Wednesday, June 6, 2018

Chứng lơ đễnh và náo động ở người lớn (Adult ADHD)

Ta có thể dịch ADHD (attention deficit hyperactivity disorder) là ”Chứng Lơ Ðễnh Và Náo động” cũng được và có thể nghe hay hơn; nhưng nếu muốn trung thành vớI danh từ tiếng Anh phổ biến là Attention Deficit Hyperactivity Disorder ( viết tắt là ADHD) thì dịch là “Rối loạn thiếu chú ý và tăng hoạt động”.
Những trẻ mắc chứng này có ba đặc tính (tuy mỗi bệnh nhân có thể thiên về thiếu chú ý hay quá năng động):
1) Tăng hoạt động (motor hyperactivity): tay chân lúc nào cũng bận rộn, từ chuyên chơi đến chuyện phá, "chưa đứng đã ngồi, chưa đi đã chạy", miệng nói "tía lia".
2) Lơ đễnh, thiếu chú ý (inattentiveness), không theo dõi, không ngồi yên , để tâm trí vào một công việc, đề tài . Nói một cách khác, tầm chú ý quá ngắn (short attention span).
3) Nóng nảy: Kém thận trọng, không cân nhắc, theo xu hướng nhất thời (impulsivity).
Những dấu hiệu của ADHD ở người lớn:
1) Thiếu khả năng tổ chức (thanh toán hoá đơn, săn sóc con cái: ăn uống, đi học..)
2) Lái xe ẩu, thường gặp tai nạn (khó khăn giữ chú ý liên tục lúc lái xe, tính nóng nảy)
3) Đời sống vợ chồng xáo trộn: người phối ngẫu nghĩ rằng người kia không chịu khó để ý đến họ, không giữ hẹn, giữ lời hứa (vì hay quên) nên cho rằng người đó (thường là chồng) vô trách nhiệm.
4) Quá dễ đãng trí, nhất là hiện nay nhiều email, điện thoại, message..., chỗ làm việc ồn ào làm cho người ADHD dễ bỏ quên hay bỏ dở công việc phải làm.
5) Khả năng nghe kém: "mơ mộng" trong các buổi họp kéo dài, vợ dặn đi đón con nhiều lần vẫn quên (nhưng bà vợ tưởng anh ta cố lờ đi và giận).
6) Trẻ con ADHD thì năng động, nhưng người lớn thì biểu hiện hơi khác, chỉ khó khăn thư giãn, có vẻ như bứt rứt, không thoải mái.
7) Khó khăn, chậm chạp, chần chừ lúc cần khởi sự một công việc nào đòi hỏi chú ý, chăm chỉ; có thể bị phê bình là lười biếng.
8) Hay trễ nải: đến hẹn trễ vì quên đổ xăng, người ADHD không tiên liệu được làm một công việc cần phải mất bao nhiêu thì giờ.
9) Hay nổi nóng, lên "cơn thịnh nộ', nhưng cũng mau nguội.
10) Không biết làm việc theo thứ tự ưu tiên, việc quan trọng cần làm xong trước, kế đến chuyện nhỏ nhặt hơn; có thể mất thì giờ vào tiểu tiết, tuỳ hứng.
Theo sách DSM 5 (Diagnostic and Statistical Manual, 5th Edition) của Hội Tâm Thần Hoa Kỳ (American Psychiatric Association), là tiêu chuẩn chẩn đoán mới nhất cho các bệnh tâm thần:
1) Về khả năng chú ý những người bị ADHD có ít nhất 6 trong những triệu chứng sau (ít nhất 5 triệu chứng cho người trên 17 tuổi), kéo dài trên sáu tháng và làm người bệnh khó thích ứng với cuộc sống và mức phát triển sai lệch đi so với lứa tuổi của mình (to a degree that is maladaptive and inconsistent with developmental level):
Thường không chú ý đến chi tiết hoặc phạm sai lầm bất cẩn trong việc học, làm việc hoặc các hoạt động khác
Thường gặp khó khăn trong việc duy trì sự chú ý trong công việc hoặc các hoạt động vui chơi
Thường dường như không nghe những gì đang được nói lúc người khác đang nói trực tiếp với mình
Thường không làm theo hướng dẫn và không hoàn thành bài tập ở trường, công việc hoặc nhiệm vụ tại nơi làm việc (không phải do hành vi đối lập [oppositional behaviour] hoặc không hiểu hướng dẫn)
Thường gặp khó khăn trong việc tổ chức các công tác, công việc được giao phó và các hoạt động
Thường tránh hoặc rất ghét những công việc (chẳng hạn như bài tập ở trường hoặc bài tập về nhà) đòi hỏi nỗ lực tinh thần kéo dài.
