin vô sẽ làm stroke nặng hơn.
Có nên uống thuốc aspirin có vỏ bọc ngoài?
Thuốc aspirin có vỏ bọc có mục đích đi qua bao tử nguyên vẹn và chỉ tan ra khi tới ruột. Thuốc này dễ chịu cho bao tử hơn và có thể thích hợp cho những người đang uống aspirin thường ngày, nhất là những người từng bị loét bao tử. Tuy nhiên, nó cũng không giúp tránh chảy máu trong bao tử và ruột, lại lâu được hấp thụ vào máu hơn.
Superaspirin là gì?
Đây là một loại thuốc mới có thể dùng thay thế hoặc dùng thêm với aspirin. Chúng được gọi là thuốc cản tiểu cầu đóng cục và làm giảm nguy cơ đông máu. Chúng có tác dụng giống aspirin nhưng hành động cách khác. Các loại thuốc này gồm có Plavix, Integrilin và các tên khác. Chúng có thể được dùng như sau:
-Kèm chung với aspirin để ngăn ngừa cơn heart attack hay stroke thứ nhì
-Trong 1úc bị heart attack hay stroke do đông máu
-Trước và sau khi thông tim và đặt ống trong mạch máu tim
-Chữa bệnh nghẽn động mạch trong tay và chân
Bạn có thể được cho uống superaspirin nếu cơ thể bạn chống tác dụng của aspirin khiến nó không hiệu quả, bị dị ứng với aspirin hay không chịu được những phản ứng phụ.
Plavix và aspirin dùng chung chỉ dành cho những người bị những bệnh tim và van tim đặc biệt. Nếu bạn đang dùng Plavix và aspirin nhưng chưa từng bị heart attack hay stroke, không nên ngưng uống bất thình lình mà phải hỏi ý kiến bác sĩ trước.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Bọ hôn và bệnh Chagas

Bọ hôn rất nguy hiểm vì chúng có thể truyền một loại bệnh lạ đối với người dân California, đó là bệnh Chagas. Bọ hôn có tên như vậy vì chúng thường cắn vào môi nạn nhân.

Chagas (Chah-gus) là một bệnh truyền nhiễm gây ra bởi ký sinh trùng được tìm thấy trong phân của con bọ triatomine (reduviid) hay “bọ hôn” nói trên. Bệnh Chagas rất thông thường ở Nam Mỹ, Trung Mỹ và Mexico, nơi có nhiều bọ triatomine. Vài trường hợp hiếm gặp của bệnh Chagas đã được tìm thấy ở miền Nam Hoa Kỳ. Gần đây, CDC cho biết đã tìm thấy bọ hôn tại các tiểu bang miền Nam nước Mỹ, có cả Nam California.

Cũng được gọi là bệnh trypanosomiasis Mỹ, bệnh Chagas có thể lây nhiễm bất kỳ ai, nhưng được chẩn đoán thường nhất ở trẻ em. Nếu không điều trị, bệnh Chagas sau có thể gây ra đau tim trầm trọng và các vấn đề tiêu hóa.

Điều trị bệnh Chagas gồm có tiêu diệt ký sinh trùng trong giai đoạn nhiễm trùng cấp tính và quản lý các dấu hiệu và triệu chứng ở các giai đoạn sau. Chúng ta cũng có thể thực hiện các bước để ngăn chặn sự nhiễm trùng, quá.

Bệnh Chagas có thể gây ra cơn bệnh ngắn (cấp tính) thình lình, hoặc nó có thể là một bệnh kinh niên lâu dài. Các triệu chứng có thể từ nhẹ đến nặng, và nhiều người không có triệu chứng nào cả cho đến giai đoạn mãn tính.
Giai đoạn cấp tính
Giai đoạn cấp tính của bệnh Chagas, kéo dài trong vài tuần hoặc vài tháng, thường không có triệu chứng. Khi có triệu chứng xuất hiện, chúng thường nhẹ và có thể bao gồm:
-Sưng ở chỗ nhiễm bệnh
-Sốt
-Mệt mỏi
-Phát ban
-Nhức mỏi cơ thể
-Sưng mí mắt
-Đau đầu
-Ăn mất ngon
-Buồn nôn, tiêu chảy hoặc nôn mửa
-Viêm hạch
-Gan hoặc lá lách sưng to
Các dấu hiệu và triệu chứng phát triển trong giai đoạn cấp tính thường tự hết đi. Nhưng nếu không chữa trị, bệnh vẫn còn đó và, trong một số trường hợp, tiến tới giai đoạn mãn tính.
Giai đoạn mãn tính
Các dấu hiệu và triệu chứng của giai đoạn mãn tính của bệnh Chagas có thể xảy ra 10-20 năm sau khi nhiễm bệnh đầu tiên, hoặc có thể không bao giờ xảy ra. Trong trường hợp nặng, các triệu chứng bệnh Chagas có thể bao gồm:
-Nhịp tim không đều
-Suy tim sung huyết
-Ngừng tim đột ngột
-Khó nuốt do thực quản mở rộng
-Đau bụng hoặc táo bón do đại tràng bị to ra
Khi nào nên đi khám bệnh
Nên đi khám bác sĩ nếu bạn sống hoặc đã đi du lịch ở một khu vực có nguy cơ mắc bệnh Chagas và bạn có các triệu chứng của tình trạng này, chẳng hạn như sưng tại chỗ nhiễm bệnh, sốt, mệt mỏi, đau nhức cơ thể, phát ban, buồn nôn.
Nguyên nhân
Nguyên nhân của bệnh Chagas là ký sinh trùng Trypanosoma cruzi, được truyền sang người qua vết cắn của con bọ triatomine. Con bọ này bị nhiễm T. cruzi khi chúng ăn máu từ một con vật đã bị nhiễm ký sinh trùng này. Bọ Triatomine thường sống trong bùn, lá hoặc những túp lều adobe ở Mexico, Nam Mỹ và Trung Mỹ. Chúng ẩn ở các khe trong các bức tường hoặc mái lều trong ngày, sau đó đi ra vào ban đêm và cắn người đang ngủ. Sau khi ăn, chúng phóng uế, để lại ký sinh trùng T. cruzi trên da. Sau đó các ký sinh trùng có thể xâm nhập cơ thể của bạn thông qua mắt, miệng, một vết cắt hoặc vết xước, hoặc vết thương do vết cắn của con bọ.

