Tuesday, January 22, 2019

Chứng rung tay và bịnh rung không có nguyên nhân (essential tremor)(rung bản chất, rung vô căn)

Rung là những vận động tương đối có nhịp, dao động. Những trường hợp rung rõ rệt, chúng ta phân biệt:
1) Rung lúc nghỉ, rung trong thế tĩnh (static tremor): bàn tay rung lúc ở tình trạng không cử động, nếu bịnh nhân cố ý vận động thì rung giảm đi , hay biến mất. ví dụ các ngón tay người bịnh Parkinson rung chu kỳ chừng 5 lần/giây, cử động như lúc vấn điếu thuốc lá (pill-rolling motion).
2) Rung tư thế, lúc “tạo dáng”, giữ một thế nào đó (postural, action tremor), ví dụ lúc đưa hai bàn tay ra trước: trong bịnh cường tuyến giáp (hyperthyroidism), lúc lo lắng, mệt mỏi.
3) Rung lúc có ý định (intention tremor; kinetic tremor): lúc nghỉ ngơi thì không rung, lúc có ý định đưa tay với, nắm một vật gì thì bắt đầu rung, càng tới mục tiêu càng rung nhiều. Thường nguyên nhân ở tiểu não (cerebellum).
Cũng có thể phân biệt rung sinh lý (8-10/giây) có thể thấy ở người bình thường và bịnh rung không rõ nguyên nhân (essential tremor), tần số chậm hơn (4-8/giây).

Nicotine của thuốc lá (hít vào phổi và đi vào máu) là một chất kích thích thần kinh, đã được chứng minh là gây rung, nhất là rung lúc nghỉ ngơi (static tremor) và ở phụ nữ. Người ta đo độ rung của ngón tay ở những người hút thuốc và nhận thấy hút 2 điếu thuốc lá làm tăng biên độ của hiện tượng ngón tay rung (amplitude of the tremor).
Trong cà phê có chất kích thích cafein. Tuy nhiên có khảo cứu cho thấy chỉ 2% người bình thường bị rung tay lúc uống cà phê. Ngay những người bị bịnh rung không rõ nguyên nhân (essential tremor), uống 325 mg cafein cũng chỉ làm cho 8% rung nhiều hơn. Cà phê mạnh (brewed coffee) chứa 95-165 mg cafein trong 8oz (238ml). Cà phê espresso 47-64 mg cafein trong 1oz (30ml). Trà chứa 25-48 mg cafein trong 8oz (238ml). Trà còn chứa các chất theobromin, theophylin và theanine tác dụng trên não bộ, cũng như đem lại cảm giác sảng khoái đặc biệt ở một số người.
Ở một người trẻ, nếu không có bịnh gì khác ngoài việc tay hay rung, và lại hút thuốc uống nước trà (chè) hay cà phê nhiều, có lẽ có lời khuyên đầu tiên mà bác sĩ nào cũng sẽ đưa ra là nên ngưng thuốc lá, ngừng hoặc giảm trà hay cà phê và vận động cơ thể, tập thể dục thể thao nhiều hơn nếu sức khỏe cho phép.Tập thể dục như đi bộ, bơi,đi xe đạp, chơi banh có thể giúp máu huyết lưu thông, giảm stress, làm thư giãn các cơ, khớp và làm giảm rung tay, cũng như có ích cho sức khỏe tổng quát.
Sau đây chúng ta bàn về một căn bịnh gọi là "bịnh run không nguyên nhân" (run bản chất hoặc run vô căn) khá thường gặp ở người trẻ. Ở Mỹ có chừng 6-7 triệu người mắc chứng này (chừng 2% dân số).
Từ này dịch từ essential tremor (ET), trong đó tremor là rung, hoặc run rẩy, “essential” không theo nghĩa thường là “bản chất”, mà hiểu theo nghĩa chúng ta không biết nguyên nhân gây ra bịnh này. Các cuộc khảo cứu gần đây cho thấy có thể ET đi đôi với những bất bình thường trong tiểu não (cerebellum) và chất neurotransmitter GABA.
Bịnh rung vô căn là bịnh rối loạn cử động thường gặp nhất.Thường hai chi trên (cánh tay) bị rung, lúc cử động, làm một động tác nào đó (kinetic tremor), cũng như rung tư thế , lúc người bịnh muốn giữ yên tay mình trong một tư thế nào đó (postural tremor). Có thể một bên này bị năng hơn bên kia.Tuy nhiên cũng có người lại rung cái đầu, cứ phải lắc lư đầu hoài, có người bị rung thanh quản nên tiếng nói bị rung. Trong gia đình có thể có những trường hợp bịnh khác (familial essential tremor) mà mình có thể không để ý đến, vì đây là một bịnh di truyền. Gen gây ra bịnh này là gen trội (dominant), có nghĩa là chỉ cần cha hoặc mẹ có bịnh (mang gen này), là con cái có thể bị bịnh (50% con cái).
Run là một triệu chứng chính của Parkinson, thường bịnh nhân Parkinson trung bình cỡ 62 tuổi. Chỉ chừng 2% bịnh nhân Parkinson là thuộc loại bịnh nhân bắt đầu lúc trẻ (young onset Parkinson), nghĩa là trước tuổi 40-50; trong nhóm này yếu tố di truyền hay yếu tố ngộ độc đáng kể hơn là nhóm bịnh nhân Parkinson thông thường của người cao niên. Tuy nhiên thường thì bịnh nhân Parkinson run lúc tay ở yên, nghỉ ngơi (tremor at rest), giảm rung lúc cử động, trong lúc bịnh nhân essential tremor không rung lúc ở yên và rung nhiều lúc cử động. Các triệu chứng khác của Parkinson là cứng cơ (rigidity), đi đứng bất thường và cử động chậm chạp thì không thấy bịnh nhân kể ra. Tuy nhiên, những nghiên cứu mới đây cho thấy hai bịnh này có thể liên hệ với nhau, ví dụ người bịnh essential tremor có khả năng trở thành Parkinson nhiều lần hơn so với người bình thường. Nếu là Parkinson, thì có lẽ phải đợi thêm một thời gian, nếu xuất hiện một số triệu chứng nữa mới dứt khoát được.
Điều trị essential tremor:
1) Propranolol, là thuốc ngăn chặn tác dụng kích thích của loại neurotransmitters mà tác dụng tương tự như adrenaline (chất tiết tuyến thượng thận). Phản ứng phụ: mệt mỏi, nghẹt mũi, tim đập chậm, không dùng cho người bị suyễn.
2) Hoặc Primidone (Mysoline), là một thuốc chống động kinh. Có thể làm buồn ngủ, lờ đờ, buồn nôn, mất thăng bằng. Không được uống rượu lúc dùng thuốc.
Nếu cần bs tăng dần liều thuốc cho đến mức có kết quả tối hảo mà không phản ứng phụ quá đáng. Nếu không được, có thể dùng 2 thứ thuốc kết hợp với nhau, cùng một lúc.
3) Ngoài ra; một số trường hợp có thể xài, với ít nhiều kết quả :
-gabapentin (Neurontin) chủ trị động kinh (anticonvulsivant).
-thuốc an thần clonazepam (Klonopin), alprazolam .
-flunarizine, (calcium channel blocker, chữa trị chứng động kinh, migraine)
4) Một số trường hợp hiện nay được chữa bằng cách chích Botox vào tay hoặc cổ (nếu đầu bị lắc lư), là một độc tố sinh học thường được dùng để chống các vết nhăn trên mặt.
5) Trường hợp nặng, một số nơi gắn electrodes vào não bộ (substantia nigra), kích thích trực tiếp (deep brain stimulator) , máy phát dòng điện kích thích (pacer) gắn ở ngực bằng giải phẫu (cũng áp dụng cho Parkinson).
6) Những biện pháp khác:
Tránh stress, cà phê, soda.
Tư vấn về tâm lý.
Vận động cơ thể, tập thư giãn, yoga, ngồi thiền…
7) Một liều rượu (ví dụ một ly bia) vừa phải có thể giúp các triệu chứng rung giảm đi, hoặc hết rung. Tuy nhiên có thể đi vào đường nghiện rượu.
Đề nghị bịnh nhân chọn một bác sĩ gia đình để xem xét tình hình chung (xem bịnh sử gia đình có bịnh Parkinson , bịnh rung hay không), khám tổng quát xem có bịnh gì đi đôi với chứng tay rung hay không (ví dụ tim đập nhanh, hay những dấu hiệu của bịnh lo âu [anxiety]), có khả năng theo dõi mình liên tục và đều đặn, để theo dõi bịnh tình. Nếu có thể và nếu cần, nên khám một bác sĩ chuyên về khoa thần kinh (neurologist), bác sĩ có thể cho làm những thử nghiệm nếu thấy cần như cơ năng tuyến giáp (một số người cường tuyến giáp (hyperthyroidism), có nghĩa có quá nhiều hormone tuyến giáp có thể rung tay nhiều ít, tới mức không viết được). Đôi khi, bác sĩ có thể nghĩ đến những điều phức tạp hơn và cần những xét nghiệm như CT, MRI, mức chì trong máu (blood lead level; ngộ độc chì khả năng ở VN cao hơn ở Mỹ), mức vitamin B12…, (tuy nhiên cần những phòng thí nghiệm tốt, nếu không chỉ làm mình lo lắng hơn nếu kết quả không cần thiết hay không chính xác).
  1. BS Hồ văn Hiền