Thường để mất những thứ cần thiết cho các nhiệm vụ hoặc hoạt động (bài tập ở trường, bút chì, sách, công cụ hoặc đồ chơi)
Thường dễ bị phân tâm bởi các kích thích không liên quan đến công việc đang làm.
Thường hay quên trong các hoạt động hàng ngày
2) Về chứng quá hoạt động và hành động theo xung lực (hyperactivity and impulsivity)
Thường táy máy, nhúc nhích bàn tay hoặc bàn chân, nhịp tay chân, hoặc ngồi hay nhúc nhích, hay đổi thế ngồi.
Thường rời khỏi chỗ ngồi trong khi đáng ra phải ngồi yên.
Thường chạy chơi hoặc leo trèo trong những tình huống không thích hợp (thanh thiếu niên hoặc người lớn khác, có thể chỉ có cảm giác bồn chồn).
Thường không thể chơi hoặc tham gia vào các hoạt động giải trí một cách lặng lẽ.
Thường là ở thế "hành động" như thể đang bị "điều khiển bởi một động cơ".
Thường nói quá nhiều.
Thường tuông một câu trả lời trước khi người hỏi nói xong câu hỏi.
Thường gặp khó khăn đợi lúc phải chờ đến lượt mình.
Thường xuyên xía vào hoặc làm gián đoạn chuyện của người khác (ví dụ: một cuộc đối thoại hoặc một trò chơi)
Chữa trị chứng thiếu chú ý và tăng hoạt động là một vấn đề phức tạp và đầy thử thách. Có nhiều người, bác sĩ hay phụ huynh, cho rằng ADHD không phải là một "bệnh" thần kinh rõ rệt, nghĩa là hệ thần kinh của đứa trẻ không có dấu hiệu gì chứng tỏ nó bất bình thường hay bị tổn thương, và chứng hiếu động ở đây chỉ là một đặc tính bình thường, thể hiện ở mức cao khác thường do thể chất, hoàn cảnh cá biệt, hay do dinh dưỡng không thích hợp. Do đó họ không ủng hộ việc dùng thuốc, càng ngày càng phổ biến, như Ritalin cho những triệu chứng loại này.
Riêng về trị bệnh bằng thuốc men, bác sĩ thần kinh trẻ em có thể thử cho bé những thuốc sau đây:
Những thuốc kích thích (stimulant) thường dùng cho ADHD: methylphenidate ([viết tắt MPH], Ritalin), dextroamphetamine sulfate (viết tắt DEX, tên thương mại Adderal).
Nói chung tuy là những thuốc này có khả năng kích thích, làm hưng chấn (stimulant) người bình thường; ở trẻ mắc chứng ADHD thì thường chúng lại có tác dụng ngược lại, làm cho trẻ đằm hơn, ít “quậy “ và bứt rứt hơn, và khả năng tập trung, chăm chú vào một công việc, trò chơi, học tập nhiều hơn.
Thuốc kích thích Ritalin (methylphenidate) càng ngày càng được dùng nhiều hơn để chữa bệnh cho các trẻ em hiếu động, thiếu khả năng chú ý trong lớp học.
Một số khá đông cha mẹ không muốn cho con dùng thuốc kích thích như Ritalin để chữa bệnh ADHD. Điều này cũng dễ hiểu vì trẻ tuổi còn rất nhỏ. "Giáo dục cưỡng bách " (compulsory education) càng ngày càng phổ cập, có nghĩa là tất cả các trẻ em phải ngồi trong lớp, chú ý , thường là thụ động vâng lời trong bao nhiêu giờ trong một ngày. Tất nhiên có những trẻ không chịu được lối sống này, và nếu nó "nhúc nhích” nhiều, đãng trí quá thì không học được, và việc học các bạn cũng bị ảnh hưởng. Ngoài ra, những khảo cứu cũng cho thấy các triệu chứng như thiếu chú ý và quá hiếu động giảm đi nhiều nếu cho trẻ em được sinh hoạt ngoài thiên nhiên thay vì tù túng chơi game điện tử hay chơi thể thao đi nữa trong nhà, trong lớp , hay ngoài đường phố. Tuy nhiên cô thầy ở trường học Mỹ có khuynh hướng áp lực phụ huynh cũng như bác sĩ nhi khoa phải giải quyết nhanh và gọn. Nếu không thì họ không điều hành lớp học được nữa vì sự hiện diện của một hoặc nhiều em quá hiếu động, do quan niệm về giáo dục tại Mỹ không cho phép những biện pháp cứng rắn hơn như trừng phạt thân thể (đánh đòn), phạt nặng, la mắng hay đuổi ra khỏi lớp.