Gãi hoặc chà xát chỗ cắn giúp các ký sinh trùng xâm nhập cơ thể của bạn. Một khi vào trong cơ thể, các ký sinh trùng sẽ sinh sôi và lây lan.
Bạn cũng có thể bị lây nhiễm bởi:
-Ăn thức ăn chưa nấu chín có chứa phân từ bọ T. cruzi
-Được sinh ra từ một người phụ nữ bị nhiễm T. cruzi
-Từng được truyền máu nhiễm bệnh
-Được ghép nội tạng có chứa T. cruzi
-Làm việc trong phòng thí nghiệm, tình cờ tiếp xúc với ký sinh trùng
-Ở lâu trong một khu rừng có chứa động vật hoang dã bị nhiễm, chẳng hạn như con g raccoons và opossums
-Tiếp xúc với con vật nuôi bị nhiễm bệnh
Các yếu tố sau có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh Chagas:
-Sống ở khu vực nông thôn nghèo khó của Trung Mỹ, Nam Mỹ và Mexico
-Sống ở một căn nhà có chứa bọ triatomine
-Nhận truyền máu hay cấy ghép nội tạng từ một người bị nhiễm trùng
Thật hiếm có cho du khách tại các khu vực có nguy cơ ở Nam Mỹ, Trung Mỹ và Mexico để nhiễm bệnh Chagas vì du khách thường ở trong các tòa nhà được xây dựng tốt, chẳng hạn như các khách sạn. Bọ Triatomine thường được tìm thấy trong các cấu trúc xây dựng bằng bùn hoặc adobe hoặc tranh.
Biến chứng
Nếu bệnh Chagas tiến triển đến giai đoạn mãn tính, biến chứng tim hoặc tiêu hóa nghiêm trọng có thể xảy ra, bao gồm:
-Suy tim. Suy tim xảy ra khi trái tim trở nên quá yếu hay cứng và không thể bơm đủ máu để đáp ứng nhu cầu của cơ thể.
-Thực quản bị nở lớn (megaesophagus). Biến chứng này là do sự giãn rộng bất thường của thực quản, gây khó nuốt và tiêu hóa.
-Đại tràng nở lớn (megacolon). Megacolon xảy ra khi ruột già giãn nở bất thường, gây đau bụng, chướng bụng và táo bón nặng.
Nên gặp bác sĩ gia đình. Tùy thuộc vào khám nghiệm, bác sĩ có thể giới thiệu bạn đến một chuyên gia bệnh truyền nhiễm.
Chẩn bệnh
Nếu bạn có các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh Chagas, thử nghiệm máu có thể xác nhận sự hiện diện của ký sinh trùng T. cruzi hoặc kháng thể chống lại ký sinh trùng này trong máu của bạn.
Nếu bạn được chẩn đoán với bệnh Chagas, bạn có thể sẽ trải qua các thử nghiệm thêm để xác định xem bệnh đã bước vào giai đoạn mãn tính và gây ra các biến chứng tim mạch hoặc tiêu hóa không. Các thử nghiệm này có thể bao gồm:
-Điện tâm đồ, ghi lại hoạt động điện của tim
-Chụp X-ray, xem trái tim của bạn có bị lớn ra không
-Siêu âm tim, một xét nghiệm sử dụng sóng âm để chụp hình ảnh chuyển động của trái tim, cho phép bác sĩ nhìn thấy bất kỳ thay đổi của tim hoặc chức năng của nó
-Chụp X-ray bụng để thấy hình ảnh của dạ dày, ruột và đại tràng
-Nội soi trên, một thủ tục trong đó bạn nuốt vào một ống nội soi để truyền các hình ảnh của thực quản của bạn lên một màn hình
Điều trị
Điều trị bệnh Chagas tập trung vào tiêu diệt ký sinh trùng và chữa các triệu chứng.
Trong giai đoạn cấp tính của bệnh Chagas, các loại thuốc theo toa benznidazole và nifurtimox có thể có lợi. Cả hai loại thuốc có sẵn trong các khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi bệnh Chagas. Tại Hoa Kỳ, các thuốc này có thể chỉ được mua qua các Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh.
Một khi bệnh Chagas đạt đến giai đoạn mãn tính, thuốc này không chữa được bệnh. Tuy nhiên, các thuốc này có thể được cung cấp cho những người dưới 50, vì họ có thể giúp làm chậm sự tiến triển của bệnh và các biến chứng nghiêm trọng nhất của nó.
Điều trị những triệu chứng cụ thể:
-Các biến chứng liên quan đến tim. Điều trị bao gồm thuốc, máy tạo nhịp tim hoặc các thiết bị khác để điều chỉnh nhịp tim, phẫu thuật, hoặc thậm chí là cấy ghép tim.
-Biến chứng tiêu hóa. Điều trị có thể bao gồm sửa đổi chế độ ăn uống, thuốc men, corticosteroids hoặc, trong trường hợp nặng, giải phẫu.
Phòng ngừa
Nếu bạn sống trong một khu vực có nguy cơ cao mắc bệnh Chagas, các bước sau có thể giúp bạn ngăn ngừa nhiễm trùng:
-Tránh ngủ trong hoặc nhà bùn, lá, adobe, là những loại nhà có thể chứa bọ triatomine.
-Sử dụng mùng có tẩm thuốc trừ sâu trên giường của bạn khi đang ngủ trong hoặc nhà tranh, bùn, gạch sống adobe.
-Sử dụng thuốc trừ sâu để loại bỏ côn trùng từ nơi cư trú của bạn.
-Sử dụng thuốc chống côn trùng trên da.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Monday, November 23, 2015