Viêm xoang mũi, và mất khứu giác (Sinusitis and olfactory loss)

Trong ngũ giác, mùi hay khứu giác (smell) quan trọng hơn chúng ta tưởng. Một phần lớn của vị giác (taste) bị chi phối bởi khả năng ngửi. Mùi gắn liền với cảm nhận, cảm xúc đầy chủ quan, gắn liền một tâm trạng nào đó. Trong câu thơ của vua Tự Đức (1829 - 1883) nhà Nguyễn khóc người thiếp đã chết “…Đập cổ kính ra tìm lấy bóng/ Xếp tàn y lại để dành hơi…” (Khóc Bằng phi). Ngày nay kỹ thuật ghi âm thanh và hình ảnh của chúng ta đã tiến rất xa, nhưng đến thế kỷ thứ 21, cũng không có cách gì khác hơn là "xếp tàn y lại để dành hơi". Chúng ta có thể thu âm, chụp hình nhưng khó ghi lại mùi một cách khách quan, cho nên mùi lại càng quý giá vì nó chỉ thoáng qua.
Các chất gây ra mùi (odorant) được hai dây thần kinh sọ I và V đem vào các trung tâm khứu giác liên hệ của bộ não. Những chất có mùi từ ngoài vào tiếp xúc với các thụ thể khứu giác (olfactory receptors) là đuôi gai (dendrite ) của các tế bào thụ thể khứu giác (olfactory receptor neuron/ORN) chôn trong niêm mạc trên trần khoang mũi (olfactory mucosa, olfactory neuroepithelium). Các tế bào này được nối liền với các hành khứu giác (olfactory bulb, TK sọ l) nằm trên và qua đó liên lạc với thần kinh trung ương để nhận dạng mùi gì, ghi nhớ và phối hợp với các cảm xúc kèm theo mùi đó. Các chất gây ra mùi (odorant) cần những điều kiện tốt mới đi đến kích thích các thụ thể khứu giác (olfactory receptor) trên trần của mũi: mũi phải thông , các niêm mạc mũi phải mạnh khoẻ, đủ độ ẩm để các chất có mùi tan vào trong niêm mạc và ngấm vào các thụ thể khứu giác. Các tế bào thần kinh thụ thể (ORN) này khác với các tế bào thần kinh khác ở chỗ chúng có thể tái tạo (regeneration) được: khi chúng già, bị tổn thương vì nhiễm khuẩn/virus hay các chất độc, sau vài ngày , vài tuần, chúng có thể tái tạo được, và một đường liên lạc mới với não bộ được thiết lập. Do đó đa số những trường hợp mất khứu giác do tổn thương trong mũi có thể phục hồi với thời gian, nhanh hay chậm còn tùy vào các điều kiện như phẩm chất của chất nhờn mũi, nồng độ các chất ở trong dịch nhờn đó.
Phần chính khứu giác do thần kinh sọ số một (cranial nerve I; TKSI) phụ trách cảm nhận và phân biệt các mùi (như mùi hoa hồng, mùi chanh, mùi hoa lài). Những đầu dây thần kinh sọ số V (cranial nerve V; TKSV) đồng thời có vai trò mô tả những sắc thái của mùi: như mùi lạnh (coolness), mùi nồng, ấm áp (warmth), mùi khó chịu, mùi chua ; ví dụ mùi amoniac ("nước đái quỷ") được cảm nhận qua dây thần kinh số V. Cảm giác đau đớn trong vùng nóc xoang mũi này cũng tùy thuộc vào dây thần kinh sọ số V, không phải TKS I.
Bất cứ nguyên nhân nào cản trở đường tiếp cận trên cũng như đường truyền dẫn thần kinh từ mũi đến các trung tâm thần kinh phụ trách khứu giác (olfactory centers) trên não bộ đều ảnh hưởng đến khứu giác: bịnh mũi , bịnh xoang hai bên mũi (paranasal sinuses), bịnh nhiễm trùng đường hô hấp, chấn thương, gãy xương mũi, gãy xương trán (frontal fracture), bể xương chẩm (occipital fracture). Hút thuốc lá, tuổi già , một số thuốc chữa bịnh, chất độc kỹ nghệ cũng có thể ảnh hưởng đến khứu giác. Các kháng sinh như ampicillin, tetracycline, azithromycin đều có thể thay đổi khứu giác.Cách đây mấy năm, trên thị trường Mỹ có những thuốc chứa Zinc xịt hay thoa vào mũi (zinc nasal spray) để chữa bịnh cảm cúm. Sau đó người ta nghi thuốc chứa Zinc làm hư hại các tế bào thần kinh khứu giác. Thuốc bị FDA rút khỏi thị trường. Tuy nhiên, một số trường hợp mất khả năng ngửi được chữa bằng zin uống (viên), có kết quả trong một số trường hợp.
Các khiếm khuyết khác nhau: vô khứu (anosmia, hoàn toàn không cảm nhận mùi), khứu giác yếu (hyposmia), khứu giác sai lạc (parosmia, ngửi mùi này thành ra mùi khác; mùi cà phê, thuốc lá, hành tỏi dầu thơm có thể được bịnh nhân "ngửi" thành mùi cháy khét, hôi thối, mùi phân, gây nôn mửa.) , khứu giác "ma" phantosmia ((ảo giác về mùi, olfactory hallucinations, bịnh nhân cảm nhận một mùi thường là mùi cháy khét, hôi thối mà mùi này không có thật).
Vô khứu bẩm sinh (congenital anosmia), nguyên nhân di truyền, có thể đi đôi với thiếu hormon tính dục cần cho phát triển dậy thì (hội chứng Kallmann, anosmia with hypogonadotropic hypogonadism), hoặc thiếu nhạy cảm với đau đớn (insensitivity to pain).
Trong trường hợp viêm xoang mũi, những yếu tố sau đây có thể là nguyên nhân gây ra cần giải quyết:
1) polyps (những "cục thịt dư" trong mũi ) làm ngăn cản các odorant không lên tới các thụ thể khứu giác nằm trên nóc hốc mũi
2) viêm xoang sàng (ethmoid sinusitis) có thể không có triệu chứng , nhưng lại làm mất mùi (mất khứu giác) vì viêm (sưng) làm nghẹt khe khứu giác (olfactory cleft) thông với các thụ thể khứu giác.
3) các dây thần kinh khứu giác có thể hư hại do nhiễm trùng.
Trị liệu:
1) corticoid uống liều cao (chừng 1 tuần) có thể có kết quả tốt nhưng ngắn hạn, và có thể gây nhiều biến chứng..
2) thuốc corticoid xịt vào mũi (topical steroid, vd mometasone furoate [hay “Nasonex”]), có thể dùng lâu dài hơn, mặc dù một ít corticoid vẫn có thể đi vào toàn bộ cơ thể (systemic absorption).
3) kháng sinh nếu có nhiễm trùng
4) leukotriene receptor antagonist (uống; vd montelukast [hay “Singulair”]) , làm giảm các hiện tượng viêm do dị ứng.Thuốc khá đắt tiền ở Mỹ.
5) giải phẫu, cắt bỏ polyp để mũi hết nghẽn; giải quyết viêm xoang sàng* (ethmoidectomy) có thể qua cơ chế giảm tắc nghẽn mà cũng có thể cải thiện khứu giác qua cơ chế chưa hiểu rõ.
[*Xương sàng (ethmoid bone, theo nghĩa “sàng lọc”, nhìn dưới lên trên, xương ethmoid hình giống cái sàng (sieve) có nhiều lỗ để lọc cặn bã trong nước) nằm ngay giữa mặt, giữa hai mắt, dưới phần trán của não bộ , trên hốc mũi. Trong xương sàng có 4 hang rỗng thông với nhau là các xoang sàng. Nếu các xoang này bị nhiễm trùng chúng ta có chứng viêm xoang sàng (ethmoid sinusitis). Do vị trí của xoang, viêm xoang sàng có thể gây ra các triệu chứng sau:
  • đau đầu hai bên thái dương
  • đau hai bên khóe mắt (phía mũi)
  • nhức đầu, phía dưới trán
  • đàm chảy trong họng, phía sau, làm ho
  • nóng sốt
Trong lúc mất khứu giác và vị giác, người bịnh nên nhớ mình có thể bị nguy hiểm: không ngửi được mùi cháy (cháy nhà, cháy bếp), ăn đồ ăn thối, độc mà không biết, hoặc ăn quá mặn, quá ngọt..và phải rất cẩn thận, kiểm soát kỹ môi trường sống, nhờ người khác canh chừng, vv
Đương nhiên, cần hướng dẫn của bác sĩ và các tin tức bàn ở đây chỉ có mục đích thông tin và giúp đối thoại với bs đầy đủ và dễ dàng hơn.
BS Hồ Văn Hiền

