Sunday, April 29, 2018

Chứng hôi miệng


Ai trong chúng ta cũng từng gặp và nói chuyện với một người bị chứng hôi miệng, hoặc chính chúng ta cũng có lúc cảm thấy hơi thở mình không được thơm tho cho lắm, nhất là sau khi ăn hay ngay lúc ngủ dậy.
Không biết thì thôi nhưng khi ý thức được rằng mình bị chứng hơi thở hôi, người bị có thể cảm thấy lúng túng và trong một số trường hợp, có thể cảm thấy lo lắng. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi ta thấy trên các kệ bán hàng tràn ngập kẹo cao su, bạc hà, nước súc miệng và các sản phẩm khác được tạo ra để chống lại bệnh hơi thở hôi. Nhưng đa số những sản phẩm này chỉ là những biện pháp tạm thời vì chúng không giải quyết được nguyên nhân của bệnh.

Triệu chứng

Mùi hôi miệng có thể khác nhau, tùy thuộc vào nguồn gây ra bệnh hoặc nguyên nhân. Một số người lo lắng quá nhiều về hơi thở của họ mặc dù họ bị ít hoặc không có mùi hôi miệng, trong khi những người khác có hơi thở hôi mà lại không tự biết vì rất khó để tự đánh giá hơi thở của mình. Nếu nghi ngờ mình bị chứng hôi miệng, nên yêu cầu một người bạn thân hoặc người thân xác nhận các câu hỏi về hơi thở của bạn.
Nếu bị xác định là có hơi thở hôi, bạn hãy kiểm soát thói quen vệ sinh răng miệng của mình. Hãy thử thay đổi lối sống, chẳng hạn như luôn đánh răng và lưỡi sau khi ăn, sử dụng chỉ nha khoa và uống nhiều nước.
Nếu hơi thở hôi vẫn còn sau khi thực hiện những thay đổi như trên, hãy đến gặp nha sĩ của bạn. Nếu nha sĩ nghi ngờ là có một tình trạng nghiêm trọng hơn gây ra hôi miệng cho bạn, nha sĩ có thể giới thiệu bạn đến bác sĩ để tìm ra nguyên nhân gây ra mùi hôi.

Nguyên nhân

Hầu hết hơi thở hôi bắt đầu từ trong miệng của bạn, và có nhiều nguyên nhân. Chúng bao gồm:
 Vệ sinh răng miệng kém. Nếu bạn không đánh răng và dùng chỉ răng (floss) hàng ngày, các mảnh thức ăn còn lại trong miệng sẽ gây ra hơi thở hôi. Một màng bám dính không màu từ vi trùng (plaque) sẽ được tạo thành trên răng của bạn. Nếu không được chải đi, mảng bám này có thể gây kích ứng nướu và cuối cùng sẽ tạo thành các túi chứa mảng bám giữa răng và lợi (viêm nha chu). Lưỡi của bạn cũng có thể chứa vi trùng gây ra mùi hôi. Răng giả không được làm sạch thường xuyên hoặc không vừa vặn có thể chứa các vi trùng và các mảnh thức ăn gây mùi hôi.

 Khô miệng. Nước bọt giúp làm sạch miệng, loại bỏ những mảnh thức ăn dư gây ra mùi hôi. Một tình trạng gọi là chứng khô miệng (xerostomia) có thể gây ra hơi thở hôi vì việc sản xuất nước bọt bị giảm. Khô miệng tự nhiên xảy ra trong thời gian ngủ, dẫn đến "hơi thở buổi sáng", và nặng hơn nếu bạn ngủ mở miệng. Khô miệng mãn tính có thể là do có vấn đề ở tuyến nước bọt và một số bệnh khác.

 Nhiễm trùng trong miệng. Hôi miệng có thể gây ra bởi các vết thương sau khi giải phẫu miệng, chẳng hạn như nhổ răng, hoặc do sâu răng, bệnh nướu răng hoặc vết loét miệng.

 Các tình trạng miệng, mũi và cổ họng khác. Hơi thở hôi có thể xuất phát từ các mảnh đá nhỏ có trong hạch cổ (tonsils) và được bao phủ bởi vi trùng gây mùi hôi. Nhiễm trùng hoặc viêm mãn tính ở mũi, xoang hoặc cổ họng, có thể đóng góp vào chảy mũi phía sau (post nasal drips), gây ra hơi thở hôi.

 Thức ăn. Sự phân hủy các mảnh thức ăn trong và xung quanh răng có thể làm tăng vi trùng và gây ra mùi hôi. Ăn vài loại thực phẩm như hành, tỏi và gia vị cũng có thể gây ra hơi thở hôi. Sau khi bạn tiêu hóa các loại thực phẩm này, chúng sẽ nhập vào mạch máu của bạn, được mang vào phổi và ảnh hưởng đến hơi thở của bạn.

 Những sản phẩm thuốc lá. Hút thuốc gây ra mùi hôi miệng khó chịu. Người hút thuốc lá và người nhai thuốc lá cũng có nhiều nguy cơ bị bệnh nướu răng, một nguồn gây ra hơi thở hôi khác.
 Thuốc. Một số loại thuốc có thể gián tiếp tạo ra hơi thở hôi bằng cách gây ra khô miệng. Những thuốc khác có thể được tiêu hóa trong cơ thể và phóng ra các hóa chất mang trong hơi thở của bạn khiến có mùi hôi.
 Nguyên nhân khác. Bệnh tật, như một số bệnh ung thư, và các tình trạng như rối loạn chuyển hoá (metabolic), có thể gây ra mùi hôi đặc biệt do các hóa chất mà chúng tạo ra. Trào ngược dạ dày mãn tính (GERD) có thể có liên quan đến hơi thở hôi. Hơi thở hôi ở trẻ nhỏ có thể do một vật lạ, như một mẩu thức ăn, kẹt trong lỗ mũi.

Chẩn đoán

Nha sĩ của bạn có thể ngửi hơi thở từ miệng và từ mũi để đánh giá mức độ mùi hôi. Vì phần sau của lưỡi thường là nguồn gốc của mùi, nha sĩ của bạn cũng có thể cạo ra và đánh giá mùi của nó.
Có những máy dò tinh vi có thể xác định được các chất gây ra hơi thở hôi, nhưng không phải nơi nào cũng có được máy này.

Điều trị

Để giảm hơi thở hôi, hãy giữ cho đừng bị sâu răng và tránh nguy cơ bệnh nướu. Nên luôn giữ vệ sinh răng miệng tốt. Các điều trị khác có thể thay đổi tùy thuộc vào nguyên nhân. Nếu hơi thở hôi của bạn được cho là do tình trạng sức khoẻ nào đó, nha sỹ sẽ giới thiệu bạn với bác sĩ chính của bạn.

Đối với các nguyên nhân liên quan đến sức khoẻ răng miệng, nha sĩ của bạn sẽ làm việc với bạn để giúp bạn kiểm soát tình trạng đó tốt hơn. Các biện pháp nha khoa có thể bao gồm:

 Điều trị bệnh răng. Nếu bạn bị bệnh nướu răng, bạn có thể được giới thiệu đến chuyên gia về nướu răng (periodontist). Bệnh nướu răng có thể làm nướu răng bị kéo khỏi răng, tạo nên những túi chứa đầy vi trùng tạo mùi hôi. Đôi khi cần làm sạch răng một cách chuyên nghiệp mới loại được những vi trùng này. Nha sĩ của bạn cũng có thể khuyên bạn nên thay thế các thủ thuật phục hồi răng không đúng cách khiến tạo ra một vùng sinh sản cho vi trùng.

 Thuốc rửa miệng và kem đánh răng. Nếu hơi thở hôi của bạn là do sự tích tụ của vi trùng (mảng bám) trên răng, nha sĩ của bạn có thể đề nghị dùng thuốc rửa miệng giết vi trùng. Nha sĩ của bạn cũng có thể đề nghị một kem đánh răng có chứa chất kháng sinh để diệt vi trùng gây ra mảng bám.

Tự chữa

Để giảm hoặc ngăn ngừa hơi thở hôi:
 Đánh răng sau khi ăn. Giữ bàn chải đánh răng ở chỗ làm để sử dụng sau khi ăn. Chải bằng kem đánh răng có chứa chất fluoride ít nhất hai lần một ngày, nhất là sau bữa ăn. Kem đánh răng có chất kháng sinh đã được chứng minh là làm giảm mùi hơi thở hôi.

 Dùng chỉ nha khoa ít nhất mỗi ngày một lần. Sử dụng chỉ nha khoa loại bỏ các mảnh thực phẩm và mảng bám khỏi răng, giúp kiểm soát hơi thở hôi.

 Đánh lưỡi của bạn. Lưỡi của bạn chứa nhiều vi trùng, vì vậy đánh lưỡi có thể làm giảm mùi hôi. Những người có lưỡi phủ lớp trắng do vi trùng phát triển quá mức (do hút thuốc lá hoặc khô miệng) có thể nên dùng bàn nạo lưỡi hoặc sử dụng bàn chải đánh răng có kèm bộ phận nạo lưỡi.
 Rửa sạch răng giả hoặc dụng cụ răng. Nếu bạn có cầu răng hay răng giả, hãy rửa sạch chúng ít nhất một lần mỗi ngày hoặc theo chỉ dẫn của nha sĩ. Nếu bạn có một miếng giữ răng hoặc miếng bảo vệ miệng, hãy làm sạch nó trước khi đưa nó vào miệng. Nha sĩ của bạn có thể giới thiệu sản phẩm làm sạch tốt nhất.
 Tránh miệng khô. Để giữ ẩm miệng, tránh hút thuốc lá, và uống nhiều nước - không phải là cà phê, nước ngọt hoặc rượu, là những thứ có thể dẫn đến khô miệng hơn. Nhai kẹo cao su hoặc nút kẹo (không có đường) để kích thích ra nước bọt. Đối với chứng khô miệng mãn tính, nha sĩ hoặc bác sĩ của bạn có thể kê toa mua nước bọt nhân tạo hoặc một loại thuốc uống kích thích nước bọt.
 Điều chỉnh cách ăn uống của bạn. Tránh các thực phẩm như củ hành và tỏi có thể gây hôi miệng. Ăn nhiều chất ngọt cũng có liên quan đến hơi thở hôi.
 Thường xuyên thay bàn chải đánh răng mới. Nên thay bàn chải đánh răng của bạn khi nó bị sờn, khoảng ba đến bốn tháng một lần, và chọn bàn chải đánh răng có lông mềm.
 Khám răng miệng định kỳ. Thường xuyên gặp nha sĩ của bạn - thường là hai lần một năm - để kiểm tra và làm sạch răng hoặc răng giả của bạn.