Phẫu thuật bằng dao Gamma

Dao Gamma (Gamma Knife Surgery, Stereotactic Radiosurgery)
●    Stereotactic radiosurgery: phẫu thuật bằng quang tuyến theo hướng dẫn 3 chiều (stereo: 3 chiều, tri-dimensional, radio=quang tuyến, vô tuyến, surgery=phẫu thuật, giải phẫu)
●    Tuy gọi là dao, đây không phải là một dụng cụ giải phẫu theo lối truyền thống, nghĩa là không cắt da, cắt xương sọ để đi vào vùng não bộ cần phá huỷ hay cắt bỏ.
●    Tia gamma: Tia gamma (kí hiệu là γ) là một loại bức xạ có tần số cực cao.
●    Tia gamma có bước sóng thấp nhất (wave length <10−12 meter) và tần số cao nhất (frequencies above 10 exahertz (or >1019 Hz)) trong số các sóng điện từ vì vậy nó mang nhiều năng lượng hơn. Tia gamma sinh ra từ quá trình phân rã (decay) các hạt nhân nguyên tử có trạng thái năng lượng cao; ở đây chất đồng vị phóng xạ được dùng để sinh tia gamma là chất Cobalt 60.
 
Những bệnh sau đây thường được phẫu thuật bằng tia gamma:

1.    U bướu hay các tổn thương não bộ (tumors or brain lesions);
2.    U thần kinh thính giác (acoustic neuroma);
3.    Thần kinh số V đau (làm đau vùng mặt, trigeminal neuralgia) do bị một u bướu trong sọ đè lên dây thần kinh V (trigeminal nerve);
4.    Những mạch máu nối động mạch và tĩnh mạch bất bình thường (arteriovenous malformations, AVM) ;
5.    Trong những trường hợp không dùng phẫu thuật thông thường để tiếp cận các u bướu (ví dụ di căn [metastasis] của ung thư phổi rải rác lên não bộ);
6.    Hay tình trạng chung bệnh nhân quá yếu không thể phẫu thuật bằng dao kéo được.

Nói chung, tia gamma tác dụng lên trên DNA (là chất liệu di truyền của tế bào bất thường của u bướu hay vùng cần bị phẫu thuật), làm cho tế bào không nhân lên được, u bướu bị teo lại, các mạch máu bất thường AVM tắc nghẽn và teo lại.
Tôi nghĩ trước khi giải phẫu, bác sĩ sẽ cho bệnh nhân biết trước những gì có thể xảy ra, chuẩn bị như thế nào và những biến chứng gì có thể xảy ra. Nói vắn tắt, sẽ có 4 giai đoạn:
1.    Chuẩn bị: Bệnh nhân được gắn vào đầu một cái khung titanium (titanium head frame placement), với các ốc bám chặt vào đầu, nên cần thuốc tê cho khỏi đau đớn, để làm cơ sở định vị trong công việc định chính xác vị trí của u bướu hay vùng bệnh cần giải phẫu.
2.    Bệnh nhân được làm MRI hay CT đầu (tumor or lesion location imaging).
3.    Các chuyên viên sẽ tính toán các chi tiết như liều lượng, vị trí của các tia gamma dùng cho phẫu thuật (radiation dose calculation).
4.    Sau đó bệnh nhân được đưa vào lòng máy dao gamma, được mang một cái nón [collimator helmet] có nhiều lỗ, để hướng các tia gamma vào một vị trí chính xác, hội tụ trên u bướu hay vùng thương tích cần giải phẫu.

Trước khi làm phẫu thuật, bệnh nhân có thể chuẩn bị những điểm sau đây:
1.    Cho bác sĩ biết nếu mình bị dị ứng (allergies) với những chất như cao su, latex, iod, thuốc tiêm, băng keo, v..v...
2.    Cho bs biết nếu mình bị bệnh dễ chảy máu.
3.    Nếu mình mang pacemaker (điều tiết nhịp tim), các implants tai, stent trong tim, mạch máu, máy bơm thuốc tự động.
4.    Nếu mình có thai hoặc có thể có thai.
5.    Cần nhịn đói 8 giờ trước khi làm phẫu thuật, thường người ta cho nhịn đói sau 12 giờ khuya đêm trước.
6.    Vẫn uống các thuốc thường lệ (như thuốc huyết áp, tiểu đường).
7.    Có thể gội đầu bằng một thuốc shampoo đặc biệt đưa trước cho bệnh nhân.
8.    Những nơi gắn ốc để mang khung titanium có thể cần được cạo tóc hoặc không cần.
9.    Một số nơi bác sĩ cho bệnh nhân thuốc an thần trước khi làm phẫu thuật, tuy nhiên bệnh nhân vẫn tỉnh táo trong suốt thời gian trong máy, và liên lạc với chuyên viên bên ngoài bằng intercom trong lúc họ theo dõi bệnh nhân trên video.

Phẫu thuật:
Kéo dài 1-60 phút tuỳ trường hợp (radiation treatment). Có thể kéo dài vài giờ. Thường thì chỉ làm một lần mà thôi (one session).
Xong bệnh nhân được gỡ khung khỏi đầu mình, theo dõi một thời gian ngắn, có thể về nhà trong ngày hoặc ngày sau.
Bệnh nhân được theo dõi bằng MRI, hay CT theo định kỳ ví dụ 6 tháng -12 tháng sau khi giải phẫu.
Sau khi hoàn tất phẫu thuật:
●    Sau một thời gian theo dõi ở bệnh viện, thường bệnh nhân được về nhà trong ngày, hoặc có thể ở một đêm trong bệnh viện. Nên có người lái xe cho mình về nhà sau khi phẫu thuật.
●    Sau đó thì, trừ trường hợp bác sĩ dặn trước, bệnh nhân thường được sinh hoạt như bình thường.
●    Bệnh nhân cần liên lạc với bác sĩ nếu nhức đầu nhiều quá, các chỗ gắn khung đầu chảy máu, chóng mặt, mờ mắt rất nhiều so với trước khi phẫu thuật, động kinh.
●    Một số bác sĩ nghĩ rằng tia gamma ảnh hưởng đến chất myelin là chất bọc và che chở các dây axon của tế bào thần kinh trong não bộ, do đó bệnh nhân có thể cảm thấy rất mỏi mệt và sau đó có thể thấy trí nhớ ngắn hạn (short term memory) cần dùng để tính toán, sinh hoạt thông thường (ví dụ hay quên, đãng trí, ví dụ quên đường phố mình mới đi qua, trước khi rẽ qua đường khác) có thể bị ảnh hưởng.