Do đó, cho đến gần đây, đa số trẻ mắc chứng ADHD vẫn phải uống thuốc, và Mỹ là xứ chiếm hết 90% số người dùng Ritalin trên thế giới. Khuynh hướng này có vẻ đang lan rộng ra nhiều nơi khác ở phương tây. Một khảo cứ gần đây tại Đại học Brandeis cho thấy , thế giới cũng bắt đầu theo cách của người Mỹ , và hiện nay Mỹ chỉ chiếm 75% số học sinh dùng Ritalin trên thế giới.(1)
Riêng đối với trẻ em Việt mà tôi được gặp mấy chục năm qua, có vẻ các cháu ít bị ADHD hơn mức 5-10% của Anh Mỹ nói chung, và bệnh nhân cũng rất ít cháu phải uống Ritalin. Có thể trong văn hoá người Việt di dân thế hệ thứ nhất và thứ hai có điểm gì khác mà chưa thấy ai khảo cứu về sự khác biệt này.
Hai tác giả, Conrad và Bergey, không phải là bác sĩ y khoa, thuộc phe cho rằng ADHD không phải là một "bệnh" thần kinh rõ rệt, và không thích việc dùng Ritalin cho những triệu chứng loại này, giải thích hiện tượng các nước như Anh, Pháp , Đức , Ý cũng gia tăng chữa ADHD bằng Ritalin với 5 lý do như sau:
1) Các công ty thuốc nhiều tiền vận động mạnh để các nước khác dễ chấp nhận dùng thuốc để trị ADHD.
2) Chữa bằng thuốc dễ dàng hơn, được ưa chuộng hơn là không dùng thuốc, ví dụ medicaid (bảo hiểm cho trẻ em nghèo) chấp nhận trả tiền chữa thuốc chứ không trả tiền cho tâm lý trị liệu.
3) Sách DSM (Diagnostic and Statistical Manual), là "thánh kinh" của ngành y khoa tâm thần định bệnh ADHD một cách rộng rãi hơn, nay được các nước châu Âu và Nam Mỹ dùng nhiều hơn.
4) Các nhóm kêu gọi cho quyền lợi bệnh nhân ADHD làm người ta ý thức nhiều hơn đến bệnh này.
5) Người ta lên internet để tìm hiểu khi thỉnh thoảng người ta tự nhận thấy mình có như hơi nóng ruột, đãng trí, việc ôm đồm nhiều quá làm không kịp. Check vài mục trên list do các nhà thuốc lập ra là thấy cần đi bác sĩ, hỏi thăm, thế là bác sĩ định bệnh, cho uống thuốc (chứ biết làm gì khác với nếp sống vội vã hiện nay?).
Người bị ADHD có thể cải thiện cuộc sống mình bằng cách quản lý thời gian của mình (lập thời khoá biểu hàng ngày, lịch các việc phải làm, dọn dẹp chỗ làm việc cho có thứ tự, dùng màu dán nhãn các món dễ lẫn lộn, chia các món hay thất lạc như chìa khoá, thư từ vào từng ô riêng..) và kiểm soát tính nóng nảy, "bốc đồng" của mình. Có một cố vấn tinh thần, một người già dặn, kinh nghiệm hơn hướng dẫn càng tốt. Chuyên gia tâm lý chuyên về ADDH càng tốt hơn. Bác sĩ tâm thần còn giúp trong những lãnh vực như bịnh trầm cảm, lo âu thường đi kèm theo ADDH. Các thuốc chữa ADHD người lớn cũng giống như thuốc chữa ADHD trẻ em. Những thuốc này được kiểm soát chặt chẽ ở Mỹ, cần toa của bác sĩ có được phép của DEA (Drug Enforcement Agency; cơ quan quan kiểm soát thuốc của Mỹ) cho viết toa, vì khả năng làm bệnh nhân tuỳ thuộc vào thuốc (drug dependence) và thuốc được bán trên thị trường chợ đen để các sinh viên không mắc bệnh ADHD dùng vào mục đích bất hợp pháp như gia tăng khả năng học nhiều mà không biết mệt trước khi đi thi (tiếng lóng gọi là "steroids for SAT"), hay một số người nghiện chích vào tĩnh mạch hay hít vào mũi để tạo cảm giác mạnh. Một số thuốc khác không bị DEA kiểm soát vì không gây nghiện như atomoxetine (Strattera), cũng được dùng cho trẻ em và có dùng với kết quả ở thanh niên và người lớn.