BS Nguyễn Thị Nhuận

Ung thư dạ dày


Một trong những triệu chứng đầu tiên của ung thư dạ dày có lẽ là cảm giác đầy bụng khi ăn, dù chỉ ăn rất ít. Lần đầu tôi trực diện với bệnh ung thư dạ dày là ở một người bạn khá thân của nhà tôi. Khi anh đến tá túc vài ngày ở nhà tôi, anh hay từ chối lời mời xơi cơm vì không cảm thấy đói và lúc nào cũng thấy đầy bụng. Và dĩ nhiên là anh sút cân rất nhiều. Ung thư dạ dày được thấy rất nhiều ở người Á Đông, ở phái nam và những người hút thuốc nhiều.

Ung thư dạ dày thường bắt đầu ở các tế bào tiết chất nhầy của dạ dày. Loại ung thư này được gọi là adenocarcinoma. Có 2 nơi xảy ra ung thư: ung thư ở phần chính của dạ dày và ung thư ở chỗ nối thực quản và dạ dày. Trong vài thập niên qua, tỷ lệ ung thư ở phần chính của dạ dày đã giảm xuống trên toàn thế giới. Trong cùng thời kỳ, ung thư chỗ nối thực quản và dạ dày lại tăng nhiều. 

Nói chung, ung thư bắt đầu khi có một thay đổi đột biến xảy ra trong DNA của tế bào. Sự đột biến khiến tế bào phát triển và phân chia với tốc độ rất nhanh và tiếp tục sống khi một tế bào bình thường đáng lẽ đã chết. Các tế bào ung thư tích lũy tạo thành một khối u, có thể xâm chiếm các cơ quan gần đó. Và các tế bào ung thư có thể từ khối u lan truyền khắp cơ thể.

Ung thư chỗ nối thực quản bao tử có liên quan đến bệnh trào ngược dạ dày-ruột (GERD) và, ít hơn, với chứng béo phì và hút thuốc lá. GERD là một tình trạng gây ra bởi sự trào ngược thường xuyên của chất acid dạ dày vào thực quản.

Có sự liên quan mạnh mẽ giữa việc ăn các thực phẩm hun khói và tẩm muối với ung thư ở phần chính của dạ dày. Khi việc sử dụng tủ lạnh để bảo quản thực phẩm đã tăng lên trên khắp thế giới khiến người ta không cần dùng thủ thuật hun khói và ướp muối nữa thì tỷ lệ ung thư dạ dày này đã giảm.

Triệu chứng
Dấu hiệu và triệu chứng của ung thư chỗ nối dạ dày thực quản và ung thư dạ dày có thể bao gồm:
 Mệt mỏi
 Cảm giác đầy bụng sau khi ăn
 Cảm thấy no sau khi chỉ ăn một ít thức ăn
 Ợ nóng nặng, dai dẳng
 Lúc nào cũng bị khó tiêu nặng
 Luôn luôn buồn nôn, không giải thích được
 Đau bụng
 Ói mửa liên tục
 Giảm cân không có lý do

Các yếu tố rủi ro
Các yếu tố nguy cơ chính cho ung thư chỗ nối dạ dày thực quản là bệnh sử GERD và chứng béo phì.
Các yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư nơi phần chính của dạ dày bao gồm:
 Ăn nhiều thực phẩm mặn và hun khói
 Ăn ít trái cây và rau 
 Ăn thực phẩm bị nhiễm nấm aflatoxin
 Gia đình có tiền sử ung thư dạ dày
 Nhiễm vi trùng Helicobacter pylori
 Viêm dạ dày dài hạn
 Thiếu máu ác tính
 Hút thuốc
 Có bướu lành trong dạ dày (polyps)

Chẩn đoán
Các xét nghiệm và thủ thuật được sử dụng để chẩn đoán ung thư kết nối dạ dày thực quản và ung thư dạ dày gồm có
- Phương pháp nội soi dùng cách đưa một máy ảnh nhỏ từ thực quản vào dạ dày để nhìn thấy bên trong dạ dày và tìm kiếm dấu hiệu ung thư. Nếu thấy những khu vực nghi ngờ, bác sĩ có thể cắt một mảnh mô để phân tích (làm sinh thiết).
- Chụp hình cắt lớp vi tính (CT) và barium swallow (nuốt chất cản quang để chụp thấy dạ dày).

Xác định giai đoạn của ung thư
Xác định được giai đoạn của ung thư giúp bác sĩ quyết định cách điều trị nào tốt nhất cho bạn. Các xét nghiệm và thủ thuật được sử dụng để xác định giai đoạn ung thư bao gồm:
- Chụp hình CT và PET.
- Giải phẫu tìm kiếm. Bác sĩ có thể đề nghị giải phẫu để tìm xem có dấu hiệu ung thư đã lan rộng ra ngoài thực quản hoặc dạ dày không. Giải phẫu khám nghiệm thường được thực hiện bằng nội soi: bác sĩ tạo ra một số vết mổ nhỏ ở bụng và đưa một máy ảnh đặc biệt vào để truyền hình ảnh tới màn hình trong phòng giải phẫu.

Các giai đoạn ung thư 
Các giai đoạn ung thư adenocarcinoma của dạ dày hoặc thực quản bao gồm:
- Giai đoạn I. Trong giai đoạn này, khối u còn giới hạn ở lớp mô trên cùng lót bên trong của thực quản hay dạ dày. Các tế bào ung thư có thể đã lan đến một số ít hạch bạch huyết gần đó.
- Giai đoạn II. Ung thư ở giai đoạn này đã ăn sâu hơn vào lớp cơ bên dưới của thành thực quản hoặc thành dạ dày. Ung thư cũng có thể lan ra nhiều hạch bạch huyết hơn.

- Giai đoạn III. Ở giai đoạn này, ung thư có thể đã ăn qua tất cả các lớp của thành thực quản hoặc dạ dày và lan sang các cơ quan gần đó. Hoặc nó có thể là một loại ung thư nhỏ hơn và lan rộng đến các hạch bạch huyết.
- Giai đoạn IV. Giai đoạn này cho thấy ung thư đã lan ra các vùng xa.

Điều trị
Việc điều trị ung thư ở chỗ nối dạ dày thực quản hoặc ung thư dạ dày tùy thuộc vào giai đoạn tiến triển của ung thư, sức khoẻ tổng quát và chọn lựa của bạn.
-Giải phẫu
Ung thư chỗ nối dạ dày thực quản không lan rộng nên được giải phẫu để lấy đi phần thực quản hay dạ dày nơi có khối u. Mục tiêu của giải phẫu là để loại bỏ hết ung thư và một vòng mô còn tốt chung quanh, nếu có thể. Các hạch bạch huyết ở gần đó cũng được cắt bỏ.

Mục tiêu của giải phẫu chữa ung thư ngay trong dạ dày cũng là để loại bỏ hết ung thư và môt vòng mô còn tốt chung quanh, nếu có thể. Các chọn lựa gồm có:

- Cắt bỏ khối u của giai đoạn sớm khỏi lớp lót dạ dày. Các trường hợp ung thư rất nhỏ giới hạn ở lớp lót trong dạ dày có thể được cắt bỏ bằng cách sử dụng nội soi trong thủ thuật được gọi là cắt bỏ niêm mạc bằng nội soi. Máy nội soi là một ống có ánh sáng với một máy ảnh, được đầy qua cổ họng vào dạ dày. Bác sĩ sử dụng các công cụ đặc biệt để cắt bỏ ung thư và một vòng các mô tốt từ lớp lót dạ dày.
- Cắt bỏ một phần dạ dày. Bác sĩ cắt bỏ phần dạ dày bị ảnh hưởng bởi ung thư.

- Cắt bỏ toàn bộ dạ dày, bao gồm việc cắt đi toàn bộ dạ dày và một số mô xung quanh. Thực quản sau đó được nối trực tiếp với ruột non để thực phẩm di chuyển qua hệ thống tiêu hóa.
- Cắt bỏ các hạch bạch huyết trong bụng để tìm tế bào ung thư. 
- Giải phẫu để làm bớt triệu chứng. Cắt bỏ một phần dạ dày có thể làm giảm các dấu hiệu và triệu chứng của một khối u đang phát triển ở những người bị ung thư nặng. Trong trường hợp này, giải phẫu không thể chữa khỏi ung thư nhưng có thể làm bệnh nhân thoải mái hơn.

Giải phẫu có nguy cơ chảy máu và nhiễm trùng. Nếu tất cả hoặc một phần của dạ dày bị cắt bỏ, bệnh nhân có thể gặp vấn đề về tiêu hóa.
- Xạ trị
Xạ trị sử dụng các tia năng lượng cao, như tia X và proton, để diệt các tế bào ung thư. Các chùm tia năng lượng đến từ một chiếc máy di chuyển xung quanh bệnh nhân.
Trong ung thư chỗ nối dạ dày thực quản, cũng như ung thư của chính dạ dày, xạ trị có thể được sử dụng trước khi giải phẫu để thu nhỏ khối u khiến dễ cắt bỏ hơn. Xạ trị cũng có thể được sử dụng sau khi giải phẫu để tiêu diệt những tế bào ung thư còn lại trong khu vực quanh thực quản hay dạ dày.
Trong ung thư ở chỗ nối dạ dày thực quản, xạ trị và hóa trị thường được thực hiện cùng lúc (chemoradiotherapy), thường là trước khi giải phẫu.

Xạ trị dạ dày có thể gây tiêu chảy, khó tiêu, buồn nôn và nôn. Xạ trị thực quản có thể gây đau khi nuốt và khó nuốt. Để tránh tác dụng phụ này, có thể cần đặt ống cho thức ăn vào dạ dày qua đường rạch nhỏ ở bụng cho đến khi thực quản lành lại.
Trong trường hợp ung thư đã tiến xa, xạ trị có thể được sử dụng để làm giảm các phản ứng phụ do khối u lớn gây ra.

- Hóa trị
Hoá trị là dùng thuốc để diệt các tế bào ung thư. Thuốc hóa trị di chuyển khắp cơ thể, giết chết các tế bào ung thư có thể đã lan ra ngoài dạ dày.
Hoá trị có thể được cung cấp trước khi giải phẫu để giúp khối u nhỏ lại để dễ cắt bỏ hơn. Hoá trị cũng được sử dụng sau khi giải phẫu để diệt các tế bào ung thư có thể vẫn còn trong cơ thể. Hóa trị thường được kết hợp với xạ trị. Hóa trị có thể được sử dụng ở những người bị ung thư dạ dày đã tiến xa để giúp làm giảm dấu hiệu và triệu chứng.
Tác dụng phụ về hóa trị phụ thuộc vào loại thuốc nào được sử dụng.
-Thuốc mục tiêu
Đây là các loại thuốc tấn công đặc biệt các bất thường trong tế bào ung thư hoặc hướng dẫn hệ thống miễn dịch diệt tế bào ung thư (immunotherapy). Một số loại thuốc mục tiêu đang được nghiên cứu để điều trị ung thư chỗ nối dạ dày thực quản, nhưng chỉ có hai trong số những thuốc này - ramucirumab và trastuzumab - đã được chấp thuận cho việc sử dụng này.
Thuốc mục tiêu thường được sử dụng kết hợp với các loại thuốc hóa trị thường dùng. Các xét nghiệm tế bào ung thư có thể cho bác sĩ biết liệu các phương pháp điều trị này có hiệu quả không.