Rung giật cơ, lo âu, áp huyết thấp (fasciculation, anxiety, hypotension)

Về từ ngữ: fasciculation gốc chữ fascia, nghĩa là một chùm, một bó, ở đây, nói về một bó sợi cơ (fasciculus, a bundle of muscle fibers). Mỗi sợi cơ là một tế bào riêng rẻ, hình dài; có bắp cơ (muscle) chứa hàng ngàn sợi cơ, có bắp cơ chỉ có vài chục sợi cơ. Lúc có dòng điện từ các dây thần kinh kích thích, các sợi cơ sẽ co vào trong một thời gian rồi giãn ra.
Trong BFS, một nhóm sợi cơ co giật mà mình không kiểm soát được, chứ không phải toàn cơ bắp, ở những cơ bình thường mình cử động theo ý muốn. Những nơi thường xảy ra là mí mắt, cánh tay , cẳng chân , bàn chân; nhưng cũng có khi ở lưỡi, họng. Rung giật ngưng lúc mình cố tình cử động phần cơ bắp đó, nhưng lại tái diễn lúc mình giữ yên, có thể lan ra vùng bên cạnh, hoặc nhảy qua vùng khác (vd như từ dưới bàn chân, nhảy lên đầu, xuống bụng). Đặc biệt là các cơ không bị liệt, hay bị yếu đi.
Các triệu chứng khác:
-mệt mỏi
-đau nhức cơ bắp
-lo âu
-yếu , mau mệt, co rút bắp thịt,
-cảm thấy nghẹn họng (globus sensation, như có cục gì trong họng)
-ngứa
-rung tay chân (tremor)
-tăng các phản xạ gân xương (hyperreflexia)
Nguyên nhân: Chưa hiểu rõ, có thể ở các sợi cơ, các tế bào thần kinh vận động hay nơi tiếp xúc giữa tế bào thần kinh và cơ (neuromuscular junction). Có thể do thiếu magnesium, thiếu calcium do thiếu vitamin D. Một số thuốc: Benadryl dùng lâu dài, morphine lúc cai thuốc, có thể gây ra co giật bó sợi cơ.
Định bịnh BFS:
Căn cứ trên triệu chứng lâm sàng. Bác sĩ cần chắc chắn là các cơ không bị liệt hay yếu. Cần loại bỏ trường hợp thiếu Calci, Magnesium, vitamin D, liên hệ tới việc dùng thuốc.
BFS khác với những trường hợp mà fasciculation có thể là thành phần một số bịnh làm bại liệt mà nguyên nhân nằm ở các tế bào thần kinh vận động của tủy sống (MND: motor neuron disease). Như bịnh ALS (amyotrophic lateral sclerosis) cũng có fasciculation nhưng triệu chứng ALS chính là các cơ bị teo và bắt đầu ở hai chân bị yếu, hay đi vấp ngã; bịnh nhân chỉ sống được vài năm. Trong cơ điện đồ (EMG) của ALS, có dấu hiệu dây thần kinh bị hư hại, có thể có fasciculation trong EMG (nhưng không đặc thù cho bịnh này), do đó dễ gây lẫn lộn giữa benign fasciculation syndrome (BFS bịnh hiền, EMG bình thường) và ALS.
Chữa trị:
-Giảm stress; chữa rối loạn lo âu. Thuốc dùng trong nhóm này:
  • Các thuốc chống trầm cảm, thường là loại “thuốc ức chế có chọn lọc tái thu hồi serotonin” (SSRI, serotonin selective reuptake inhibitor) (tác dụng trên mức serotonin là một chất dẫn truyền thần kinh [neurotransmitter] ở các liên hợp sợi thần kinh, nơi các tế bào thần kinh liên kết với nhau [synapses ] )Ví dụ paroxetine (Paxil, Seroxat), sertraline (Zoloft).
  • Phản ứng phụ của SSRI: Rối loạn tính dục, ngái ngủ, lên cân, mất ngủ, lo âu, chóng mặt, nhức đầu, khô miệng, buồn nôn, rung tay, bón, đau bụng. Riêng đối với lứa 18-24 tuổi, SSRI có thể gia tăng nguy cơ tự tử.
  • Các thuốc SSRI có thể bắt đầu tác dụng sau 6 tuần, và tác dụng tới mức tối hảo sau 12-16 tuần. Có thể chữa trị bằng thuốc từ 6-12 tháng để tránh bịnh tái lại, hoặc phải dùng thuốc lâu hơn.
-Tránh cà phê, thuốc lá.
-Sống lành mạnh điều độ; tập thể thao, thể dục, thiền, đọc kinh, yoga; ngủ đủ giờ, tránh thức khuya, ăn ngủ bất thường, stress.
-Trị liệu tâm lý bằng "cognitive behavioral therapy" (CBT): thay đổi nhận thức, hiểu biết và tập tính, hành vi (behavior) của bịnh nhân. Vi du: bịnh nhân lo âu sợ hãi xã hội (social anxiety) đánh giá sai lạc về cách mình giao tiếp trong xã hội, cho rằng người ta nghĩ tiêu cực (xấu) về mình và gán cho thái độ của người khác một tầm quan trọng quá đáng. Một lời nói, một cử chỉ vô hại, “vô thưởng vô phạt “(neutral) có thể được bịnh nhân xem như là lời trách móc, quở mắng có ảnh hưởng nhiều đến mình. Cái sợ này làm cho bịnh nhân rụt rè thêm, thu mình lại, lại càng làm cho bịnh nhân mất cơ hội để thấy là không có gì đáng lo sợ, tạo nên vòng lẩn quẩn. Tâm lý gia giúp cho người bịnh hiểu thêm về nhận định sai của mình, đồng thời khuyến khích bịnh nhân thay đổi sự "co cụm, rút lui" của mình để giải tỏa , cắt đứt cái vòng lẩn quẩn càng ngày càng giữ bịnh nhân bị vây hãm trong mối lo.