Xin nhớ tất cả các nhận xét trên chỉ có tính cách thông tin, độc giả cần được bác sĩ khám bệnh và được bác sĩ theo dõi.
Bs Hồ Văn Hiền

Chứng hôi miệng

Hôi miệng là một triệu chứng thường gặp, được định nghĩa như là sự hiện diện dai dẳng hay thường gặp của một mùi trong hơi thở làm khó chịu.
1.    Nguyên nhân:
Trái với thành kiến phổ thông, hơi thở không phản ảnh tình trạng tiêu hoá, nghĩa là việc thức ăn được tiêu hoá tốt hay không trong bao tử, trong ruột, hay một bệnh gì đó trong ống tiêu hoá.
Thực quản (esophagus) nối liền miệng với dạ dày được xẹp lép xuống trong tình trạng bình thường. Chỉ lúc ợ hơi thì khí trong dạ dày mới thoát ra ngoài và ảnh hưởng đến hơi thở.
85% nguyên nhân ở miệng: đa số các trường hợp hôi miệng do những thức ăn còn dính trong miệng bị các khuẩn gram âm yếm khí ( hay kỵ khí) (anaerobic gram negative bacteria), làm cho lên men (fermentation), tạo nên những hợp chất bay hơi như hydrogen sulfide và methyl mercaptan.
Nướu răng (gum, gingiva) bị bệnh, như trong trường hợp bệnh chu nha (periodontal disease), nướu bị loét hay các mô bị chết (hoại tử). Bệnh chu nha là bệnh nhiễm khuẩn mãn tính của nướu răng và xương bao bọc quanh chân răng; nếu không chữa, bệnh nặng có thể đi đến rụng răng.
Viêm nướu răng (gingivitis) do nướu răng phản ứng với plaque, là những chất dẻo và dính (“cao” răng) do vi khuẩn đọng lại, để lại trên mặt ngoài của răng. Dần dần, chất vôi calcium đọng thêm vào, biến thành đá răng (tartar hay calculus), cần được nha sĩ dùng dụng cụ lấy ra. Viêm nướu là bước đầu, sẽ tiến triển thành viêm chu nha (periodontitis).
Bệnh chu nha là một yếu tố cơ nguy làm tăng tỷ lệ bệnh tim mạch, bệnh sưng phổi (pneumonia), tình trạng có bầu sinh non (prematurity) sinh con nhẹ cân (low birth weight).
Nếu nướu răng lành mạnh, các vi khuẩn này có thể tồn tại trên mặt trên của đoạn lưỡi phía sau, về phía họng. Những yếu tố sau đây làm vi khuẩn nảy nở nhiều ơn: các tuyến nước miếng giảm sản xuẩt nước miếng, nước miếng không lưu thông tốt, ứ đọng, và nước miếng quá kiềm (alkaline). Bình thường pH nước miếng từ 6.37.5; thường hơi acid, nhưng lúc các tuyến nước miếng được kích thích lúc cần tiêu hoá nhiều thì đổi qua kiềm (pH8).
2.    Nguyên nhân hiếm gặp:
•    Ung thư mũi và họng (nasopharyngeal cancer),
•    Nhiễm trùng xoang (sinusitis), mũi;
•    Vật lạ (foreign bodies) trong mũi gây nhiễm trùng làm một mùi rất thối toát ra từ mũi em bé, có thể cộng thêm chảy máu và mủ từ mũi;
•    Một số người bị áp xe trong phổi do một vật lạ do bất cẩn họ hút vào cuống phổi (aspiration of foreign body), làm tắc nghẽn cuống phổi, vùng phổi bị cô lập, hay cuống;
•    Phổi dãn nở một cách bất bình thường (bronchiectasis) tạo nên một túi chứa nhớt, sẽ bị các vi khuẩn yếm khí (anaerobic bacteria) chiếm đóng và gây ra áp xe phổi.
3.    Một số chất trong thức ăn uống (tỏi, hành, rượu) có thể đi vào hơi thở để tạo nên một mùi thoang thoảng, có thể làm khó chịu nhưng thường không thối rõ rệt.
4.    Một số bệnh làm cho hơi thở có mùi: người tiểu đường nặng hơi thở như mùi trái cây, người suy gan (liver failure) có thể có mùi "chuột", mùi mốc (mousy, musty smell), hay mùi sulfur; người suy thận (renal failure) có thể có hơi thở mùi ammonia.
Định bệnh:
Bác sĩ thử ngửi mùi hơi thở bệnh nhân (sniff test). 48 giờ trước khi khám, bệnh nhân tránh ăn tỏi và hành, và 2 giờ trước khi khám, bệnh nhân không ăn, nhai, uống nước, súc miệng hay hút thuốc lá. Bệnh nhân thở ra bằng miệng về phía mũi bác sĩ ở khoảng cách 10cm, lần thứ nhì thở qua mũi, miệng ngậm lại. Nếu hơi thở qua miệng là hôi thối nhất, nguyên nhân có lẽ nằm ở miệng. Nếu hơi phà qua mũi là hôi nhất, nguyên nhân nghi ở mũi. Nếu thở bằng miệng và thở
bằng mũi hôi giống nhau, nguyên nhân nằm trong phổi, hoặc nguyên nhân là một bệnh ảnh hưởng toàn thân (systemic disease) (theo Merck Manual).
Nếu không tìm ra nguyên nhân, bác sĩ có thể dùng muỗng plastic cạo phía sau lưỡi bệnh nhân, đợi 5 giây đồng hồ, rồi ngửi cách 5cm.
Ngoài ra bác sĩ cần xem kỹ vùng răng miệng, nướu răng, mũi và xoang (sinuses).
Có khi bệnh nhân bị ám ảnh là hơi thở mình bị hôi, mặc dù người chung quanh không nhận thấy gì cả, và bác sĩ làm test như trên cũng không ngửi thấy (psychogenic halitosis= bệnh hôi miệng do nguồn gốc tâm lý).
Trị liệu:
1.    Đối với chứng khô miệng vì ít nước miếng, nhất là người già:
•    Bảo vệ sức khoẻ răng miệng: đánh răng mỗi lần 3 phút, ít nhất 2 lần mỗi ngày, có thể dùng máy đánh răng, dùng bàn chải tốt, đánh đúng hướng dọc theo kẽ răng. Dùng chỉ răng (floss) để thanh toán thức ăn giữa các kẽ răng, nhất là những răng cấm phía sau;
•    Có thể dùng máy bơm và xịt nước (water pick) mỗi lần sau khi ăn xong để rửa sạch các kẽ răng.Coi chừng tăm xỉa răng không đúng cách, quá nhiều, có thể làm hư nướu răng mà không lấy được các mảnh vụn thức ăn;
•    Khám nha sĩ để cạo cao răng định kỳ, trám các lỗ sâu răng và chữa bệnh chu nha nếu có;
•    Thuốc súc miệng để giảm plaque và giảm khuẩn (mouthwash), vd chlorhexidine (prescription in U.S.);
•    Giữ gìn răng giả đúng vệ sinh;
•    Nếu nghẹt mũi vì dị ứng, hay nếu thở bằng miệng ban đêm (vd. vì mập) cần để ý vì thở miệng làm miệng khô;
•    Sáng nên chải răng và ăn sáng nhẹ.
2.    Chúng ta có thể thử những biện pháp sau cho chứng khô miệng:
•    Nhờ bác sĩ gia đình xét lại toàn bộ tình hình, bác sĩ nha khoa xem lại sức khoẻ răng miệng;
•    Nhờ bác sĩ giúp tính lượng nước uống đầy đủ, bảo đảm dinh dưỡng tốt;
•    Xem trong các thuốc đang uống có những thuốc ảnh hưởng đến lượng nước miếng (thuốc trị dị ứng như Benadryl [diphenhydramine], thuốc ho);
•    Bỏ hoặc cai thuốc lá, rượu;
•    Dùng "nước miếng nhân tạo" (artificial saliva) xịt vào miệng; giúp miệng đỡ khô, như Biotène Moisturizing Mouth Spray; kẹo ngậm (lozenges) chống khô miệng, kích thích tiết nước miếng, kẹo có chứa chất xylitol là một loại đường lấy từ thực vật, không làm hư răng (vd XyliMelts for Dry Mouth).
Tóm lại nên chú trọng về vệ sinh và sức khoẻ răng và miệng nhiều hơn là dùng những thuốc tác dụng trên bộ phận tiêu hoá như dạ dày (những thuốc “thuốc trị đau bao tử” như ranitidine, omeprazole làm giảm bớt acid trong dạ dày), ruột và gan.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Monday, November 16, 2015