Chăm sóc hỗ trợ 
Chăm sóc hỗ trợ tập trung vào việc làm giảm đau và các triệu chứng khác của một căn bệnh nghiêm trọng. Các chuyên gia chăm sóc làm việc với bệnh nhân, gia đình họ và các bác sĩ khác của bệnh nhân để cung cấp thêm sự hỗ trợ cho sự chăm sóc liên tục. Chăm sóc giảm nhẹ (palliative) có thể được sử dụng trong khi điều trị tích cực, chẳng hạn như giải phẫu, hóa trị hay xạ trị. Khi chăm sóc giảm nhẹ được sử dụng cùng với tất cả các phương pháp điều trị thích hợp khác, người bị ung thư có thể cảm thấy khỏe hơn và sống lâu hơn. Chăm sóc giảm nhẹ được cung cấp bởi một nhóm bác sĩ, y tá và các chuyên gia được đào tạo chuyên biệt. Các nhóm chăm sóc giảm nhẹ nhằm mục đích nâng cao phẩm chất cuộc sống cho người bị ung thư và gia đình họ. Hình thức chăm sóc này được cung cấp cùng với phương pháp điều trị hoặc các phương pháp điều trị khác mà bạn có thể nhận được.

Các điều trị trong tương lai
Các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới đang nghiên cứu một số loại thuốc mới khai thác sức mạnh của hệ miễn dịch để loại bỏ ung thư - một phương pháp được gọi là liệu pháp miễn dịch. Các loại thuốc này hoạt động theo những cách phức tạp để làm cho hệ miễn dịch phản ứng với tế bào ung thư như thể chúng là những kẻ xâm lăng từ bên ngoài, chẳng hạn như vi trùng.

Đối phó và hỗ trợ
Bị chẩn đoán ung thư có thể làm cho bệnh nhân thấy choáng ngợp và sợ hãi. Một khi đã bắt đầu điều chỉnh sau cú sốc ban đầu về chẩn đoán của mình, bệnh nhân nên tập trung vào các cách giúp mình đối phó. Ví dụ: hãy thử:
 Tìm hiểu để có quyết định về sự chăm sóc của chính bạn. Xin bác sĩ viết ra các chi tiết của bệnh ung thư của bạn - loại, giai đoạn và các lựa chọn điều trị. Sử dụng những chi tiết này để tìm thêm thông tin về ung thư dạ dày và những lợi ích và rủi ro của mỗi phương pháp điều trị.
 Tiếp xúc với những người sống sót sau ung thư. Hỏi bác sĩ về các nhóm hỗ trợ trong khu vực của bạn. Hoặc truy cập trực tuyến và kết nối với những người sống sót ung thư trên bảng tin, chẳng hạn bảng tin do Hiệp Hội Ung Thư Hoa Kỳ điều hành.
 Vẫn giữ những hoạt động. Được chẩn đoán mắc bệnh ung thư không có nghĩa là bạn phải ngừng làm những điều bạn thích hoặc thường làm. Đối với phần lớn, nếu bạn cảm thấy đủ khỏe để làm một việc gì đó, hãy tiếp tục làm điều đó.

Phòng ngừa
Người ta không biết rõ nguyên nhân chính xác gây ra ung thư chỗ nối dạ dày thực quản hoặc ung thư dạ dày, vì vậy không có cách nào để ngăn chặn nó. Nhưng bạn có thể thực hiện các bước để giảm nguy cơ bằng các thay đổi nhỏ trong cuộc sống hàng ngày. Thí dụ:
 Tập thể dục. Tập thể dục thường xuyên có liên quan đến giảm nguy cơ ung thư dạ dày. 
 Ăn nhiều trái cây và rau củ hơn. Cố gắng kết hợp thêm trái cây và rau vào khẩu phần ăn của bạn mỗi ngày. Chọn nhiều loại trái cây và rau quả đủ màu sắc.
 Giảm lượng thức ăn mặn và hun khói. Bảo vệ dạ dày của bạn bằng cách giới hạn các loại thực phẩm này.
 Bỏ thuốc lá. Nếu bạn hút thuốc, hãy bỏ thuốc lá. Nếu bạn không hút thuốc, đừng bắt đầu. Hút thuốc làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày, cũng như nhiều loại ung thư khác. Ngưng hút thuốc lá có thể rất khó khăn, do đó nên yêu cầu bác sĩ giúp đỡ.
 Hỏi bác sĩ của bạn về nguy cơ ung thư. Nói chuyện với bác sĩ nếu bạn có nguy cơ mắc ung thư chỗ nối dạ dày thực quản hoặc ung thư dạ dày. Có thể bàn với bác sĩ dùng cách nội soi định kỳ để tìm các dấu hiệu của ung thư dạ dày.


BS Nguyễn Thị Nhuận


Chứng giật cơ do lo âu

1. Rối loạn lo âu (anxiety disorder)
Thường gặp nhất là rối loạn lo âu lan tỏa (generalized anxiety disorder). Về tâm lý, bịnh nhân thấy tinh thần căng thẳng, sợ sệt, khó tập trung, lo lắng. Về triệu chứng cơ thể (somatic complaints), một số lớn triệu chứng gây ra do bộ phận giao cảm của thần kinh thực vật kích thích mãn tính: tim đập nhanh, hồi hộp thở nhanh, tay chân mồ hôi , khó ngủ, mệt mỏi, khó sinh hoạt về tính dục. Ngoài ra còn sinh ra vòng lẫn quẩn: hồi hộp gây ra lo sợ đau tim, hồi hộp thêm, khó thở làm hoảng hốt, sợ chết, làm khó thở thêm.
Một trong những tiêu chuẩn định bịnh này là triệu chứng kéo dài hơn 6 tháng, triệu chứng đầu tiên xuất hiện khoảng 20-25 tuổi, nữ giới nhiều hơn nam giới một chút. Tuy nhiên người lớn tuổi cũng thường bị chứng rối loạn lo âu mà không được chẩn đoán , săn sóc.
Một số biểu hiện khác thường gặp của chứng rối loạn lo âu là:
-Những cơn khủng hoảng lo sợ với những triệu chứng dữ dội như đau, tức ngực, ngộp thở (panic attacks)
-Sợ đến chỗ trống trải hoặc đông người (agarophobia), chỉ thích ở nhà, tránh phải nói chuyện với đám đông,
-Sợ người ta nhìn mình, thấy mình ngớ ngẫn, phải xấu hổ (social phobia).

2. Tetany
Trong bịnh tetany , cơ bắp dễ bị kích thích , co lại, co giật hơn bình thường nên cũng gọi là spasmophily.Trong trường hợp người mạnh giỏi không có bịnh gì, tetany thường do chứng máu nhiễm kiềm do hô hấp (respiratory alkalosis).
Giải thích về respiratory alkalosis: bình thường trong máu chúng ta, độ acid-kiềm đo bằng chỉ số pH chừng 7.4. CO 2 ( carbon dioxide) là thán khí được các tế bào thải vào máu, tan trong máu, đến phổi thì được thải ra không khí bên ngoài lúc chúng ta thở ra.Tuy nhiên C02 là một acid nhẹ, lúc nào cũng cần một số lượng nhất định CO 2 trong máu để giữ pH máu ở mức quân bình.

Nếu người bịnh thở nhanh quá vì xúc động, sợ hãi, hay vì cố ý làm nư, lượng CO2 giảm quá thấp, làm máu thiếu acid, trở nên kiềm (pH tăng lên), làm cho Calcium (chất vôi) trong máu bám vào các protein. Nồng độ Calcium dưới dạng ion (ionized calcium concentration) và là thành phần calcium có hoạt tính bị giảm, làm cho các bắp cơ dễ co giật. Người bị tetany co rút bàn chân và bàn tay (carpopedal spasm), chụm các ngón tay lại với nhau như hình nụ hoa sen, giống như bác sĩ sản khoa chụm bàn tay lại để đỡ đẻ, nên gọi triệu chứng này là “bàn tay bác sĩ đỡ đẻ” (Pháp: main d’accoucheur). Ngoài ra, bịnh nhân chóng mặt, ngầy ngật, tê tay chân (paresthesia), tê chung quanh miệng. Chứng bịnh này được gọi là “hội chứng tăng thông khí cấp tính” (acute hyperventilation syndrome).