Giản dị hơn, chúng ta có thể tự học hỏi, tìm hiểu và tự giúp lấy mình ý thức về nỗi lo sợ của mình, và ý thức được cái sợ của mình là vô căn cứ. Phương pháp chánh niệm quen thuộc với người Việt giúp ý thức về giây phút hiện tại cũng là một phương tiện hữu hiệu giải toả tình trạng lo âu. Phương pháp này (mindfulness) được nhắc đến và thực hành nhiều ở Mỹ (“experiencing the present moment”).
Dự hậu:
Đa số bịnh nhân thuyên giảm với thời gian. Chữa bịnh lo âu (anxiety) là yếu tố quan trọng nhất.
Có khi bịnh nhân tự khỏi bịnh (spontaneous remission). Nếu bác sĩ không chắc chắn là bịnh BFS mà có thể có dấu hiệu của các bịnh tế bào thần kinh vận động (motor neuron disease) (như teo cơ, liệt, yếu cơ), bác sĩ sẽ cần theo dõi bịnh nhân theo định kỳ, bịnh nhân cần cho bs biết nếu thấy triệu chứng nặng thêm, hay có triệu chứng mới xuất hiện; với thời gian có thể sẽ kết luận dứt khoát hơn. Theo những tài liệu tôi tìm được, không thấy có liên hệ giữa chứng động kinh và đột quỵ với bịnh BFS.
2) Áp huyết thấp (hypotension), thường được định nghĩa như là áp suất kỳ thu tâm = hoặc < 90mm thuỷ ngân (systolic pressure = or <90 mmHg), áp suất trương tâm= hoặc < 60 mmHg (diastolic pressure = or <60 mm Hg). tuy nhiên cũng tùy theo bịnh nhân, tuổi bịnh nhân, áp huyết thông thường của người đó. Có nhiều nguyên nhân, giản dị như bịnh nhân thiếu nước, bị xúc động, ngâm nước nóng quá lâu (mạch máu giãn nở), có thai, ít vận động. Phức tạp hơn ví dụ bịnh nhân thiếu máu (anemia, bần huyết, lượng hồng cầu quá thấp), chảy máu đâu đó (ví dụ rong kinh, chảy máu bao tử, ruột), hay suy cơ năng tuyến giáp (hypothyroidism), nang thượng thận (adrenal glands, bịnh Addison: đi đôi với da sẫm màu [hyperpigmentation], các vùng niêm mạc như miệng cũng đen hơn bình thường), nhiễm trùng máu, phản ứng thuốc, dị ứng, phản vệ (anaphylaxis=huyết áp hạ nhanh, shock kèm theo khó thở, nổi mẩn ngoài da). Cũng nên nêu rõ áp huyết thấp (hypotension) và thiếu máu (anemia) là hai bịnh khác nhau, mặc dù thiếu máu có thể gây ra áp huyết thấp, chóng mặt, xỉu.
Nói chung chúng ta không muốn áp huyết cao, và áp suất thấp là mục đích của chữa trị bịnh cao áp huyết. Tuy nhiên, nếu áp huyết thấp kèm theo các chứng như chóng mặt, muốn xỉu, mờ mắt, ói, tay chân lạnh, xanh xao, thở khó hay yếu, chán nản, trầm cảm (depression), nên đi khám bác sĩ.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Wednesday, January 16, 2019

Hiện tượng đồng động mặt (facial synkinesis)

Các cử động các cơ trên mặt chúng ta phụ trách biểu lộ các nét mặt khác nhau (cười, nhăn mặt, hút gió) được điều khiển do dây thần kinh mặt (thần kinh sọ số 7, TK7, 7th cranial nerve, facial nerve), một dây TK7 bên phải và một dây bên trái. Dây thần kinh số 7 phần lớn phụ trách vận động. 5-10 ngàn sợi thần kinh của dây thần kinh này đem mệnh lệnh từ não bộ đi ra khỏi cuống não (brainstem), thoát ra khỏi hộp xương sọ dưới tai, đi về hướng phía trước và chia thành 5 nhánh thần kinh đến các cơ liên hệ, trên 20 cơ mỗi bên mặt: cơ làm cho lông mày nhúc nhích, nhắm mắt, cử động các cơ chung quanh miệng. Nói chung là các cơ phụ trách biểu hiện trên khuôn mặt (facial expression).
Hiện tượng một chuyển động không cố ý đi kèm theo một chuyển động cố ý (chớp mắt ) gọi là synkinesis (syn=cùng, kinesis=chuyển động), và thường xảy ra sau khi dây thần kinh sọ số 7 (thần kinh mặt) bị tổn thương và trong quá trình phục hồi ( phỏng theo FacialPalsyUK)(1)
“Đồng động (Synkinesis) là gì?
Synkinesis có nghĩa là sự phát triển của các chuyển động trên mặt được liên kết với nhau hoặc với những chuyển động không mong muốn.
Chứng này phổ biến và xảy ra ở phần lớn những người đang hồi phục từ chứng liệt mặt kéo dài.