Khác biệt giữa Stroke và Heart Attack

Stroke tiếng Việt gọi là Đột Quỵ hoặcTai Biến Mạch Máu Não, còn Heart Attack là Cơn Đau Tim. Hai bệnh có một số điểm giống và khác nhau đôi khi cũng khó mà phân biệt.
 
-Cả hai đều gây ra do sự gián đoạn cung cấp máu cho mỗi bộ phận là não và tim 
 
-Cả hai đều cần được cấp cứu tức thì vì hậu quả của bệnh tùy thuộc vào điều trị sớm hay muộn.
 
-Triệu chứng của hai bệnh đều khác nhau.
 
Nhận diện và nhớ được sự khác biệt về dấu hiệu báo động sự xuất hiện giữa hai bệnh đôi khi cũng gây bối rối cho nhiều người. Xin cùng tìm hiểu về hai bệnh này.
 
Trước hết, xin nhấn mạnh là các tế bào trong cơ thể hoạt động được đều nhờ chất dinh dưỡng và dưỡng khí do dòng máu cung cấp. Gián đoạn sự cung cấp này sẽ đưa tới rối loạn chức năng cho bộ phận đó rồi cho toàn cơ thể. 
 
Não bộ và tim là hai bộ phận chủ chốt của cơ thể và rất nhậy cảm với sự thiếu cung cấp nguồn nhiên liệu để hoạt động, dù sự gián đoạn chỉ trong vài phút đồng hồ.

Stroke là gì?
 
Stroke là một cơn yếu ớt bất chợt ở một phía của cơ thể gây ra do sự gián đoạn lưu hành máu tới một phần nào đó của não. 
 
Ngưng cung cấp máu có thể là do ở trên não có một cục máu làm tắc nghẽn ( 85%) hoặc do một mạch máu bị đứt rách. 
 
Không có máu, tế bào não chết liền nếu không được cấp cứu. 
 
Mỗi phút không điều trị đưa tới hủy hoại cho 1.9 triệu tế bào não, 7.5 miles sợi thần kinh và 14 tỷ điểm giao liên kết hợp thần kinh. 
 
Báo cáo y học của American Heart diễn tả sự tổn thương tế bào não khi không được điều trị với sự hóa già của cơ quan này như sau:
 
Cứ một giây không điều trị não già đi gần 8 giờ, mỗi phút không điều trị, não già gần 3 tuần lễ, chậm điều trị 1 giờ, não già đi 3.6 năm và nếu không chữa, não già đi 36 năm. Mà não đã hóa già hết hoạt động thì hậu quả tai hại sẽ vô lường, vĩnh viễn. 
 