3. Chứng giật cơ (muscle twitching) do lo âu:
Một số cơ, nhóm hoặc nhiều nhóm cơ co giật không cố ý. Ngay cả khi người bịnh cố gắng thư giãn (relax), cơ co giật vẫn tiếp tục.
Có thể liên quan đến một cơ hoặc nhóm cơ đặc biệt, hoặc có thể ngẫu nhiên chuyển từ nhóm này sang nhóm khác. Cũng có thể bao gồm nhiều cơ hoặc nhóm cơ khác nhau cùng một lúc.
Co giật có thể xuất hiện trong một vài khoảnh khắc ngắn, kéo dài vài phút hoặc vài giờ hoặc kéo dài hàng ngày, hàng tuần hoặc không dứt. Nhiều khi, càng cố gắng nghỉ ngơi hoặc đi ngủ thì co giật lại tệ hơn. Co giật cơ cũng có thể dừng lại khi người bịnh nghỉ ngơi hoặc ngủ, rồi sau đó tiếp tục khi thức dậy.
Co giật có thể tồi tệ hơn khi stress tăng, nhưng không nhất thiết phải giảm đi ngay khi bớt stress. Người co giật cơ do lo âu, thứ nhất có những sợi cơ nhạy cảm, dễ co giật, thứ hai họ lại hay chú ý, lo lắng về những co giật đang xảy ra, thứ ba, càng chú ý, họ càng lo âu hơn, có người còn lo sợ những co giật nhẹ ở mí mắt, ở mặt là một điềm báo trước một chuyện xui xẻo nào đó, làm họ lo âu thêm. Dù trong ý thức họ không thấy lo, sự lo âu vẫn còn tồn tại trong tiềm thức và biểu hiện ra ngoài bằng những triệu chứng như co giật bắp cơ.
Triệu chứng này có thể ảnh hưởng đến bất cứ cơ hoặc nhóm cơ nào trong cơ thể, bao gồm cả ở đầu, mặt, mắt, miệng, cổ, vai, lưng, ngực, bụng, dạ dày, thực quản, háng, cơ quan sinh dục, cánh tay, chân, bàn chân, ngón chân, v.v
Nguyên nhân gây co giật cơ: Tình trạng lo âu đặt cơ thể trong một tình trạng báo động liên tục, kích thích quá độ. Hệ thần kinh là nơi điều khiển các cơ hay nhóm cơ gởi ra những hiệu lịnh (impulses, "xung") hỗn loạn, không chủ đích rõ rệt kích thích các cơ làm chúng co giật. Giảm tình trạng stress sẽ giúp loại bỏ những xung động hỗn loạn này.
Chữa trị :
Bác sĩ có thể dùng thuốc an thần giúp bịnh nhân bớt lo âu (antianxiety agents), giúp dễ ngủ (hypnotic agents). Bịnh nhân cần cẩn thận với liều lượng thuốc (vd loại benzodiazepin, thuốc an thần) của bs cho mình uống vì dễ xảy ra các phản ứng phụ như kích thích quá độ, ức chế hô hấp, quá liều có thể làm mê man, chết người, ngưng thuốc đột ngột có thể làm co giật, điên loạn psychosis), mê man, chết. Các thuốc benzodiazepin cũng ảnh hưởng qua lại (interaction) đến một số thuốc thuờng dùng như isoniazid, rifampin (trị lao), digoxin (trợ tim), levodopa (thuốc trị Parkinson), cimetidine/Tagamet (trị đau bao tử). Nhất là người già thường phải uống nhiều thứ thuốc để chữa nhiều bịnh khác nhau nên lại càng phải cho bs biết những thuốc mình đang uống và theo dõi kĩ lưỡng.
Một trong những thuốc bs có thể dùng lâu dài trị rối loạn do lo âu là thuốc chống trầm cảm, để tăng các chất truyền dẫn thần kinh [ neuro-transmitters] (serotonin, norepinephrin) trong não bộ vì nguồn gốc của bịnh nằm trong não bộ. Thường sau 2-4 tuần mới thấy hiệu nghiệm, cho nên phải hỏi bs cho kỹ, không được ngưng thuốc quá sớm hoặc đột ngột vì chưa thấy kết quả.
Một số thuốc như propanolol có thể ngăn chặn bớt các triệu chứng do kích thích thần kinh giao cảm như tim đập nhanh, hồi hộp,..
Ngoài ra bịnh nhân có thể chữa trị bằng tâm lý trị liệu, bằng cách sinh hoạt các nhóm người cùng bịnh , hoặc được sự giúp đỡ của các nhà lãnh đạo tôn giáo, thiền , tai chi.
Tetany: Bác sĩ thường khuyên cho bịnh nhân thở vào một cái bao giấy (túi giấy) để giảm sự mất mát C02. Tuy nhiên, có thể không lợi lắm vì đồng thời cũng có thể giảm lượng oxy vào phổi. Cho nên, tốt hơn hết, là khuyên giải, trấn an người bịnh, giải thích cho bịnh nhân hiểu là không có gì phải hoảng hốt, và cần thở chậm lại. Ngoài ra, vì tetany, đến một lúc, bịnh nhân sẽ thở chậm lại.
Ngoài ra, trong trường hợp hiếm hơn, tetany có thể do thiếu calcium, thiếu magnesium, suy tuyến phó giáp (làm giảm calcium trong máu, hypoparathyroidism), hoặc cường tuyến giáp (hyperthyroidism, làm giảm magnesium), vì vậy nếu có dịp nên đi khám bác sĩ, thử máu nếu cần.
Nếu là người ít khi ra ngoài nắng (nắng giúp cơ thể tạo nên vitamin D), ít ăn thức ăn có nhiều calcium (như yaourt/sữa chua, tàu hũ), có thể thiếu vitamin D và calcium, nên uống thêm
thuốc cung cấp calcium (chừng 1000 mg/ngày), vitamin D (chừng 600 IU [international unit, đơn vị quốc tế] /ngày (các viên thuốc bổ vitamin người lớn thường chứa 400 IU vitamin D)
nếu uống liều cao hơn cần hỏi bác sĩ để bảo tồn sức khỏe xương cũng như sức khoẻ tổng quát.

Ngoài những phương pháp thư giản tinh thần thông thường, nên thử những biện pháp cụ thể như sau:
  1. Thể thao, vận động: đi bộ, chạy bộ, làm vườn, mặc dù người mắc chứng lo âu đã thấy mõi mệt , không muốn vận động thêm. Vị thính giả ở đây 25 tuổi, hít đất 100 cái/ ngày, là một hoạt động cường độ cao. Nên để ý, nếu hít đất nhiều như vậy, thở ra vào nhanh, các cơ bắp mệt nhọc lại có thể làm cho chúng dễ giật hơn. Nên bàn với bs điểm này, hoặc tìm một hoạt động kéo dài hơn, cường độ thấp hơn, trong môi trường thư giản hơn, thoải mái với bạn bè, trong thiên nhiên, v.v.
  2. Tránh các chất kích thích như cà phê, soda (nước ngọt),
  3. Tránh các hoàn cảnh gây stress như xem phim giật gân, hồi hộp, chơ game bạo lực,đến những nơi nguy hiểm, hay làm mình bất an (khu phố không an toàn, xe cộ đông đúc), tránh cờ bạc, trò chơi may rủi.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Thursday, April 12, 2018

U bướu sản xuất prolactin

Prolactin: Ở dưới đáy não bộ của chúng ta có một tuyến yên (pituitary gland, hypophysis) lớn chừng bằng hạt đậu phụng (chừng 1 cm, nặng chừng ½ gram) nhưng rất quan trọng, và là "bá chủ" (master gland) của mọi tuyến trong cơ thể. Nó được bố trí trong một hốc xương hình giống như cái yên (ghế) kiểu Thổ Nhĩ Kỳ (sella turcica), nên gọi là tuyến “yên”. Nó tiết ra những hormon phụ trách rất nhiều cơ năng quan trọng: tăng trưởng, sinh dục (sex), các hoạt động biến dưỡng khác, cơ năng thận (vasopressin giữ nước lại trong cơ thể), co bóp tử cung (oxytocin). Nó điều khiển các tuyến như giáp trạng (thyroid) ở cổ, buồng trứng, dịch hoàn, vỏ thượng thận (adrenal cortex). Tuyến yên tiết vào dòng máu một hormon tên là prolactin có tác dụng kích thích sự tăng trưởng của vú và làm vú sản xuất sữa trong lúc và sau khi sanh. Tuy nhiên prolactin cũng tác dụng trên các tuyến sinh dục (gonad) cũng như gan và tuyến lâm ba (lymphoid).
Điểm này để giải thích tại sao, lúc chất prolactin tăng quá cao ngoài thời gian hậu sản, người bịnh lại có những triệu chứng đa dạng.
Prolactin máu cao (Hyperprolactinemia):
Người bịnh có prolactin cao đa số là do một u (bướu) tuyến (adenoma) của tuyến yên sản xuất prolactin (pituitary lactotroph adenomas producing prolactin); loại u này chiếm 40% của các u tuyến yên.
(Ở Mỹ, giải phẫu tử thi cho thấy 6-25% có u tuyến yên nhưng đại đa số chỉ nhỏ thôi, không gây triệu chứng. Trong 100 ngàn người mới có 14 trường hợp có triệu chứng, cần phải chữa.)
Có những trường hợp prolactin cao do một thuốc bịnh nhân dùng gây ra (ví dụ thuốc chữa bịnh tâm thần (antipsychotic, vd risperidone), thuốc trị trầm cảm, thuốc ma tuý (opioid), hay có trường hợp không giải thích được (idiopathic hyperprolactinemia).
Ở phụ nữ, trong đa số trường hợp, các triệu chứng như tắt kinh (amenorrhea), kinh nguyệt thưa thớt (oligomenorrhea) , cọng với vú chảy sữa (galactorrhea, sữa tự nhiên chảy, hay nặn ra sữa) làm người bịnh đi khám, và đa số những người này (75%) bị chứng prolactin cao.
Ở nam giới, triệu chứng xuất hiện trễ hơn, khó đoán hơn, và đa số u tuyến yên lớn hơn là ở phái nữ tuy đa số bịnh nhân u tuyến yên là phụ nữ.
Nam giới đến khám vì bịnh liệt dương (impotence, erectile dysfunction), mất thú vui nhục dục (libido), nhức đầu và mờ mắt (visual field defects) do tác dụng của u trên áp suất trong sọ và do u tuyến yên đè lên trên đường đi của hai thần kinh thị giác giao với nhau thành hình chữ X ngay phía trên tuyến yên (optic chiasma) (phía dưới não bộ). Bác sĩ thử máu sẽ thấy prolactin lên cao và chụp hình MRI có thể sẽ thấy u tuyến yên đè lên thần kinh thị giác (optic nerve). Đàn ông hiếm khi bị mang chứng vú lớn như vú phụ nữ (gynecomastia). Nếu u prolactin xảy ra trước tuổi dậy thì, người con trai lơn lên có hình dạng của thân thể phụ nữ với bộ phận sinh dục không phát triển (dịch hoàn teo).
Chữa thuốc
Đa số các u tuyến yên sản xuất prolactin không phải là ung thư. Chữa thuốc có tác dụng trên các thụ thể dopamine (cũng dùng chữa bịnh Parkinson) giúp cho u này teo nhỏ lại, mức prolactin trong máu giảm đi.
Bromocriptine (Parlodel) là thuốc phổ biến nhất, uống mỗi ngày. Cabergoline (Dostinex) mới hơn, đắt hơn và chỉ cần uống 2 lần/tuần, ít biến chứng hơn.
Pergolide bị ngưng dùng ở Mỹ vì làm tổn thương van tim.
Bác sĩ theo dõi mức prolactin trong máu xem có giảm không, theo dõi u tuyến yên bằng MRI, và có thể đo testosteron (hormon nam) có tăng lên về mức bình thường chưa nếu là bịnh nhân nam rối loạn về tính dục.
Trị liệu kéo dài 12-24 tháng , sau đó bác sĩ quyết định tiến hành hay không tuỳ trường hợp, tuỳ u to hay nhỏ, tuỳ theo bịnh nhân có phản ứng phụ nhiều hay ít. Chừng 1/6 bịnh nhân giữ được mức prolactin bình thường sau khi ngưng thuốc.
Các trị liệu khác: giải phẫu, xạ trị nếu cần thiết.
U tuyến sinh prolactin quá lớn đè lên trên phần còn lại của tuyến yên, làm giảm sản xuất các hormon khác phụ trách kích thích tăng trưởng (GH/growth hormone), các tuyến thượng thận (adrenocorticotropic hormone), tuyến giáp (TSH), dịch hoàn hay buồng trứng (LH, FSH), làm suy nhựoc các cơ năng này. Chữa thuốc làm u teo lại có thể đảo ngược các triệu chứng như khô âm đạo phụ nữ, bất lực nam giới, giảm ý muốn nhục dục (decreased libido), suy cơ năng tuyến giáp.
Tác dụng phụ Bromocriptin (theo WebMD):
  • Buồn nôn, nôn, chóng mặt, buồn ngủ, chóng mặt, mệt mỏi, táo bón, hoặc nhức đầu có thể xảy ra.
  • Một số người dùng bromocriptin ngủ quên trong các hoạt động hàng ngày thông thường của họ (chẳng hạn như điện thoại, lái xe). Trong một số trường hợp, bịnh nhân ngủ gục đột ngột. Tác dụng ngủ có thể xảy ra bất cứ lúc nào khi điều trị với bromocriptin, ngay cả khi đã dùng thuốc này trong một thời gian dài. Nếu cảm thấy buồn ngủ hoặc ngủ quên trong ngày, không lái xe hoặc tham gia các hoạt động có thể nguy hiểm khác cho đến khi thảo luận về hiệu ứng này với bác sĩ. Nguy cơ về hiệu ứng gây buồn ngủ này cao hơn nếu uống rượu hoặc các loại thuốc khác có thể làm buồn ngủ.
  • Thuốc này có thể làm tăng hoặc giảm huyết áp. Giảm huyết áp thường xảy ra khi lần đầu tiên bắt đầu dùng thuốc, khi liều thuốc tăng lên, hoặc khi ngồi dậy đột ngột. Tác dụng này có thể gây chóng mặt, chóng mặt và ngất xỉu. Để giảm thiểu nguy cơ chóng mặt và chóng mặt, hãy đứng dậy chậm khi đứng từ vị trí ngồi hoặc nằm.
  • Liên lạc với bác sĩ ngay nếu có phản ứng phụ nghiêm trọng, bao gồm: đau lưng, sưng chân / mắt cá / chân, dấu hiệu vấn đề về thận (như thay đổi lượng nước tiểu); chảy nước mũi dai dẳng; đau bụng trầm trọng, táo bón; phân có máu; nôn mửa chất đen giống như bã cà phê; lạnh, tái xanh, tê tay chân; thay đổi về tâm thần / tâm trạng (như lo lắng, lú lẫn, ảo giác, bồn chồn); cơn thôi thúc bất thường ( “strong urges”, chẳng hạn như hăng máu cờ bạc, tình dục); nhịp tim chậm / nhanh / không đều.
  • Phản ứng phụ nghiêm trọng, bao gồm: nhức đầu nghiêm trọng hoặc dai dẳng, động kinh; nói khó khăn; suy nhược một bên cơ thể; thay đổi thị lực (giảm thị lực); đau ngực / hàm / tay trái; khó thở.
  • Phản ứng dị ứng rất nghiêm trọng với bromocriptin rất hiếm. Tuy nhiên, khám bác sĩ ngay nếu thấy bất kỳ triệu chứng nào của phản ứng dị ứng nặng, bao gồm: phát ban, ngứa / sưng (đặc biệt là mặt / lưỡi / cổ họng), chóng mặt nghiêm trọng, khó thở.
Tất cả thông tin trên đây có tính cách giúp chúng ta cùng học hỏi một vấn đề thú vị của sức khoẻ và bịnh tật nói chung. Bịnh nhân tuyệt đối cần tuân theo mọi hướng dẫn của chuyên viên điều trị của mình. Chúng ta không biết chính xác một cá nhân nào đó có bịnh gì và không can thiệp vào trường hợp cá biệt.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Mất kiểm soát tiểu tiện sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt

Tuyến tiền liệt (prostate) là một tuyến ngoại tiết của bộ phận sinh dục nam, tuy nhiên gần đây người ta cũng đăt tên lại cho một số tuyến tương tự ở phái nữ là tuyến tiền liệt nữ (female prostate).
Ở phái nam, tuyến nằm dưới và nằm ngay trước ngõ nước tiểu đi ra của bàng quang (bọng đái, bladder), từ đó được đặt tên khoa học là prostate, có nghĩa là “đứng [pro] trước [stat], giữ cửa”, từ tiếng Việt tiền liệt cũng theo nghĩa đó. Trước đây, chúng ta còn gọi là “nhiếp hộ tuyến”. Tuyến tiết vào tinh dịch (semen) một số thành phần giúp nuôi dưỡng các tinh trùng.
Tuyến tiền liệt bao quanh, ôm lấy niệu đạo (urethra) là ống dẫn nước tiểu thoát ra từ bọng đái, Nếu tuyến lớn quá (phì đại, hypertrophy), hoặc có ung bướu, tuyến có thể bóp nghẽn đường đi ra của nước tiểu và làm khó tiểu hoặc bí tiểu.
Ở Mỹ, trong năm 2015 có chừng 220.000 người được định bịnh ung thư tiền liệt. Chừng 40% sẽ chọn giải phẫu. Sau khi mổ cắt bỏ bướu tiền liệt, bịnh nhân không ít thì nhiều mất kiểm soát đường tiểu (urinary incontinence) của mình, không nín được tiểu theo giờ giấc, ý muốn của mình, tuỳ theo báo cáo mức bị són tiểu sau phẫu thuật cắt bỏ tiền liệt (Post-prostatectomy Incontinence/PPI) là 5-72%, số liệu thay đổi nhiều vì định nghĩa PPI không thống nhất. Các phương pháp phẫu thuật mới dùng "robot" (robotic surgery) ít xâm phạm hơn là phương pháp mở (open surgery) và gây ra PPI ít hơn (vd từ 7-40 % xuống còn 4-31%)(1).
Hai nguyên nhân chính của sự mất kiểm soát này; một số trường hợp gồm cả hai nguyên nhân. Bác sĩ niệu khoa đo áp suất trong đường tiểu bịnh nhân (urodynamics=niệu động học) để xác định nguyên nhân.
1) Bọng đái (là một loại cơ/muscle) co thắt (spasm) quá nhiều, quá nhạy cảm , tạo áp suất cao trong bọng đái, thúc dục đẩy nước tiểu ra quá sớm.
2) Cơ vòng (urinary sphincter) bao quanh cỗ bọng đái bị hư hại trong khi mỗ, và không còn giữ nổi nước tiểu lúc áp suất dâng cao như lúc bịnh nhân ho, rặn,cười, làm việc nặng.
Nếu nguyên nhân chính là bọng đái co thắt quá nhiều, bác sĩ có thể:
1) dùng thuốc làm bọng đái “relax”, ‘thư giãn” bớt. Thuốc thường dùng là Ditropan XL, Detrol LA, là những thuốc bào chế đặc biệt, để chỉ cần uống một lần mỗi ngày. Vì thuốc chống hệ thần kinh đối giao cảm (chống cholin, anticholinergic) nên có thể gây khô miệng, bón, mờ mắt,; đặc biệt những người bị cườm nước (glaucoma) không được dùng. Oxytrol patch (thuốc dán) có tác dụng tương tự, thuốc đi qua da, vào máu, mỗi tuần thay 2 lần, ít phản ứng phụ hơn thuốc uống.
2) InterStim “bladder pace maker” chạy bằng pin gắn dưới da mông, máy gởi dòng điện vào dây thần kinh điều khiển bọng đái, kích thích bọng đái và làm cho nó ‘thư giãn”.
Nếu nguyên nhân là cơ vòng cỗ bọng đái bị thương tổn, bs niệu khoa có thể dùng:
Dùng cơ vòng nhân tạo (artificial urinary sphincter, AUS) bọc chung quanh niệu đạo, nếu muốn tiểu bịnh nhân điều khiển AUS bằng cách bóp một cái bơm để trong bìu dái (scrotum), cái bơm này làm AUS mở ra.
Male sling procedure: bs lấy một giải làm bằng mô kết của xác chết (cadaveric connective sling), gắn từ phải qua trái, đè lên phía dưới niệu đạo bịnh nhân, sling được gắn vào hai bên xương chậu.
Một công bố trong tạp chí y khoa JAMA của Hội Y Khoa Mỹ (Patricia Goode, University of Alabama-Birmingham, Jan 12, 2011)(2), tường trình về kết quả khả quan của những phương pháp trị liệu tập tính (behavioral therapy) kéo dài 8 tuần ở 208 người đàn ông bị chứng mất kiểm soát tiểu tiện sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt. Bịnh nhân được dạy cách tập các bắp cơ ở sàn xương chậu (pelvic floor), tập nín tiểu, không uống cà fê (cà fê làm tiểu nhiều) và phân phối nước uống thành nhiều phần nhỏ trong ngày (để nước tiểu được taọ ra điều hoà trong ngày), không uống quá nhiều nước. Sau tám tuần tập luyện, và ngay cả lúc theo dõi sau một năm, kết quả cho thấy những lần són tiểu giảm đi chừng 50%.
Tập cơ sàn chậu: đây là những cơ được vận dụng, ‘nhíu” lại lúc người bịnh cố nín tiểu và nín trung tiện, không nên lầm lẫn với cơ bụng và cơ mông. Có thể tập ở tư thế nào cũng được.
Hai loại động tác: co nhanh (quick contraction) và co chậm (giữ lâu, nín 10 giây đồng hồ, slow contraction). Bắt đầu: 10 co nhanh x 3 sets, 10 co chậm x3 sets, hai lần/ ngày, tăng dần đến 15 co nhanh x 3 sets + 15 co chậm x 3 sets, làm 3 lần/ngày.
Tóm lại, bịnh nhân có thể tham khảo với bs để tìm hiểu thêm về những biện pháp đơn giản có thể giúp ích ít nhiều, nhất là tập các bắp cơ sàn xương chậu, và về những thuốc làm thư giãn cơ bàng quang nếu bs thấy có thể có ích trong trường hợp của mình.
Bác sĩ Hồ văn Hiền

Bịnh co thắt cơ mí mắt (blepharospasm)