Chứng này nhìn vào và cảm thấy như thế nào?
Chỉ có nửa mặt bị ảnh hưởng phát triển synkinesis.
Các khu vực thường bị ảnh hưởng nhiều nhất là mắt, má, cằm và cổ.
Synkinesis có thể biểu hiện theo nhiều cách khác nhau. Sau đây là một số ví dụ về cách thức mà synkinesis biểu lộ và cách người bịnh cảm nhận. Nên nhớ, synkinesis xảy ra ở mặt phía trái hay phải bị ảnh hưởng và có thể được quan sát rõ ràng hơn khi ta so sánh với phía mặt không bị ảnh hưởng:
-Bạn có thể nhận thấy mắt của bạn thu hẹp khi bạn mỉm cười.
-Má của bạn nâng lên khi bạn nhắm mắt lại.
-Bạn có thể nhận thấy cơ cổ của bạn siết chặt, căng lên khi bạn cố gắng huýt sáo.
-Mặt co giật, đặc biệt là ở má và đôi khi cằm, cũng là một hình thức của synkinesis.
-Các cơ mặt, kể cả những cơ trên trán, có thể trở nên căng thẳng, gây đau mặt và đôi khi đau đầu.
-Một số người nhận thấy khi họ ăn thì chảy nước mắt, nước mũi.
-Nhiều trường hợp, khi đang thư giãn, nửa mặt phía bị ảnh hưởng có thể có nếp nhăn má sâu hơn, gò má có thể cao hơn, khóe mắt hẹp hoặc khóe miệng kéo lên.
Cơ bị lầm tưởng là yếu, trong khi thực sự chúng co chặt hoặc cứng và thấy khó nhúc nhích.

Các triệu chứng như thế nào?

1) Trương lực cao trong cơ mặt của bạn (high tone in facial muscles): Điều này có nghĩa rằng mặc dù các cơ mặt trên nửa mặt bị ảnh hưởng của bạn có vẻ thoải mái khi bạn đang nghỉ ngơi, chúng thường thực sự làm việc nhiều hơn phía mặt bên kia. Khi bạn cố gắng nhúc nhích chúng có thể làm việc gấp hai hoặc ba lần so với bên nửa mặt còn tốt.
2) Cơ ngắn, căng cơ: Các cơ mặt có thể trở nên ngắn lại và chặt chẽ vì chúng luôn luôn làm việc quá sức. Cơ bắp làm việc quá sức trở nên ngắn và cứng khiến chúng khó di động, nhúc nhích khi bạn muốn biểu lộ một nét mặt nào đó.
3) Các chuyển động liên kết (coordinated movements): Dây thần kinh mặt đang phục hồi được cách điện (insulation) kém, dẫn đến mệnh lệnh di chuyển gửi đến một cơ cụ thể nào đó lại được cơ khác tiếp thu và chuyển động. Hậu quả là nhiều hơn một cơ chuyển động cùng một lúc (ví dụ, khi bạn mỉm cười, mắt bạn đóng lại). Theo thời gian những chuyển động liên kết này trở thành một thói quen và mặc dù các dây thần kinh phục hồi, các chuyển động xảy ra thường xuyên vẫn còn tồn tại.
4) Giảm phối hợp (reduced coordination): Sau bất kỳ chấn thương nào thì khó có thể phối hợp vận động và cơ bắp đúng cách khi bạn hồi phục. Cơ bắp có xu hướng làm việc cùng một lượt hơn là làm công việc riêng rẻ của nó.
5) Trình tự chuyển động kém (poor movement sequencing): Sau khi chấn thương cơ thể của bạn có xu hướng quên đi những chuyển động nào sẽ xảy ra trước tiên, chuyển động nào sẽ xảy ra sau; tất cả sẽ xảy ra như một chuyển động đồng loạt trông không tự nhiên. Đôi khi các cơ bắp co không đúng lúc có thể kéo và chống lại các cơ bắp đang co đúng lúc, ngược chiều với nhau. Kết quả là không có chuyển động nào có thể xảy ra khi các tác dụng các cơ đang hủy lẫn nhau.
6) Các chuyển động áp đảo (dominant movement): Phía mặt không bị tổn thương hoặc cơ bắp co lại không đúng lúc có thể mạnh hơn các cơ mà bạn muốn nhúc nhích, chuyển động. Chuyển động bạn đang thực sự cố gắng thực hiện bị lu mờ bởi những lực kéo của các cơ mạnh mẽ hơn và vì thế không thực hiện được, không thể nhìn thấy được.
Bạn có thể làm gì để cải thiện synkinesis?
Hãy hỏi bác sĩ giới thiệu bạn đến một chuyên gia trị liệu ngôn ngữ hoặc chuyên viên vật lý trị liệu có kiến thức chuyên môn về phục hồi chức năng mặt (speech and language therapist or physiotherapist who has specialist knowledge in facial rehabilitation). Bác sĩ trị liệu của bạn sẽ giải thích về synkinesis và nguyên nhân của bịnh này.
Bạn cũng sẽ tìm hiểu để xác định những cơ nào hoạt động bình thường trong quá trình của một vận động (ví dụ lúc chớp mắt, cười, hút gió) và do đó các cơ nào không cần thiết đang can thiệp vào cử động chính mà mình thực sự muốn.
Tránh đi đến những người không thông thạo về phép trị liệu này vì tập sai có thể là chứng đồng động tệ hơn trước.
Bạn sẽ yêu cầu chuyên viên vật lý trị liệu lập một chương trình tập các cơ tại nhà đáp ứng với nhu cầu cá nhân của mình.
Trong một số trường hợp, có thể cần đến điều trị bằng tiêm độc tố Botulinum, để làm giảm hoạt động của các cơ synkinetic và cân bằng các chuyển động của các cơ mặt.”
Chích độc tố botulinum vào các bắp thịt ở mặt với hướng dẫn bằng máy đo điện các cơ (botox injection with electromyographic guidance).
Biến chứng có thể xảy ra: sụp mí mắt, méo mặt, yếu cơ mặt, thường chỉ tạm thời.
Chích botulinum A toxin (vd Botox) là biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Thuốc do một con vi khuẩn sản xuất, chích vào cơ liên hệ làm gián đoạn truyền dẫn thần kinh từ dây thần kinh qua cơ và làm cho cơ tê liệt. Cơ chế: sự phóng thích của acetylcholin nhờ trung gian của Calci vào khớp nối liền giữa các dây thần kinh bị ức chế. (Botox inhibits the calcium‐mediated release of the acetylcholine into synaptic junction). Thông thường dùng với mục đích thẩm mỹ, xoá các vết nhăn trên mặt. Trong trường hợp này các cơ (bắp thịt ) ở mặt không giật nữa. Sau 3-5 ngày, bịnh nhân cảm thấy thuyên giảm. Thuốc tác dụng được 3- 6 tháng thì hết tác dụng, thường vài tháng phải chích lại ngăn chặn co giật tái xuất hiện. Kết quả tốt trong 75-100% trường hợp [4]. Trong trường hợp hiếm, sau nhiều năm dùng thuốc có thể thuốc sẽ giảm hiệu nghiệm do cơ thể sinh ra kháng thể chống lại thuốc (immuno-resistance).
Tóm lại, trước hết, nếu triệu chứng không thuyên giảm sau 3 tháng, nên nhờ bác sĩ thần kinh khám xem mình bị bịnh gì, bác sĩ có nghĩ rằng trước đây mình có bị chứng liệt dây thần kinh số 7 (Bell's palsy) hay không. Nếu bác sĩ quan sát thấy chứng synkinesis, bác sĩ sẽ giới thiệu với chuyên gia vật lý trị liệu chuyên về mặt thích hợp. Một số người dùng châm cứu, nhưng nên chọn người có kinh nghiệm về loại bịnh này, và nói chung người ta khuyên không nên dùng châm cứu bằng dòng điện. Chích botox có thể giúp làm giảm các chuyển động ngoài ý muốn trên mặt đi kèm những chuyển động có ý thức, nhưng cần người có được huấn luyện và kinh nghiệm trong bịnh này.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Tuesday, January 15, 2019