Coi vậy thì cấp cứu điều trị Stroke quan hệ như thế nào.

Cho tới nay, đột quỵ được coi là đệ tam sát thủ đối với con người, sau bệnh tim và ung thư và là đệ nhất nguyên nhân gây ra tàn phế cơ thể, đệ nhị hung thủ gây tàn phế thần kinh, sau bệnh Alzheimer. 
 
Bên Hoa Kỳ, hàng năm có tới trên dưới 700,000 người bị stroke với gần 200,000 tử vong. 
 
Sống sót thì cứ một trong sáu người cần chăm sóc tại các cơ sở lâu dài; ba trong bốn người giảm khả năng làm việc. 
 
Kinh hoàng như vậy mà dường như nhiều người vẫn chưa biết rõ về bệnh cũng như chưa chịu áp dụng các phương thức phòng ngừa để bệnh không đến với mình. 
 
 
Những dấu hiệu báo trước
 
Dấu hiệu tùy thuộc nguyên nhân gây tai biến, vùng não và số lượng tế bào bị tổn thương. Điểm đặc biệt của dấu hiệu báo động là một số những “Đột Nhiên”. 
 
-Đột nhiên thấy yếu một bên cơ thể như mặt, tay hoặc chân là dấu hiệu sớm nhất và thông thường nhất; rồi:
-Đột nhiên thấy tê dại trên mặt, cánh tay hoặc chân ở một nửa thân người;
 
-Đột nhiên thấy bối rối, nói lơ lớ khó khăn hoặc không hiểu người khác nói gì;
 
-Đột nhiên có khó khăn nhìn bằng một hoặc cả hai con mắt;
 
-Đột nhiên chóng mặt, đi đứng không vững, mất thăng bằng;
 
-Đột nhiên thấy nhức đầu như búa bổ mà không rõ nguyên nhân.
 
Không phải tất cả các dấu hiệu này đều xẩy ra trong mỗi tai biến. Nhưng nếu thấy một vài trong những dấu hiệu đó là phải kêu cấp cứu, tới nhà thương ngay. Đây là trường hợp khẩn cấp, trễ phút nào nguy hiểm gia tăng với phút đó.
 
Y giới đưa ra trắc nghiệm gọi tắt là FAST để sớm phát hiện stroke:
 
F = Face: yêu cầu họ cười, coi xem một bên mặt có méo, môi xệ.
 
A =Arm: yêu cầu dơ 2 tay lên cao, coi xem một tay có yếu suội thõng xuống.
 
S =Speech: yêu cầu nhắc lại một câu nói, coi xem dọng nói có ngọng lớ, nhắc lại có đúng 
 
T=Time có nghĩa thời gian điều trị là quan trọng, cần hành động kêu 911 cấp cứu ngay. 
 
Nếu áp dụng trắc nghiệm này thì đôi khi người thường cũng dễ dàng thấy stroke đang xuất hiện.
 
Ngoài ra, tùy theo não trái hoặc phải bị tổn thương mà triệu chứng khác nhau đôi chút.
 
a-Đột quỵ ở não trái hay phải đều đưa tới suy yếu hoặc tê liệt của phần cơ thể phía đối diện cộng thêm mắt mở rộng hoặc môi xệ xuống;
 
b-Đột quỵ não trái gây ra rối loạn về ngôn ngữ ảnh hưởng tới việc phát ra và hiểu lời nói kể cả đọc và viết. Lý do là trung tâm kiểm soát ngôn ngữ thường nằm bên não trái. Nạn nhân cũng có rối loạn về trí nhớ, một chút rối loạn hành vi, chậm chạp và dè dặt hơn.
 
c-Tổn thương não phải: Ngoài tê liệt nửa thân phía trái, bệnh nhân còn bị mất trí nhớ, hành vi hấp tấp, không suy nghĩ, kém nhận xét về không gian, hay bị xúc động, buồn rầu và chỉ để ý tới sự việc xẩy ra mé phải cơ thể. Chẳng hạn bệnh nhân không thấy có người tới ở phía trái hoặc bỏ quên thực phẩm trên phần đĩa bên trái.

Điều trị 
 
Điều trị stroke tùy theo bị máu cục hoặc đứt động mạch.
 
Máu cục thì thuốc loãng máu như aspirin là ưu tiên rồi tới heparin…Aspirin cần được dùng trong vòng 3 giờ sau tai biến.
 
Còn stroke do đứt mạch máu thì cần giải phẫu để sửa chỗ đứt và giảm áp lực của máu tràn đè lên tế bào não. Aspirin không được dùng vì sẽ làm máu loãng, chẩy nhiều hơn.
 
Sau giai đoạn cấp cứu, bệnh nhân được tiếp tục điều trị tại Trung tâm Phục hồi Chức năng, để lấy lại các chức năng đã mất hoặc suy yếu gây ra do sự thiếu nuôi dưỡng tế bào não.
 
Tóm lại, Tai biến Động mạch não là một tai nạn trầm trọng, cần được cấp cứu tức thì để cứu vãn sự sinh tồn của tế bào thần kinh. Nhiều nhà chuyên môn coi tai biến này nguy hiểm như Cơn Suy Tim heart attack, và gọi là Brain Attack.

Tai biến có thể viếng thăm bất cứ ai, không kể tuổi tác, nam nữ, giầu nghèo. 

Heart Attack là gì?
 
Tim là bộ phận thiết yếu trong việc nuôi dưỡng toàn bộ tế bào trong cơ thể. Hằng ngày, tim liên tục làm việc suốt 24 giờ để bơm một khối lượng hơn 7000 lít máu. Để hoàn thành công việc này, tim cần oxy và chất dinh dưỡng do động mạch vành (Coronary Artery) cung cấp. 
 