Trên thực tế, như trong câu hỏi đặt ra ở đây, vị thính giả gặp nhiều khó khăn trong lúc làm việc và giao tiếp do chứng khó tập trung, khó chú ý kéo dài vào một đối tượng và khổ sở vì khiếm khuyết này, và đây là một lý do chính đáng để tìm đến sự giúp đỡ của bác sĩ chuyên về tâm lý (psychologist) hay tâm thần (psychiatrist) có kinh nghiệm trong việc chẩn đoán bệnh thiếu chú ý và quá năng động.
Nói tóm lại, một số trẻ em bị ADHD lúc trưởng thành vẫn còn bị căn bệnh này chi phối ít nhiều. Cần bác sĩ có khả năng khám và định bệnh cũng như chữa trị nếu ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống và nghề nghiệp. Chúng ta bàn đến đề tài này không có nghĩa chúng ta chẩn đoán bất cứ bệnh gì cho người đặt câu hỏi và can thiệp vào vấn đề điều trị của người đó. Cũng như mọi khi, các chẩn đoán và thuốc men nhắc đến đều hoàn toàn có tính cách thông tin. Thính giả phải rất dè dặt lúc dùng những thông tin trên, nhất là trong lĩnh vực bệnh tâm thần và thuốc men.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bệnh thiếu máu (Tiếp theo)

Bệnh thiếu máu là một bệnh khá thông thường. Ai trong chúng ta cũng từng biết một người bị bệnh thiếu máu. Tuy nhiên, thường có vài hiểu lầm khi ta nghe nói đến bệnh thiếu máu. 

Cần phân biệt giữa bệnh thiếu máu và bệnh huyết áp thấp. Huyết áp thấp là con số đo huyết áp không cao đủ như bình thường, thí dụ như ở người lớn, mức huyết áp trung bình là 120/80, người có huyết áp thấp chỉ đo khoảng 80/50... Còn bệnh thiếu máu là người bệnh không có đủ hồng huyết cầu khỏe mạnh để mang dưỡng khí đến các mô tế bào. Hồng huyết cầu là những tế bào hình tròn dẹp mầu đỏ, lưu chuyển trong dòng máu. Bệnh thiếu máu có rất nhiều loại, và thường là một triệu chứng của nhiều bệnh khác nhau, không đơn giản như đa số chúng ta thường nghĩ là thiếu máu thì cứ ăn nhiều thịt bò là hết.
Biến chứng
Bệnh thiếu máu nếu không được chữa trị có thể đưa đến những biến chứng sau:
- Mệt nặng: Bệnh nhân càng ngày càng mệt lả không làm việc hay chơi đùa được.
- Bệnh tim: Thiếu máu sẽ đưa đến nhịp tim đập nhanh hay thất nhịp. Tim phải làm việc nhiều hơn để đẩy máu đi, bù cho số dưỡng khí khiếm khuyết. Cuối cùng, tim có thể bị suy nặng.
- Thần kinh bị hư hoại: Do thiếu vit B 12.
- Tâm thần bị tổn hại: Do thiếu vitamin B 12.
- Tử vong: Một vài loại thiếu máu do di truyền - thí dụ như bệnh hồng huyết cầu lưỡi liềm – có thể rất nặng, gây ra cái chết. Mất máu quá nhiều cũng có thể đưa đến thiếu máu nặng và cái chết.
Định bệnh
Bác sĩ cần nhiều dữ kiện để định bệnh và tìm nguyên nhân: bệnh sử, khám nghiệm lâm sàng, thử máu. Thử nghiệm đếm máu toàn bộ CBC cho biết mực hồng huyết cầu và hemoglobin. Hồng huyết cầu còn được xem dưới kính hiển vi để định cỡ lớn, độ đỏ, hình dạng. Trong bệnh thiếu máu do thiếu chất sắt, hồng huyết cầu thường nhỏ và lợt hơn bình thường, trong bệnh thiếu vitamin B 12, hồng huyết cầu to hơn bình thường và rất ít.