Giật giật trong đầu gối và phình động mạch sau gối (popliteal aneurysm)

Đầu gối chúng ta là một cái khớp lớn gồm đầu xương đùi (femur, thigh bone) và xương chày (tibia); phía trước có xương bánh chè (patella, gốc latinh patina= dĩa nhỏ, cạn). Nếu giật giật chỉ là một cảm giác nhẹ nhàng , không kéo dài, cảm giác trong đầu gối có thể có nguồn gốc từ bất cứ bộ phận nào. Ví dụ, một dây thần kinh nhỏ bị chèn ép lúc co đầu gối có thể gây cảm giác tê hay giật ở đó. Nếu mặc quần ống chật quá, có thể gây ra cảm giác này.Ngồi một chỗ lâu có thể làm máu khó lưu thông trong các tĩnh mạch, tạo nên cảm giác giật giật, nếu đứng dậy đi lui đi tới, hay nhón bàn chân lên xuống (như lúc ngồi lâu trên máy bay) có thể làm chân bớt tê, và cái giật giật này có thể mất đi. Tất nhiên, cần khám người bịnh trực tiếp may ta mới có thể đoán cảm giác giật giật đó xuất phát từ đâu.
Tuy nhiên phía sau khớp đầu gối, có một động mạch sau gối (popliteus: gốc latinh có nghĩa vùng lõm sau đầu gối), đường kính bình thường chừng 7mm-11mm. Nó nối tiếp động mạch đùi phía trên (superficial femoral artery), và phía dưới chia thành 2 nhánh (anterior tibial artery and tibioperoneal trunk). Trong một số trường hợp, vách động mạch bị phình ra, đường kính to hơn 50% mức bình thường, gọi là "phình động mạch sau gối” (popliteal aneurysm). Phình động mạch chiếm 85% các phình động mạch ngoại biên. Xảy ra nhiều hơn ở người hút thuốc lá, người mắc bịnh mô liên kết như hội chứng Marfan, nam phái, dân da trắng (Caucasian), người trong gia đình có trường hợp phình động mạch, người lớn tuổi (cao nhất 60-80 tuổi). Hết 40-50% người bị phình động mạch đầu gối mang kèm theo chứng phình động mạch chủ (là động mạch chính ở trung tâm đem máu từ tim ra các bộ phận khác trong cơ thể).
Đa số các phình động mạch sau gối không có triệu chứng. Những trường hợp mạch phình chèn ép lên dây thần kinh bên cạnh có thể làm tê chân hay đau, chèn ép tĩnh mạch popliteal vein làm cẳng chân bị phù nề. Máu đóng cục trong mạch bị phình, cục máu thuyên tắc (embolization) có thể làm cẳng chân đau, tê, ấm lạnh bất thường, tái, tím, đau lúc vận động, hay thiếu máu nuôi dưỡng đến mức phải cắt bỏ trong 15% trường hợp.
Bác sĩ khám phía sau đầu gối khi bịnh nhân giữ khớp trong tư thế co lưng chừng (semi-flexion), và sờ thấy một khối ngang với khớp gối đập nhịp nhàng theo mạch tim.
Bác sĩ có thể dùng siêu âm, CT hay MRI để định bịnh chính xác hơn. Đồng thời, cần khảo sát động mạch sau đầu gối phía bên kia cũng như động mạch chủ ngực và bụng.
Chữa trị: các phình động mạch có triệu chứng cần được phẫu thuật. Động mạch sau đầu gối phình to hơn 20mm hay có góc quẹo trên 45 độ (cơ nguy bị quặp lại/ kinking và tắc nghẽn cao) cần được phẫu thuật, hoặc thay bằng một đoạn tĩnh mạch lấy ở chỗ khác ở cẳng chân ( autologous vein graft from saphenous vein), hoặc dùng ống ghép nhân tạo (prosthetic graft), hoặc đặt stent.
Xin nhắc lại đây chỉ là một cơ hội cho chúng ta học hỏi. Chúng ta bàn về bịnh phình động mạch không có nghĩa người hỏi mắc phải bịnh này. Bệnh nhân cần đi khám bịnh với bác sĩ riêng của mình để biết chính xác hơn.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Chứng chảy 'mồ hôi cục bộ không rõ nguyên nhân' (primary focal hyperhidrosis)

Thường lúc chúng ta chảy mồ hôi nhiều lúc chúng ta đến một chỗ nóng nực, vì bộ óc chúng ta có khả năng phát hiện được sự thay đổi nhiệt độ của máu cơ thể đi vào đầu, bộ óc ra lệnh cho những tuyến mồ hôi làm việc nhiều hơn. Trái lại, mồ hôi bàn tay và lòng bàn chân chịu ảnh hưởng trực tiếp của vỏ óc (cerebral cortex) là những tổ chức thần kinh cấp cao và là nơi điều khiển những cảm xúc, suy nghĩ. Do đó chúng ta chảy mồ hôi tay chân thường vì chúng ta xúc động, sợ sệt hoặc lo âu (emotional stimuli).
Focal là cục bộ, chỉ giới hạn ở nách, bàn tay, bàn chân, mặt; khác với “generalized hyperhidrosis”)
Ở một người khỏe mạnh về mọi mặt khác
Thường được giải thích như là một sự thiếu điều hòa của hệ thần kinh giao cảm(autonomic dysregulation). Nói một cách giản dị hơn, những người này là những người dễ bị xúc động, hệ thần kinh giao cảm (sympathetic system, nhưng dùng acetylcholine làm chất dẫn truyền thần kinh [neurotransmitter]) quá nhạy cảm , kích thích các hạch mồ hôi tay chân, nách quá trớn. Người Nhật bị chứng này 20 lần nhiều hơn các giống dân khác. Người Mỹ (phần đông là da trắng) chừng 1% mắc chứng này.
Trong gia đình bịnh nhân có nhiều người thân khác cũng mắc chứng ra mồ hôi nhiều ở tay, chân mặt
Một điểm quan trọng khác là lúc đi ngủ thì không bị ra mồ hôi tay chân.