Vì nhiều lý do khác nhau, mặt trong của động mạch vành bị các mảng chất béo bám vào, làm cho động mạch trở nên cứng và hẹp, máu lưu thông giảm đi. Một máu cục có thể thành hình và gây tắc nghẽn hoàn toàn sự lưu hành của máu. Tế bào tim không nhận được chất dinh dưỡng và oxy, sẽ bị hủy hoại Đó là sự nhồi máu cơ tim (myocardial infarction). Thời gian thiếu máu càng lâu thì sự hủy hoại của tế bào tim càng lan rộng và cơn đau tim càng trầm trọng hơn.
 
Đôi khi, cơn đau tim cũng xảy ra khi động mạch vành co thắt tạm thời làm cho lưu lượng máu tới tim giảm đi. Các cơn co thắt tạm thời này có thể gây ra do căng thẳng tâm thần, tiếp xúc với thời tiết lạnh, khói thuốc lá hoặc khi sử dụng vài loại thuốc như bạch phiến...

Tại Hoa Kỳ, mỗi năm có khoảng 1,5 triệu người bị Cơn Đau Tim với hậu quả là gần 500,000 trường hợp tử vong. Hơn một nửa số tử vong này xảy ra 1 giờ sau cơn đau và trước khi bệnh nhân tới bệnh viện. Ngoài ra đã bị Heart attack cũng thường đưa tới Stroke.
 
Cơn đau tim là một trường hợp khẩn cấp, cần được điều trị tức thì. Mỗi giây phút trì hoãn là giây phút dẫn tới “thập tử nhất sinh” cho người bệnh.
 
May mắn là cơn đau tim có thể điều trị được và các nguy cơ gây ra cơn đau tim có thể đối phó, thay đổi để phòng ngừa căn bệnh hiểm nghèo này. 
 
Những dấu hiệu báo trước Cơn ĐauTim
 
 Có một số dấu hiệu báo trước sự xuất hiện của cơn đau tim:
 
a-Cảm giác khó chịu, đau đè như có vật nặng ép trên ngực, kéo dài tới mấy phút rồi mất đi, nhưng có thể tái xuất hiện. 
 
Cơn đau có thể nhè nhẹ vừa phải tới đau không chịu được. 
 
b-Cảm giác đau từ ngực chạy lên vai, cổ hoặc lan ra cánh tay; đầu ngón tay cảm thấy tê tê.. 
 
c-Choáng váng, muốn xỉu, đổ mồ hôi, buồn nôn, khó thở.
 
d-Lo sợ, nóng nẩy, bồn chồn.
 
đ-Da xanh nhợt.
 
e-Nhịp tim nhanh, không đều.
 
Nếu cảm thấy một trong những dấu hiệu này thì phải kêu cấp cứu ngay. 
 
Nên lưu ý là phụ nữ có thể có các dấu hiệu khác hoặc không rõ ràng như nam giới. Họ có thể cảm thấy đau ở bụng, cho là bị ợ chua với da ẩm ướt hoặc mệt mỏi bất thường. Mà không ngờ là có thể đang bị heart attack.
 
Điều trị
 
Ngay khi cảm thấy có dấu hiệu bị cơn đau tim, bệnh nhân cần phải kêu số điện thoại cấp cứu để được đưa đi khám bệnh và điều trị càng sớm càng tốt. Điều trị sớm có thề ngăn ngừa hoặc giới hạn sự hư hao của tế bào tim và giảm được tử vong cho người bệnh.
 
Trên đường chuyên trở bệnh nhân tới bệnh viện, nhân viên cấp cứu đã có thể bắt đầu sự chữa trị với phương tiện sẵn có trong xe cấp cứu. Họ thường xuyên liên lạc trực tiếp với bác sĩ tại bệnh viện để thông báo tình trạng người bệnh và tham khảo ý kiến về cách thức đối phó với cơn đau tim. Họ có thể cho bệnh nhân thở oxy, dùng thuốc giảm đau tim nitroglycerin, morphine.Họ cũng sử dụng máy cấp cứu tim khi nhịp tim rối loạn, tạm ngưng..
Tới nhà thương, bệnh nhân được đưa vào phòng cấp cứu tim trang bị đầy đủ dụng cụ, và dược phẩm. Các bác sĩ sẽ hành động ngay để phục hồi sự lưu hành máu tới tim, giảm thiểu tổn thương cho các tế bào và liên tục theo dõi tình trạng bệnh. 
 
Thuốc gây tan cục huyết được dùng trong vòng 1 giờ kể từ khi bắt đầu có dấu hiệu của cơn đau tim.
 
Thuốc loại nitrate để giúp động mạch bớt co thắt và giảm cơn đau trước ngực.
 
Thuốc chống đông máu đề làm máu loãng, tránh đóng cục trong lòng động mạch. 
 
Thuốc viên aspirin để ngăn ngừa tiều cầu kết tụ với nhau...
 
Ngoài ra còn các dược phẩm giúp hạ huyết áp, giảm sức căng của động mạch, nhờ đó tim làm việc nhẹ nhàng hơn; thuốc điều hòa nhịp tim; thuốc an thần giảm đau. Bệnh nhân liên tục được hít thở oxy...
 
Thời gian điều trị tại bệnh việc tùy thuộc tình trạng nặng hay nhẹ của bệnh, sự đáp ứng với các phương thức chữa trị, thường thường là năm, sáu ngày nếu không có biến chứng. 
 
Trước khi xuất viện, bệnh nhân được hướng dẫn về cách thức chăm sóc và dùng thuốc, về chế độ dinh dưỡng, về nếp sống, về sự vận động cơ thể với chương trình vật lý trị liệu, phục hồi chức năng của tim. Bệnh nhân sẽ hiểu rõ nên vận động như thế nào để tăng cường sức mạnh của cơ thể mà không gây ra rủi ro cho trái tim, hiểu rõ về bệnh tim của mình và biết cách đối phó với các khó khăn trong đời sống hằng ngày để tránh cơn đau tim tái phát.
 