Mắt chúng ta có mí trên và mí dưới. Một số cơ phụ trách nhắm mắt (protractors: orbicularis oculi, corrugator, and procerus muscles) và một số cơ phụ trách mở mắt (retractors). Hai nhóm này hoạt động đối nghịch chiều với nhau, khi nhóm này co thì nhóm kia giãn ra, hoặc ngược lại. Cảm giác nhận từ mắt đi vào não bộ trung ương, và tín hiệu xuất phát theo dây thần kinh số 7 (thần kinh mặt, facial nerve) ra lịnh cho các cơ nhắm mắt co vào.
Có lẽ rối loạn gốc nằm ở các phần nằm sâu trong não bộ gọi là "nhân cơ bản" (basal ganglion, nucleus basalis) điều tiết các vận động có ý thức cũng như một số vận động theo thói quen như tật nghiến răng teeth grinding, bruxism), chớp mắt. Lúc cơ chế này hoạt động không nhịp nhàng (defective circuit), mức quân bình các lực giữa các cơ quanh mắt bị rối loạn (dystonia), và người bịnh sẽ cảm thấy một vùng nào đó hay nhiều vùng trong một hoặc hai mí mắt co, giật, hoặc co quắp lại không phải lúc, và chúng ta gọi là bịnh co quắp mí mắt (blepharospasm: blepharo= mí mắt, spasm: co quắp, co thắt).
Đa số không có nguyên nhân rõ rệt ( BEB: Benign Essential Blepharospasm).
Tuổi thường gặp là 50-70, đàn bà nhiều gần gấp đôi đàn ông.
Triệu chứng:
Lúc đầu có thể chỉ là mắt chớp nhanh hơn, thấy giật mí mắt, cảm giác co bóp (eyelid spasm), hay giật giật mí mắt (eye tic) không kiểm soát được. Có thể giật ở vùng giữa mặt hoặc vùng dưới mặt.
Bịnh nặng có thể làm bịnh nhắm mắt chặt lại, khó mở mắt ra, hoặc mở mắt ra thì đau nhức, nhất là nhìn lên phía trên. Bịnh nhân có thể tránh xem tivi, đọc sách vì khó chịu hay đau. Mắt có thể khô, khó chịu lúc ra ánh sáng, và bác sĩ có thể định bịnh lầm là bịnh dị ứng mắt, bịnh khô mắt vì thiếu nước mắt (dry eyes).
Bịnh nhân có thể dễ chịu hơn sau khi ngủ một giấc, thư giản, nhìn xuống, hát, nói hay humming (hát hư hư không ra lời).
Một số thuốc bịnh nhân dùng liên hệ với chứng này, ví dụ: thuốc chữa Parkinson; lúc bịnh nhân ngưng thuốc an thần.
Chữa trị:
Mang kính mát (màu xám/gray) chặn các tia cực tím, làm giảm bịnh mắt đau do nhạy cảm với ánh sáng (oculodynia due to photosensitivity).
Đội nón che nắng. Tránh stress, giảm stress.
Tập trung vào một việc gì đó như đan, may, làm vườn, nấu ăn (nhìn xuống làm đỡ triệu chứng hơn). Có thể thử hút gió, hát, “humming”, đàn. Một số người giảm triệu chứng tạm thời nếu uống diphenhydramine (Benadryl).
Chữa các bịnh về mắt như viêm các phần khác nhau của mắt nếu có ( vd:viêm mí mắt/blepharitis), khô mắt , dị ứng mắt.
Thuốc men: thường không hiệu nghiệm lắm vì thuốc tác dụng trên não bộ trung ương, nên cơ chế tác dụng chưa hiểu rõ. Những thuốc như thuốc chống trầm cảm ba vòng (tricyclic antidepressant), thuốc an thần như lorazepam, clonazepam; thuốc chống spasm dùng trong bịnh Parkinson (Artane). Thuốc men chỉ hiệu nghiệm chừng 15% trường hợp, theo Viện Mắt của Mỹ.
Chích botulinum A toxin (Botox) là biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Thuốc do một con vi khuẩn sản xuất, chích vào cơ liên hệ làm gián đoạn truyền dẫn thần kinh từ dây thần kinh qua cơ và làm cho cơ tê liệt. Thông thường dùng với mục đích thẩm mỹ, xoá các vết nhăn trên mặt. Trong trường hợp này cơ làm giật mi mắt không giật nữa. Sau 2-3 ngày, bịnh nhân cảm thấy thuyên giảm. Thuốc tác dụng tối đa sau 5-7 ngày, được vài tháng (6-9) thì hết hẳn tác dụng, thường vài tháng phải chích lại ngăn chặn co giật tái xuất hiện.
Trường hợp hiếm hơn, nếu Botox không hiệu nghiệm trong một số trường hợp mắt đau nhiều, khó mở ra bác sĩ có thể cắt bỏ (myomectomy) một số cơ nhỏ phụ trách nhắm mắt (protractor muscles).
Cần tìm đến bác sĩ có kinh nghiệm dùng độc tố botulinum. Sau đây là cảnh báo về loại thuốc này (Black Box Warnings):
Sự lan toả xa của tác dụng độc tố (Distant spread of toxin effect). Các sản phẩm chứa độc tố botulinum có thể lan từ vùng tiêm để sinh ra các triệu chứng phù hợp với các ảnh hưởng độc tố botulinum ví dụ như suy nhược, suy nhược toàn bộ các cơ, thấy một thành hai (diplopia), thị lực mờ (blurred vision), sụp mí mắt (ptosis), khó nuốt, khó nói thành tiếng (khó phát âm, nói khào khào; dysphonia), nói đớ (loạn vận âm, dysarthria), són tiểu, suy hô hấp.

Những triệu chứng này từng đã được báo cáo vài giờ đến vài tuần sau khi tiêm thuốc.

Khó nuốt và khó thở:
Có thể đe dọa tính mạng, và đã có báo cáo về các trường hợp tử vong.

Nguy cơ lớn nhất ở trẻ em được chích thuốc này điều trị tình trạng co rút (spasticity).

Cũng có thể xảy ra ở người lớn, đặc biệt ở những người có các bịnh làm cho họ dễ bị khó thở, khó nuốt hơn (ví dụ bệnh thần kinh vận động ngoại vi, "xơ cứng cột bên teo cơ" (ALS), hoặc các rối loạn về điểm nối thần kinh với cơ (myasthenia gravis, hội chứng Lambert-Eaton).
Một phẫu thuật khác là làm gián đoạn các dây thần kinh giao cảm (sympathetic nerve fibers) đi vào mắt (superior cervical ganglion block) vì các dây này phụ trách đem về não bộ những cảm giác bất bình thường từ mắt (từ đó gây ra phản ứng bất bình thường là co giật các cơ mi mắt).
Những trường hợp bịnh nhân từ chối giải phẫu và chích botox không giải quyết được (phải chích vài tháng một lần, đắt tiền), một số bác sĩ dùng phương pháp dùng từ đầu thế kỷ thứ 20 là chích alcohol vào đường đi dây thần kinh và cơ quanh mắt. Có thể gây biến chứng như méo mặt, nhắm mắt không chặt.
Xin nhắc lại tất cả các nhận xét trên chỉ có tính cách thông tin tổng quát. Bịnh nhân cần được bác sĩ riêng khám cho mình và có quyết định cần thiết.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Mụn trứng cá (Acne)

Mụn trứng cá là những vết sần trên mặt. Những chân lông có nang lông (hair follicle) sản xuất ra sợi lông và các tuyến sản xuất ra chất nhờn (sebum). Nơi đây xảy ra những hiện tượng như sản xuất chất sừng quá nhiều (hyperkeratinization), viêm, gây ra những vết sần (papules), những mụn sưng gọi là comedo.
Comedo (số nhiều/plural: comedones) là những nang lông bị các tế bào chết và chất nhờn làm tắt nghẽn . Comedo trắng (white comedo, whitehead) lúc chưa tiếp xúc với phía ngoài, còn đóng lại. Lúc hở ra ngoài không khí, trở thành comedo đen (black comedo, blackhead) do melanin, không phải chất dơ bẩn. Nhiễm trùng với vi khuẩn Propionibacterium acnes gây ra những mụn mủ (pustules); mô liên kết phát triển quá mạnh gây ra những mụn phì đại (hypertrophic nodules).
Thường xảy ra ở người trẻ trong và sau thời kỳ dậy thì, cũng có ở người lớn. Bịnh dai dẳng và tái đi tái lại. Ở Mỹ, chừng 50 triệu người mắc bịnh mụn trứng các, đến 85% các teenager mắc bịnh và mỗi năm nền y tế chi phí hết 3 tỷ đô la cho bịnh này.
Mặc dù bịnh không gây hậu quả trầm trọng, vấn đề thẩm mỹ là chính, đôi khi có thể làm cho thanh thiếu niên trầm cảm, gây rối loạn về giao tiếp xã hội, ngoài ra có thể để lại thẹo lâu dài trên mặt. Trường hợp vị thính giả đặt câu hỏi, nặn mụn, rạch mụn không đúng cách, hay không cần thiết, có thể gây nhiễm trùng, có thể nguy hiểm đối với vùng quanh mũi, vì nhiễm trùng có thể lan vào các tĩnh mạch trong hộp sọ.
Mụn trứng cá xảy ra lúc dậy thì, bắt đầu tuổi thanh thiếu niên, có nhiều nguyên nhân gây ra: ở nam cũng như nữ, lúc này các hormon nam giới tăng lên nhiều. Trong cơ thể phụ nữ, có các "male hormones này ( vd. testosterone, androstenedione), do buồng trứng, tuyến thượng thận (adrenal glands) và các tế bào mỡ tiết ra, và cần thiết cho cơ năng hệ sinh dục, xương, gan, thận, các cơ bắp. Phần lớn hormon nam này sẽ được chuyển hoá thành hormon nữ (estrogen). Tuy nhiên nếu các hormon nam này được sản xuất nhiều quá, người con gái có thể bị mụn trứng cá nặng, mọc râu nhiều trên mép và dưới cằm (hirsutism), hói đầu theo dạng đàn ông (male balding pattern). Nặng hơn có thể tắt kinh, mập, tiểu đường , buồng trứng có nhiều nang, kèm theo quá nhiều lông và râu (polycystic ovary syndrome/ hay PCOS).
Ngoài ra, có mụn trứng cá hay không, nhiều hay ít còn tuỳ vào yếu tố di truyền, dinh dưỡng.
Có vẻ các thức ăn ngọt hay chứa chất đường hay tinh bột hấp thụ nhanh (có chỉ số đường máu cao, high glycemic index carbohydrates), cũng như sữa bò, nhất là sữa “skim milk” làm cho dễ bị mắc mụn trứng cá hơn. Nên rửa mặt sau khi ăn các món có dầu nhớt như pizza, đồ chiên xào. Nên gội đầu mỗi ngày vì chất nhờn từ da đầu xuống mặt làm nghẽn các nang lông, râu.
Bác sĩ có thể lấy các comedo bằng cách dùng “round loop extractor”, chemodermabraison bằng hoá chất, dùng laser làm giảm sản xuất các chất nhờn và giết vi khuẩn dưới da mà không huỷ hoại phần trên.
Tuy nhiên, phần chính và hiệu nghiệm hơn cả là chữa bằng thuốc men. Chữa trị mụn trứng cá tuỳ theo mức độ bịnh nặng nhẹ. Xếp loại bịnh chưa thống nhất, tuy nhiên chúng ta có thể tóm tắt như sau:
1) Mụn trứng cá nhẹ: chiếm 1/4 mặt, có ít nhiều nốt sần (papules), vài mụn mủ (pustules), nhưng không mụn phì đại (nodules), không có thẹo.
Những chất gọi là acid của vitamin A dùng khu trú (vitamin A acids, topical retinoids, ví dụ tretinoin (Retin-A, Avita, Renova), adapalene (Differen, OTC), tazarotene, isotretinoin (không dùng ở Mỹ) . (FDA chấp thuận cho bịnh nhân trên hoặc 12 tuổi).
Azelaic acid 20% có tác dụng chống vi khuẩn, giảm các comedone đầu đen, giảm viêm, dùng cho các da nhạy cảm và làm tẩy các vết nám sau khi bị mụn (do tác dụng trên tế bào sản xuất sắc tố melanin; azaleic acid, trích từ các mễ cốc (grain) và men (yeast) cũng được dùng trong các mỹ phẩm làm cho da trắng hơn).
Benzoyl peroxide là một thuốc dùng để rửa mặt bị mụn trứng cá, làm da khô và lột da (peeling) có tác dụng sát trùng mà vi khuẩn không lờn thuốc như trường hợp kháng sinh. ( Benzoyl peroxide còn được dùng để tẩy màu tóc, răng). Các dạng gel, cream (thoa), liquid (nước rửa), nồng độ từ 2,5%. 5%, 10%. Các nồng độ cao có thể cần toa bác sĩ ở Mỹ.
Các kháng sinh thoa da (topical antibiotics) như Eythromycine 2%, Clindamycin 1% cũng được dùng, với tác dụng diệt vi khuẩn và giảm viêm, tuy nhiên cần kết hợp với 2 thứ thuốc trên; nếu dùng một mình dễ làm vi khuẩn lờn thuốc. Nếu cần có thể kết hợp cả 3 thuốc trên.
Một số thuốc như Benzamycin topical (gel, 5% benzoyl peroxide + 3% erythromycin), Duac ( Benzoyl Peroxide-Clindamycin Topical) kết hợp benzoyl peroxide với một kháng sinh.
2) Mụn trứng cá trung bình: hết nửa mặt, có nhiều nốt sần, nốt mụn mủ, vài nốt mụn phì đại, vài vết thẹo.
Chữa trị bằng cách kết hợp 2-3 thuốc thoa/rửa nói trên, cọng với kháng sinh uống như Tetracycline, Minocycline, Doxycycline (thường dùng lâu nhiều tháng).
Nếu cần, riêng cho phụ nữ, dùng thêm thuốc ngừa thai kết hợp (Combined Oral Contraceptive FDA chấp thuận norgestimate hay norethindrone acetate + ethinyl estradiol) để giảm tác dụng của androgen/hormon nam hiện diện trong cơ thể phụ nữ gây ra những dấu hiệu nam hoá khác như nhiều lông, râu), spironolactone, là một chất lợi tiểu tác dụng giảm ảnh hưởng của các chất androgen, với cơ nguy nhỏ làm mức kali (potassium) trong máu tăng cao).
Trường hợp không khỏi, có thể nghĩ đến loại isotretinoin uống (Accutane, Soft gelatin capsules) Thuốc này có khả năng gây quái thai nếu người phụ nữ uống trước khi có thai hay trong lúc có thai. Bịnh nhân cần được bs chuyên khoa da giải thích rỏ ràng về phản ứng phụ này, bs phải bảo đảm bịnh nhân không có bầu lúc dùng thuốc và bịnh nhân được ngừa thai với hai phương pháp khác nhau, cùng một lúc.

Bịnh nhân phải ký giấy xác nhận mình hiểu tin tức về thuốc và đồng ý (Patient Information/Informed Consent, iPLEDGE on line). Người phụ nữ có bầu cũng không nên tiếp xúc với viên thuốc vì bột thuốc có thể hấp thụ qua da.
Không được hiến máu một tháng sau khi ngưng thuốc. Trong 6 tháng không được lột da mặt, dùng laser lột da mặt vì có thể gây ra thẹo.
3) Mụn trứng cá nặng: chiếm 3/4 mặt, có nhiều nốt sần, mụn mủ, nốt phì đại nodules, thẹo.
Bắt đầu ngay bằng kháng sinh uống . Có thể kết hợp hết các thuốc thoa kể trên. Thay đổi kháng sinh uống nếu cần. Lựa chọn cuối cùng là dùng thêm isotretinoin uống, theo hướng dẫn sát sao của bác sĩ chuyên môn. Nên nhớ ngoài khả năng gây quái thai, isotretinoin có rất nhiều phản ứng phụ: da khô, niêm mạc khô, chảy máu mũi, viêm kết mạc loại khô mắt, đục giác mô, sưng đáy mắt (papilledema) cơ bắp (đau bắp thịt), xương, phát triển xương không bình thường, gan, tuỳ tạng, tâm lý (trầm cảm), tính dục : giảm libido, bất lực (Erectile Dysfunction).
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bịnh áp huyết cao, lo âu, và thoái hoá cột sống cổ

1) Áp huyết chúng ta đo thông thường là áp huyết trong động mạch cánh tay (brachial artery), và bình thường có 2 con số : áp huyết lúc thu tâm (systolic blood pressure , SP) đo lúc tim đang bóp lại cho máu phọt ra (systolic ejection); áp huyết lúc trương tâm (diastolic pressure, DP) là lúc hai tâm thất đang giãn ra (diastole) để nhận máu vào từ 2 tâm nhĩ. Người lớn, SP dưới 120 mmHG (thuỷ ngân), DP dưới 80.
2) Hồi hộp, lo sợ, kích thích do tuyến nội tiết (ví dụ tuyến giáp làm việc quá nhiều, tuyến thượng thận tiết chất epinephrine/ norepinephrine quá nhiều) làm tim đập nhanh hơn, mạnh hơn, mạch máu co lại có thể làm áp huyết tăng trong một thời gian.
3) Áp huyết có thể cao hơn vì vừa uống thuốc, nước uống có chất kích thích như cà phê, trà, thuốc cường dương, thuốc ho có chất kích thích, co mạch máu như pseudoephedrine, phenylephrine, sau khi tập thể thao nặng nhọc, lúc xúc động, sợ sệt lo âu. Nếu áp huyết lên xuống thất thường, nên đo lại nhiều lần cách nhau chừng 30 phút (đo lại ngay không đúng, vì mạch máu vừa bị bóp mạnh vào); bác sĩ có thể theo dõi bằng máy đo mang theo trong người để đo áp huyết 15-30 phút một lần trong 24 giờ (24 hour ambulatory blood pressure monitoring-ABPM). Bịnh nhân ghi chép những chuyện xảy ra trong ngày (activity log), ghi những triệu chứng như nhức đầu, chóng mặt, hồi hộp, mệt.
4) Bịnh áp huyết cao: Nói chung, bác sĩ đo huyết áp bịnh nhân 2 lần hoặc nhiều lần hơn, và nên đo 2 bên phải và trái. Nếu cọng lại lấy số trung bình; áp suất lúc thu tâm (systolic pressure) trên 140 mm thuỷ ngân; áp suất trương tâm (diastolic pressure) trên 90 mmHg thì định bịnh áp huyết cao. (Theo những tiêu chuẩn trên thì những con số áp huyết mà vị thính giả nêu ra không thuộc về nhóm huyết áp cao.)
Phân loại:
(Categories) Thu tâm (systolic),mm Hg Trương tâm (diastolic),mmHg
Tối hảo (Optimal) <120 và <80
Bình thường (Normal) <130 và <85
Bình thường cao (High normal) 130–139 hay 85–89
Huyết áp cao (Hypertension)
Stage 1 (nhẹ, mild) 140–159 hay/ or 90–99
Phân nhóm: vùng ranh giới
(Subgroup: borderline) 140–149 hay/or 90–94
Stage 2 (vừa, moderate) 160–179 hay/or 100–109
Stage 3 (nặng, severe) ≥180 hay/ or ≥110
Áp huyết thu tâm đơn độc:
(Isolated systolic hypertension) ≥140 and <90
Phân nhóm: cao, vùng ranh giới
(Subgroup: borderline) 140–149 and <90
(Theo AHA)
Áp huyết thấp (hypotension), thường được định nghĩa như là áp suất kỳ thu tâm = hoặc < 90mm thuỷ ngân (systolic pressure = or <90 mm Hg), áp suất trương tâm= hoặc < 60 mm Hg (diastolic pressure = or <60 mm Hg). tuy nhiên cũng tuỳ theo bịnh nhân, tuổi bịnh nhân, áp huyết thông thường của người đó. Có nhiều nguyên nhân, giản dị như bịnh nhân thiếu nước, bị xúc động, ngâm nước nóng quá lâu (mạch máu dãn nở), có thai, ít vận động. Phức tạp hơn ví dụ bịnh nhân thiếu máu (anemia, bần huyết, lượng hồng cầu quá thấp), chảy máu đâu đó (ví dụ rong kinh, chảy máu bao tử, ruột), hay suy cơ năng tuyến giáp (hypothyroidism), nang thượng thận (adrenal glands, bịnh Addison: đi đôi với da sậm màu [hyperpigmentation], các vùng niêm mạc như miệng cũng đen hơn bình thường), nhiễm trùng máu, phản ứng thuốc, dị ứng, phản vệ (anaphylaxis=huyết áp hạ nhanh, shock kèm theo khó thở, nổi mẫn ngoài da). Cũng nên nêu rõ áp huyết thấp (hypotension) và thiếu máu (anemia) là hai bịnh khác nhau, mặc dù thiếu máu có thể gây ra áp huyết thấp, chóng mặt, xỉu.
Nói chung chúng ta không muốn áp huyết cao, và áp suất thấp là mục đích của chữa trị bịnh cao áp huyết. Tuy nhiên, nếu áp huyết thấp kèm theo các chứng như chóng mặt, muốn xỉu, mờ mắt, ói, ta chân lạnh, xanh xao, thở khó hay yếu, chán nản, trầm cảm (depression), nên đi khám bác sĩ.
B) Chứng thoái hoá điã đệm cột sống cổ và lưng (cervical and lumbar degenerative disc disease, [D.D.D.]).
Xương sống chúng ta gồm những đốt xương sống (vertebra) nối liền với nhau bằng những cái đĩa đệm (intervertebral disc) để giảm thiểu tác dụng các va chạm trên các đốt xương đó (shock absorbers). Mỗi cái đĩa nhìn vào có thể so sánh như một lát bánh tét: ở vòng ngoài có một vỏ sợi hình tròn bao bọc, tiếng Anh gọi là annulus fibrosus (“chiếc nhẫn”), chỉ có ít mạch máu nuôi dưỡng nên dễ bị hư hại; ở giữa chúng ta có cái nhân mềm hơn, chứa nhiều nước, không có mạch máu nuôi dưỡng nên cũng dễ thoái hoá (hư), tác dụng như một cái nệm nước, gọi là nucleus pulposus. Càng về già, cái nhân này càng dễ bị khô hơn, ít dẻo dai hơn. Nhờ các đĩa này xương sống lúc còn trẻ mới cử động một cách êm ái và uyển chuyển được.

Xương sống lưng (lumbar spine) và cổ (cervical spine) là nơi chịu ảnh hưởng nhiều nhất của các động tác đi đứng, khiêng nặng, cúi lên cúi xuống của chúng ta. Ngoài ra còn có thể có tác hại do tai nạn, chấn thương, bịnh béo phì cũng như tác dụng do yếu tố di truyền (có những người mang gien có tác dụng làm cho đĩa đệm của họ yếu hơn bình thường). Do đó , ít nhiều, nhanh chóng tùy theo trường hợp, trong mỗi chúng ta , các đĩa đệm đều từ từ sẽ có những dấu hiệu hư hại qua thời gian, và bắt đầu rất sớm, từ tuổi thanh niên (khoảng 20 tuổi).Tuy nhiên, mặc dù gọi là bịnh “thoái hóa”, có hai điểm cần chú ý:
-trong số người đĩa thoái hóa thấy trên MRI, chỉ một số ít người là đau lưng thật sự
-trong số người đau do thóai hóa đĩa, đa số tương đối trẻ 45-55 tuổi, người già hơn nữa (trên 60) thì lại ít đau hơn , dù là đa số cột sống thoái hóa, vì những nơi đau có thể đã tự ổn định (stabilized).
Cái vỏ sợi hình nhẫn có thể bị rách một vài nơi ngoại biên , rồi rách rộng ra, làm đĩa yếu đi, phình ra ngoài giới hạn cột sống, bề dày đĩa giảm xuống, chứng thoái hoá đĩa đệm cột sống cổ và lưng (cervical and lumbar degenerative disc disease, D.D.D.).

Người ta gọi là đĩa thoát vị (disc herniation) nếu cái đĩa biến dạng phình ra khỏi vị trí bình thường của nó. Do các chất gây viêm từ trong trung tâm nhân của đĩa bị xì ra phía ngoài, kích thích, làm khó chịu (irritate) các dây thần kinh nhỏ nằm trong lớp ngoài ngoài vỏ đĩa , làm chúng ta cảm thấy đau lưng vùng đó. Cột sống dần dần mất tính ổn định (stability) của nó , các đốt xương sống phản ứng bằng cách mọc ra những mấu xương (osteophytes) để chống đỡ phụ, các mấu xương này có thể đè lên các sợi dây thần kinh, làm đau hai chân và hai vai, cánh tay. Đồng thời các bắp cơ (bắp thịt) hai bên sống lưng cũng co rút lại để chống đỡ .
Cách phòng ngừa DDD: dinh dưỡng đầy đủ (calcium, vitamin D), đừng hút thuốc, tránh chấn thương cột sống (ngồi xe hơi có bộ phận nâng đầu cổ [head rest]) , vận động, thể thao. Tránh những thể thao quá sức chịu đựng bình thường của mình (như cử tạ quá nặng, gymnastics: vận động quá khó, các vận động viên gymnastics thường bị hư các xương cột sống). Tránh ngồi qúa lâu ở những tư thế không lành mạnh, và đáng kể nhất là đừng quá mập.
Có hai mạch máu hai bên xương sống nằm trong ống xương đi từ dưới lên trên gọi là động mạch xương sống (vertebral arteries) đi vào sọ nhập lại thành một (động mạch đáy, basilar artery) phụ trách nuôi phần sau não bộ kể cả tiểu não (cerebellum) là nơi phụ trách về thăng bằng, nếu rối loạn gây chóng mặt. Đối với người rất già, thoái hoá các đốt xương sống cổ có thể ảnh hưởng đến động mạch xương sống, làm cho những người này hay chóng mặt, mà dù trong những trường hợp này, chỉ chóng mặt lúc quay đầu (cổ) qua bên này hay bên kia.
Đối với người mạnh khoẻ 37 tuổi, trừ trường hợp ngoại lệ chuyện này khó xảy ra. Bác sĩ có lẽ sẽ nghĩ đến những nguyên nhân khác như tai, huyết áp thấp, lo âu, vân vân.
C) “Rối loạn [do] lo âu” (anxiety disorders)
Bình thường cơ thể chúng ta được trang bị để tự giữ nó trong tình trạng quân bình nào đó, cơ chế này tiếng Anh gọi là homeostasis. Nếu các tín hiệu cho biết tình thế yên ổn, cơ thể cảm thấy mình có thể “thoải mái” được, thì hệ đối giao cảm (parasympathetic system) nắm quyền ‘trưởng ban nhạc”, làm cho tim đập chậm lại, nước miếng ra nhiều, bao tử và ruột làm việc gia tăng để dễ tiêu hóa, ngay cả tình trạng bộ phận sinh dục (căng cương, erection) cũng trở nên thuận tiện so sự sanh con đẻ cái. Ngược lại, nếu cơ thể nhận được những tín hiệu cho biết nó bị đe dọa, nói chung là hiện diện các stress, và nó cần phải “chiến đấu hoặc chạy trốn” (fight or flight), thì hệ thần kinh giao cảm (sympathetic system) được tự động kích hoạt: cuống phổi nở ra (bronchodilation), tim đập nhanh , bóp mạnh hơn, áp huyết lên cao, mồ hôi tay vã ra, mạch máu ngoài da co lại để ưu tiên máu vào tim, óc, cơ bắp (để chạy), con ngươi nỡ ra để ánh sáng vào mắt nhiều hơn , thấy rõ hơn trong đêm tối.
Nếu người bịnh bị rối loạn trong nhận thức và cảm thấy sự đe dọa không có thật, hoặc đe dọa nhỏ nhưng bị phóng đại quá mức, cảm thấy đang xảy đến hoặc có thể xảy đến cho mình một cách dai dẳng, người đó sẽ ở trong tình trạng stress mãn tính (kinh niên) và gây ra trường hợp mà y giới gọi là “rối loạn [do] lo âu” (anxiety disorders).
Thường gặp nhất là rối loạn lo âu lan tỏa (generalized anxiety disorder). Về tâm lý, bịnh nhân thấy tinh thần căng thẳng, sợ sệt, khó tập trung, lo lắng. Về triệu chứng cơ thể (somatic complaints), một số lớn triệu chứng gây ra do bộ phận giao cảm của thần kinh thực vật kích thích mãn tính nói ở trên: tim đập nhanh, hồi hộp thở nhanh, tay chân mồ hôi , khó ngủ, mệt mõi, khó sinh hoạt về tính dục. Ngoài ra còn sinh ra vòng lẫn quẩn: hồi hộp gây ra lo sợ đau tim, hồi hộp thêm, khó thở làm hoảng hốt, sợ chết, làm khó thở thêm. Một trong những tiêu chuẩn định bịnh này là triệu chứng kéo dài hơn 6 tháng, triệu chứng đầu tiên xuất hiện khoảng 20-25 tuổi, nữ giới nhiều hơn nam giới một chút. Tuy nhiên người lớn tuổi cũng thường bị chứng rối loạn lo âu mà không được chẩn đoán , săn sóc.
Về thư giãn: Người Á Đông chúng ta có những phương pháp như yoga, thiền, tụng kinh. Thuần tuý về sinh lý học, các biện pháp này dùng những phương tiện sau:
-Một nơi yên tĩnh
-Một “phương tiện/’mẹo’ tâm trí” (“mental device”, theo Bennon và Klipper) tạo nên tiêu điểm (point of focus) cho mình tập trung: một chữ hay câu nói, lập đi lập lại đều đều (tương tự như thần chú hay kinh, không cần hiểu nghĩa của các chữ cũng đươc; có thể tập trung vào hơi thở; để các ý tưởng ra vào đầu óc tự do, nhưng ý nào vào thỉ cứ tự nhiên thải đi, không bận tâm.
-Thái độ thụ động trong lúc thư giãn, sau 20 phút thì bắt đầu nhúc nhích tay chân, vận động thân thể để về tình trạng linh hoạt bình thường.
-Tư thế thoải mái.

Người Việt chúng ta cũng áp dụng phương pháp "Thiền Định" và "chánh niệm". Theo BS Huỳnh V. Thanh (ĐH Hawaii), một bác sĩ chuyên về bịnh ung thư dùng chánh niệm để áp dụng cho bịnh nhân ung thư của ông: "Phần lớn các phương pháp thiền là định: tập trung tâm trên một đề mục cố định (cụ thể như nhìn ngọn nến, hoặc trừu tượng như niệm chú) giúp cho tâm được tạm thời an lạc và có thể đạt tới nhiều tầng thiền cao. Chánh niệm, ngược lại, có tính cách linh động để ý tới cảm nghiệm rõ ràng nhứt mà không lựa chọn đối tượng. Vì vậy, trong thực tập Chánh Niệm tâm ít bị xao động bởi những kích thích. Chánh Niệm có đặc tính chú tâm đến những gì đang xẩy ra trong hiện tại, một cách không phê phán hoặc so sánh, để thấy nó thật sự ra sao. "(2)
Trước đây, ở Việt Nam có cuốn " Quẳng gánh lo đi mà vui sống" do Nguyễn Hiến Lê dịch từ cuốn “How to stop worrying and start living” (1948), của Dale Carnegie, rất có ích cho người đọc giảm bớt sự lo âu của mình. Trên internet, có nhiều nơi vẫn còn phổ biến sách này online. Ở Mỹ cuốn này vẫn bán rất chạy, có lẽ vì chúng thực dụng và, thời nào cũng vậy, sự tìm kiếm tĩnh lặng trong cuộc sống cạnh tranh vẫn là những mối bận tâm của mọi người.

Bịnh nhân cũng như sinh viên y khoa mới vào ngành có khuynh hướng nghĩ đến những lý do, nguyên nhân hiếm hoi, ghê gớm, kinh điển, khảo sát khó khăn, tốn kém trước một trường hợp bịnh lý với những triệu chứng nào đó (“zebra”/ con ngựa vằn). Trong trường y cũng như trong chương trình huấn luyện bác sĩ, người ta thường khuyên các bác sĩ trẻ nên đi tìm con ngựa thường trước khi nghĩ đến con ngựa vằn. Phân biệt giữa con ngựa thường (định bịnh thông thường, hay gặp trước) và nhớ đến con ngựa vằn “zebra” (bịnh hiếm có , tuy có thể xảy ra) lúc cần thiết là nghệ thuật hành nghề y khoa hợp tình hợp lý của các bác sĩ có` kinh nghiệm hơn. Tốt hơn hết vị thính giả nên tìm đến một bác sĩ chịu khó lắng nghe nỗi ưu tư của mình, khám bịnh kỹ lưỡng và từ đó cho biết ý kiến về trường hợp của mình.
Bác sĩ Hồ văn Hiền