Bác sĩ cần phân biệt với bịnh ra mồ hôi quá nhiều toàn thân do những nguyên nhân khác (secondary hyperhidrosis).
1) Những người này chảy mồ hôi cả ngày lẫn đêm.
2) Nguyên nhân có thể là: trời nóng quá, bịnh nhiễm như bịnh lao, u bướu (lymphoma), cường cơ năng tuyến giáp.

Chữa trị chỉ có mục đích làm tăng phẩm chất (chất lượng) đời sống vì bịnh này không có gì nguy hiểm.

1) Thường nhất là dùng những muối aluminum (nhôm). Muối nhôm bít các lỗ tuyến ra mồ hôi, và có thể huỷ hoại một số tuyến mồ hôi.
Ở Mỹ , Thuốc tên Drysol chứa 20 % aluminum chloride, bán từng chai 37. 5 cc, ở Mỹ mua phải có toa BS. Tối đi ngủ người bịnh thoa Drysol lên chỗ mồ hôi nhiều, lấy saran wrap (là màng plastic) bọc lên, sáng dậy rửa thuốc đi. Làm hai đêm liên tiếp . Sau đó , mỗi tuần một hai lần nếu cần.
Thuốc Certin-Dri và Xerac không cần toa BS.
Nên hỏi dược sĩ có thuốc tương tự hay không, thường đây là những chất rẻ tiền dễ kiếm.
Nhớ thoa thuốc lúc da khô (trước khi đi ngủ), và rửa sạch lúc dậy buổi sáng; nếu da vẫn ngứa , đỏ khó chịu có thể dùng kem loại corticoid ( như hydrocortisone 2.5%) thoa.
2) Các thuốc uống trị bịnh ra mồ hôi nhiều không hiệu quả lắm vì nhiều phản ứng phụ. Những thuốc này có tác dụng chống lại acetylcholine, nên cũng gây phản ứng phụ như khô mắt, khô miệng, mắt mờ do con ngươi nở lớn, khó tiểu, bón ( Anticholinergics: vd propantheline bromide, glycopyrrolate, oxybutynin (Ditropan), benztropine).
3) Một cách chữa khác là iontophoresis, dùng dòng điện để đem thuốc vào da. Máy bán trên thị trường cho người tiêu dùng tại nhà, dùng nước vòi (tap water) và chừng 85% thấy bịnh thuyên giảm. Bất tiện là phải 'chạy điện" 20-30 phút mỗi ngày, dần dần có thể dùng vài ba lần/ tuần.
4) Trong một số trường hợp bác sĩ có thể xài thuốc an thần (tranquilizer).
Những thuốc này cũng như những biện pháp sau đây không xài cho trẻ em, chỉ kể ra đây với mục đích thông tin.

5) Một số Bs dùng phương pháp giải phẫu , cắt đứt dây thần kinh giao cảm nằm trong lồng ngực, trước khi giây này ra khỏi lồng ngực và phụ trách vùng mồ hôi ở nách và tay ((cắt thần kinh giao cảm bằng nội soi lồng ngực/ ETS endoscopic transthoracic sympathectomy). Do BS giải phẫu thần kinh (neurosurgeon) thực hiện.
Một số bịnh nhân sau khi giải phẫu, mồ hôi tay chân có thể giảm nhiều , nhưng lại có phản ứng phụ là sau một thời gian khá lâu, mồ hôi lại gia tăng ở chỗ khác, (compensatory sweating) như ngực, lưng, mặt, chân (ví dụ trán chảy mồ hôi nhiều lúc ăn đồ gia vị). Biến chứng có thể xảy ra: tổn thương các bộ phận trong lồng ngực, cắt nhầm các nhánh thần kinh giao cảm ảnh hưởng đến mắt, tim (làm sụp mí mắt trong hội chứng Horner, tim có thể đập chậm hơn trước, có thể quan trọng đối với các lực sĩ chuyên nghiệp). Bịnh nhiều mồ hôi có thể tái lại sau một thời gian 1-2 năm.
6) Một phương pháp mới, khá đắt tiền là chích Botulinum toxin A (Botox). Botox là một chất cực độc lấy từ vi trùng botulinum. Hiện nay rất thịnh hành trong việc trị các vết nhăn da mặt. Độc tố này làm tê liệt các tuyến mồ hôi.
Bịnh nhân được bác sĩ chuyên khoa da chích chừng 50 mũi chất này vào mỗi bàn tay. Hiệu nghiệm từ 4-12 tháng , sau đó phải làm lại.

7) Một số khảo cứu đang dùng năng lượng của siêu âm để chữa bịnh này, điềm bất tiện chính là làm tê hai bàn tay.
8) Tự nó bịnh nhiều mồ hôi chỉ bất tiện, cần tĩnh tâm, bớt lo lắng, lo âu, thư giãn.
Thường người chảy mồ hôi tay nhiều có khuynh hướng bị ám ảnh tay mình ẩm ướt lúc giao tiếp, trước lúc sắp phải bắt tay người khác, cầm tay người khác. Sự căng thẳng này lại càng làm cho người đó hồi hộp, tim đập mạnh , tay ướt nhiều hơn (do hệ thần kinh giao cảm tự động bị kích thích bởi tác dụng của stress). Người đó có thể vô tình tránh tiếp xúc với người khác và giới hạn sinh hoạt của mình, ít muốn tiếp xúc với ai. Khá đông người Vn chúng ta cũng nghĩ rằng mồ hôi tay là triệu chứng yếu tim (cũng dễ hiểu vì do tác dụng hệ gia cảm nói trên, tim cũng đập nhanh, người đó hồi hộp,cảm thấy khó thở) nhưng điều này không đúng. Có thể đọc sách hướng dẫn, tập thiền, hoặc nhờ những người có khả năng giúp cho mình tự tin hơn, như chuyên gia tâm lý, hoặc bs của mình.
Đa số người trẻ mắc chứng này dần dần sẽ bớt trở ngại, triệu chứng giảm đi với thời gian, nhất là nếu người đó tự tin hơn và làm chủ được mình hơn bằng cách ý thức về sự sợ sệt của mình. Có thể dùng muối nhôm (aluminum salt) nếu cần. Ở các nước Đông nam Á, chúng ta thường dùng phèn chua potassium alum (KAl(SO4)2) hay ammonium alum (Ammonium aluminium sulfate; (NH4)Al(SO4)2) được dùng chữa bịnh ra mồ hôi nhiều do khả năng giảm mồ hôi và sát trùng. Một cách rẻ tiền là dùng phèn chua tán thành bột, thoa vào lòng bàn tay , để 10 phút rồi rửa nước. Mua phèn chua ở đâu có lẽ hỏi người ở tại Đà nẵng là tốt nhất. Có thể hỏi các tiệm đông y dược vì người ta dùng chất này trong đông y. Những thuốc tây tìm không có thể gửi mua trên mạn hay không, tôi không biết rõ. Tốt hơn hết là nên hỏi bác sĩ của mình.
Theo wikipedia: “Kali alum hay phèn chua là muối sunfat kép của kali và nhôm. Tên Việt Nam phổ biến là "phèn chua". Công thức hóa học của nó là KAl(SO4)2 và thông thường được tìm thấy ở dạng ngậm nước là KAl(SO4)2·12H2O. Nó được sử dụng rộng rãi để làm tinh khiết nước, thuộc da, vải chống cháy và bột nở. Phèn chua đó là loại muối có tinh thể to nhỏ không đều, không màu hoặc trắng, cũng có thể trong hay hơi đục. Phèn chua tan trong nước, không tan trong cồn.
Phèn chua có nhiều tên gọi khác nhau như trong Hán việt gọi là vũ nát, vũ trạch, mã xĩ phàn, nát thạch, minh thạch, muôn thạch, trấn phong thạch, tất phàn, sinh phàn, khô phàn, minh phàn, phàn thạch...Theo y học cổ truyền thì phèn chua được dùng để sát trùng ngoài da, làm hết ngứa, chữa hôi nách hiệu quả.”
Nên nhờ BS khám để đánh giá sức khỏe tổng quát , để loại những bịnh tim, giáp trạng đôi khi có thể đi cùng, cũng như hướng dẫn mình dùng những thuốc có sẵn tại địa phương mình ở. Các nhận xét trong bài này hoàn toàn có tính cách thông tin mà thôi.