Kết luận
 
Dù là Cơn Đau Tim hoặc Đột Quỵ, cả hai bệnh đều là “thậm cấp chí nguy”, cần được điều trị tại bệnh viện tức thì.
 
Nhận biết và nhập tâm các dấu hiệu báo động sự xuất hiện của Đột Quỵ và Cơn Đau Tim là việc cần thiết để cứu vớt sự sống.
 
Kính chúc mọi sự bình an.
 
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Monday, November 9, 2015

Ghép thận và tuổi tác

Hiện nay, do đời sống càng ngày càng kéo dài, chừng một nửa số người đến giai đoạn cuối của bệnh thận (end stage renal disease, ESRD) và cần thay ghép thận hoặc lọc máu thường xuyên là trên 65 tuổi, một phần tư trên 75 tuổi. Cứ 200 người trên 75 tuổi thì một người mắc ESRD. Tuy nhiên, tại đa số các trung tâm, ghép thận cho người trên 75 tuổi rất hiếm. Cho nên quyết định già bao nhiêu thì còn ghép thận được một cách hợp tình hợp lý là một câu hỏi càng ngày càng phải đặt ra. Nói chung, so với người chờ đợi và được lọc máu, người được ghép thận trên 60 tuổi sống lâu hơn 2-4 năm, tuỳ theo thời gian chờ đợi được ghép thận, và phẩm chất cuộc sống của họ được tăng cường đáng kể.
Nói chung tuổi bệnh nhân càng lớn thì thì các bệnh khác có thể đi kèm theo ESRD sẽ nhiều hơn và trở ngại cho việc ghép thận, cũng như cơ may việc ghép thận có kết quả tốt sẽ có chiều hướng giảm đi, do đó người trên 65 tuổi ít hy vọng được lên danh sách ghép thận hơn người trẻ.
Ghép thận của người cho còn sống (live donor) kết quả tốt hơn là thận lấy từ xác chết. Tuổi của người cho (donor) thì càng trẻ càng tốt, và ảnh hưởng đến kết quả cuộc ghép thật nhiều hơn là tuổi của người nhận (recipient).
Bàn về yếu tố tuổi tác, theo Trung tâm Y khoa Đại học Maryland:
1)    Tuy không có giới hạn tuổi tác nhất định, số bệnh nhân trên 65 tuổi tương đối nhỏ. Biến chứng hậu phẫu cao hơn, thời gian nằm nhà thương lâu hơn, nhiễm trùng cũng như những rắc rối tim mạch gây tử vong cao hơn.
2)    Cần xét đến những bệnh kèm theo có thể gây những vấn đề ngoài những vấn đề do tuổi tác gây ra. Cần loại những bệnh nhân mà tình trạng sức khoẻ tổng quát đặt họ trong điều kiện bệnh tật quá nặng nề trong gia đoạn hậu phẫu, cũng như những người không hy vọng sống lâu quá 3 năm sau khi phẫu thuật.
3)    Những chứng sau đây có thể làm bệnh nhân ở tình trạng nguy hiểm sau phẫu thuật. Nếu họ từ 60-70 tuổi và mắc 2 chứng trở lên, hay nếu họ trên 70 tuổi mắc một chứng trở lên, có thể nên từ chối không ghép thận:
•    Bệnh tim làm cho bệnh nhân bị cơ nguy vừa hay cao bị tai biến tim trong thời gian chung quanh phẫu thuật (intermediate or high risk for adverse perioperative cardiac event).
•    Bệnh tiểu đường (diabetes) đã lâu ngày, có biến chứng.
•    Mập phì (BMI trên 35).
•    Hút thuốc lá trong vòng 6 tháng vừa qua.
•    Bệnh phổi tắc nghẽn khí quản mãn tính (chronic obstructive pulmonary disease, COPD).
•    Tai biến mạch máu não tái hồi (recurrent stroke) hoặc gần đây (trong vòng 1 năm).
•    Sự hỗ trợ từ gia đình, xã hội kém (inadequate social support).
•    Sức khoẻ tổng quát, tình trạng hoạt động chức năng kém (poor functional status).

Tuy nhiên, theo BS Stefan G. Tullius (BWH), có những khảo cứu cho thấy nếu người cho và người nhận lứa tuổi gần với nhau thì có thể kết quả sẽ tốt hơn (matching donor and recipient age improves outcome). Có nghĩa nếu người cho lớn tuổi, thay vì ưu tiên cho người nhận trẻ tuổi như thường lệ, ghép bộ phận đó cho người nhận có tuổi lớn hơn, già hơn có thể kết quả cuộc ghép sẽ tốt hơn. Người càng già thì hệ miễn nhiễm của họ yếu đi (reduced immune response), cơ thể của họ cố gắng 'trục xuất' (rejection) bộ phận lạ yếu ớt hơn, và đấy có thể là một lợi thế giúp cho cơ thể họ chấp nhận bộ phận được ghép vào, thuận tiện hơn là sự chấp nhận của cơ thể có hệ miễn nhiễm mạnh hơn của người nhận trẻ tuổi.
Một ví dụ tương tự với trường hợp bệnh nhân 78 tuổi đặt câu hỏi ở đây. Một phụ nữ người Mỹ gốc Nhật tên Toshiko được ghép thận lúc bà 80 tuổi, năm 2010, tại bệnh viện Brigham Women's Hospital (BWH, thuộc Đại Học Harvard, Boston, Massachusetts), sớm hơn dự định nhờ trái thận lấy từ một người già. Theo bài báo viết năm 2012, bà vẫn mạnh khoẻ, dùng ít thuốc hơn bệnh nhân trung bình (thuốc chống rejection, làm cơ thể giảm bớt cố gắng trục xuất bộ phận được ghép), và chỉ cần đi khám theo dõi 2 lần/năm. Nhờ đó bà có dịp đi hưởng nắng ấm tại Hawai, và đi về thăm ngôi đền Nhật nơi mà bà làm đám cưới với ông chồng lính Mỹ 60 năm trước. 
Bác sĩ Hồ Văn Hiền