Sau khi định bệnh thiếu máu, bác sĩ cần tìm ra nguyên nhân của bệnh, thí dụ như thiếu máu do thiếu chất sắt có thể do bệnh nhân bị mất máu từ vết loét bao tử, bướu lành trong ruột già, ung thư ruột già, thận suy... Do đó nhiều thử nghiệm cần được làm thêm. Đôi khi tủy xương cũng cần được khám nghiệm để tìm bệnh.

Chữa trị
Việc chữa bệnh thiếu máu tùy thuộc vào nguyên nhân
- Bệnh kinh niên: Muốn chữa thiếu máu, cần phải chữa các bệnh kinh niên. Chất sắt và các loại vitamins sẽ không chữa được chứng thiếu máu do các bệnh kinh niên gây ra. Tuy nhiên nếu thiếu máu quá nặng, có thể bệnh nhân sẽ được truyền máu hoặc chích thuốc chứa chất erythropoietin là kích thích tố từ thận tiết ra có nhiệm vụ tạo máu.
- Bệnh thiếu máu toàn diện: Bệnh nhân cần được truyền máu hoặc ghép tủy xương.
- Bệnh tủy xương: Chữa bằng thuốc, hóa chất trị liệu hay ghép tủy.
- Bệnh ly huyết (hemolytic anemia): Chữa bằng cách tránh những thuốc gây ra bệnh, dùng thuốc trị nhiễm trùng, uống thuốc chống miễn nhiễm vì hệ này đang tự tấn công các hồng huyết cầu trong máu người bệnh. Nếu lá lách quá lớn do chứa quá nhiều hồng huyết cầu bị hủy hoại, nó có thể phải bị cắt bỏ.
- Bệnh hồng cầu hình lưỡi liềm: Có thể cần rất nhiều phương pháp trị liệu nếu bệnh nặng, ngay cả ghép tủy xương.
Phòng ngừa
Đọc phần nguyên nhân thiếu máu trên, chúng ta có thể thấy nhiều loại thiếu máu không thể phòng ngừa được. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể tránh bị bệnh thiếu máu do thiếu chất sắt và vitamins bằng cách ăn uống lành mạnh, và ăn nhiều thức ăn khác nhau gồm có:
- Chất sắt: Nguồn cung cấp chất sắt tốt nhất là thịt bò và các loại thịt khác. Ngoài ra các loại thức ăn sau cũng chứa nhiều chất sắt: các loại đậu beans, lentils, ngũ cốc đã cho thêm chất sắt, các loại rau có lá mầu xanh đậm, trái cây khô, bơ đậu phọng và các loại hạt.
- Folate hay folic acid: Có nhiều trong nước cam chanh và các trái cây khác, chuối, rau có lá mầu xanh đậm, rau củ legumes, các loại ngũ cốc, bánh mì và pasta đã cho thêm folate.
- Vitamin B 12: Có nhiều trong thịt và sữa.
- Vitamin C: Các loại thức ăn chứa nhiều vitamin C như cam chanh, dưa, dâu... giúp hấp thụ chất sắt tốt.
Ăn những thức ăn chứa nhiều chất sắt rất quan trọng đối với những thành phần cần nhiều chất sắt thí dụ như trẻ em trong thời gian lớn vọt, đàn bà có bầu và đàn bà trong tuổi còn ra kinh. Trẻ nhỏ dưới 1 tuổi, người ăn chay thuần và người chạy đường trường là những người cũng rất cần ăn nhiều chất sắt.
Khuyến cáo về chất sắt uống thêm
Bác sĩ có thể cho toa mua thêm chất sắt cho những người cần nhiều chất sắt. Tuy nhiên chỉ nên uống thêm chất sắt khi thực đơn ăn uống hằng ngày không thể cung cấp đầy đủ chất sắt. Không nên tự ý uống thêm chất sắt mỗi khi thấy mệt. Dư chất sắt cũng là một bệnh rất nguy hiểm.
Khi nào cần bác sĩ chuyên về di truyền
Nếu bệnh sử gia đình có những chứng bệnh thiếu máu di truyền, thí dụ như hồng cầu hình lưỡi liềm, bạn nên cho bác sĩ biết để được giới thiệu đi gặp bác sĩ chuyên về bệnh di truyền. Bác sĩ này sẽ cho bạn biết nguy cơ mắc bệnh của bạn và nguy cơ truyền bệnh cho con cháu bạn.

BS Nguyễn Thị Nhuận