BS Hồ Văn Hiền

Teo thần kinh thị giác và bệnh não úng thủy (optic nerve atrophy and hydrocephalus)

Não bộ của chúng ta nằm trong hộp sọ và tủy sống nằm trong xương sống được màng não (meninges) gồm 3 lớp bao bọc chung quanh, như một cái vỏ bọc gói ghém nằm giữa hệ thần kinh và xương bao chung quanh. Giữa 2 lớp bao bọc trong cùng (giữa màng nhện/arachnoid membrane và pia mater) khoảng không gian gọi là subarachnoid space (khoảng dưới màng nhện).Trong không gian này chứa một chất lỏng trong gọi là dịch não tủy (cerebrospinal fluid, CSF). Dịch CSF này được sản xuất trong hai não thất (ventricles I-II) nằm hai bên trái và phải (choroid plexus), lưu thông qua não thất 3-4 và vào khoảng trống dưới màng nhện, sau đó thì được hấp thụ bởi các mạch máu (arachnoid granulations), vào hệ tuần hoàn và thải qua thận.
Nếu vì một lý do nào đó, dịch não tuỷ không lưu thông bình thường, áp suất dịch sẽ quá cao.
Thần kinh thị giác (optic nerve, TK2) đi từ 2 tròng mắt ra phía sau , đến não bộ, và nối nhãn cầu với não bộ phía sau. TK2 đi ngang qua các lớp màng não nói trên, và nếu áp suất CSF quá cao, TK2 bị chèn ép, không được cung cấp oxy và dinh dưỡng đầy đủ, sẽ bị thoái hoá, teo lại (Optic Nerve Atrophy , ONA).
Lúc bác sĩ khám đáy mắt, nhìn vào võng mô, có một vùng tròn, hơi gồ lên, gọi là optic papilla hay optic disc (gai thị giác) nơi mà các sợi thần kinh thị giác rời khỏi mắt, bình thường màu hồng. Nếu dây thần kinh thị giác bị teo (optic nerve atrophy, ONA), papilla sẽ mất màu hồng và tái đi (pale optic disc). Bịnh nhân có thể mất khả năng nhìn thấy nhiều hay ít tùy trường hợp, một bên hoặc hai bên.
Ngoài ra, các dây thần kinh sọ 2, 4, 6 điều khiển các cử động của nhãn cầu cũng có thể hư hại, làm cho mắt bịnh nhân bị lé (lác)(strabismus). Người lớn có thể thấy một thành hai, trong lúc trẻ em thấy một thành hai sẽ thích ứng bằng cách chỉ chấp nhận tín hiệu từ một mắt, lơ là (ignore) tín hiệu từ mắt bị lé, mắt bên lé càng ngày càng kém đi và trở thành "mắt lười biếng" (lazy eye).
Như vị thính giả cho biết, không có thuốc hiện nay để chữa bệnh ONA.
Trẻ con vẫn thấy mờ dù có mang kính sửa khúc xạ, thị trường vẫn bị co hẹp (constricted visual field) ở ngoại biên (peripheral vision), làm như nhìn qua một đường hầm (tunnel vision), hay mất thị giác ở trung tâm thị trường (central vision) , ra nắng thấy khó chịu, loà, sợ ánh sáng (phophobia).
Các nhà giáo dục chuyên về trẻ khiếm thị có thể đánh giá:

- Functional Vision Assessment (FVA): đánh giá cơ năng thị giác : công việc cần nhìn gần, trung bình, xa; màu sắc; tương phản sáng tối (contrast) để dùng hình ảnh, ánh sáng, đèn thích hợp; thị trường (visual field), vd bé có thể chỉ thấy lọ màu nằm bên cạnh mà không để ý gam các màu khác nằm ngoài thị trường của mình.

- Orientation and mobility assessment : khả năng định hướng, di chuyển
- Assistive technology: dùng các kỹ thuật phụ trợ như máy tính giúp đỡ trẻ đọc, viết, hội hoạ, vv

- Visual efficiency skills: kỹ năng scan những chi tiết mà mình thấy được, như đứng trước một cảnh tượng trước mắt nhưng bị giới hạn bởi tầm nhìn của mình (visual field, trong ba chiều), làm thế nào để quan sát một cách có hệ thống, theo từng bước một.
Về vấn đề giờ giấc:
Một đứa trẻ 4 tuổi cần ngủ 10-13 giờ mỗi ngày; có thể ngủ trưa 1-2 tiếng hoặc không cũng được. Không nên quá 14 tiếng và ít hơn 9 tiếng.
Theo khuyến cáo hiện nay của Canada (The Canadian 24-Hour Movement Guidelines for Children and Youth) , trẻ em 8-11 tuổi

  • chỉ nên được xem màn hình không quá 2 giờ/ngày (24 giờ),
  • nên ngủ 9-11 giờ/ngày
  • và phải hoạt động cơ thể 1 giờ/ngày.
Một nghiên cứu (1) theo dõi trong 10 năm 4520 trẻ em ở Mỹ cho thấy chỉ 51% trẻ em ngủ đủ giờ, 37% tôn trọng giới hạn xem màn hình, và tệ nhất là về vận động cơ thể, chỉ 17% đạt tiêu chuẩn 1 giờ/ngày. Chỉ có 5% theo đúng cả 3 tiêu chuẩn nói trên.
Những nhóm trẻ em theo đúng 3 tiêu chuẩn, hay chỉ xem màn hình dưới 2 giờ/ ngày; ngủ đủ giờ và xem màn hình ít đều có liên hệ với một mức trí tuệ tổng quát cao hơn (trí nhớ, khả năng chú ý, khả năng ngôn ngữ) .
Nói cách khác, nói chung trẻ theo đúng các hướng dẫn trên thường khôn hơn, học giỏi hơn, nhất là tiêu chuẩn giới hạn giờ xem TV, màn hình iPad, iPhone và ngủ đủ giờ ban đêm.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền