Monday, January 22, 2018

'Xơ cứng cột bên teo cơ' (Lou Gehrig disease)

"Xơ cứng cột bên teo cơ", thuật ngữ này dịch tên tiếng Anh là Amyotrophic lateral sclerosis (ALS),tiếng Pháp là la sclérose latérale amyotrophique.
Tóm tắt, đây là một bịnh gây liệt các cơ do các tế bào thần kinh vận động phụ trách điều khiển các cơ này nằm trong não bộ và tuỷ sống bị thoái hoá, hư hại.
Chúng ta phân tích từ này để hiểu bịnh hơn:
1) Amyotrophic: a= không có myo=cơ bắp, bắp thịt; trophy nuôi dưỡng; các cơ không được nuôi dưỡng tử tế, nên bị teo lại, nói ngắn là "teo cơ".
Bình thường các cơ bắp được nối liền với dây thần kinh vận động đi từ các nơ-ron (neuron, tế bào thần kinh) vận động trong sừng trước của tuỷ sống; các tế bào này lại liên kết với nơ-ron võ vận động (motor cortex neuron) trên não bộ qua một bó dây thần kinh (tương tự như một bó dây điện), bó này gọi là “đường vỏ não-tuỷ sống bên” (lateral corticospinal tract), có nghĩa là nằm một bên , khác với đường trước và đường sau.
2) Sclerosis= tình trạng xơ
Nhiều nhân vật nổi tiếng mắc bịnh ALS. Mao Trạch Đông của Trung Quốc cũng từng bị ALS kèm theo bịnh Parkinson, bịnh tim phổi cũng như nhiều thứ bịnh khác do ông ghiền thuốc lá. Mao bắt đầu có những triệu chứng lúc ông 80 tuổi (1974), đi không vững, nói không ra tiếng, thở rất nhọc mệt, bịnh xuống dốc nhanh chóng và ông mất 2 năm sau đó.(1)
Chúng ta có thể nhắc đến chuyện hai người nổi tiếng đã trở thành biểu tượng cho ALS.
Lou Gehrig (1903-1944) là một cầu thủ baseball nổi tiếng ở New York, có sức mạnh và dai sức bền bỉ hơn người, nên được tặng biệt hiệu là "Con Ngựa Sắt" (The Iron Horse). Lúc 36 tuổi, ông mất sức đột ngột, phải nghỉ non. Bác sĩ ở Mayo Clinic sau nhiều ngày xét nghiệm kết luận ông bị ASL ngay trong ngày sinh nhật của ông. Ông mất hai năm sau đó và ở Mỹ người ta gọi ALS là bịnh Lou Gehrig.
Nhân vật thứ nhì, Stephen Hawking (2) gần chúng ta hơn. Ông là nhà vật lý lý thuyết, một giáo sư toán học vẫn hoạt động, dạy học viết sách không ngừng nghĩ. Toàn thân, tay chân hoàn toàn tê liệt và ông viết và nói qua máy computer mà ông điều khiển bằng cơ trên má của ông. Khác với đa số các bịnh nhân được định bịnh lúc đã quá 50 tuổi và chỉ sống 2-3 năm sau đó, Hawking mắc chứng này rất sớm, lúc 21 tuổi (1963), và nhờ dạng ALS này tiến triển rất chậm so với các trường hợp khác, sau 50 năm, ông vẫn còn sống với trí óc minh mẫn, vẫn mơ đi du lịch trong vũ trụ. Hiện nay ông là một trong những bộ óc vĩ đại nhất trong thế giới.
ALS ảnh hưởng đến neuron vận động trên (upper motor neuron), nằm trong não, và các neuron vận động dưới (lower motor neuron), nằm trong tủy sống và thân não. Sự thoái hóa của neuron vận động trên nói chung làm cơ co rút lại, trong khi thoái hóa neuron vận động thấp làm yếu cơ, teo cơ và cơ giật nhẹ. Vì các neuron thần kinh trên và dưới cùng đang bị mất đi cùng một lúc, các triệu chứng này có thể kết hợp với nhau. Tuỳ theo các tế bào hư hại thuộc về nhóm tế bào thần kinh nào và phân phối thế nào giữa hai nhóm trên, sẽ có những dạng khác nhau. Những khảo cứu mới đây cho thấy ngoài những tế bào vận động, còn một số tế bào thần kinh khác cũng bị liên luỵ, ví dụ bịnh lẫn trán-thái dương gây ra bởi các tế bào vùng trán và thái dương bị thoái hoá.
ALS có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, mặc dù thường xảy ra vào cuối tuổi trung niên.
Những dấu hiệu đầu tiên có thể là: đi dễ vấp té, chạy dáng lọng cọng; bàn chân yếu thòng xuống (foot drop, slapping gait); ngón tay co rút, yếu, lọng cọng, vụng về,các cơ teo, cổ tay xuội (wrist drop); ăn dễ bị sặt, khàn tiếng, nói yếu ớt, nhỏ; một số ít đổi tánh, khó chịu, lúc khóc, lúc cười vô cớ, trầm cảm, không hành xử hợp lý (impaired executive function).
Dấu hiệu đầu tiên là cơ có vẻ yếu dai dẵng hay co rút ở cánh tay hay chân, làm sử dụng tay chân khó khăn. Những triệu chứng này có thể bịnh nhân hay bác sĩ không nhận ra lúc đầu; sau đó bịnh lan qua vùng khác thì dễ định bịnh hơn.
Những cơ của hệ thần kinh tự dưỡng (kiểm soát nhịp tim, đường tiêu hóa, chức năng ruột và bàng quang) và các chức năng tình dục không bị ảnh hưởng trực tiếp. Tuy nhiên, ALS có thể có tác động gián tiếp vì tình trạng di chuyển bị giới hạn kéo dài. Thính giác, thị lực và cảm giác nói chung vẫn bình thường. Những bó sợi cơ có thể co giật (fasciculation) lúc mất tín hiệu từ các dây thần kinh có thể làm mất ngủ, khó chịu nhưng không đau đớn. Chỉ có các co rút bắp cơ (muscle cramps) có thể gây đau, có thể cần uống thuốc giảm đau.
Bịnh đa xơ thần kinh (MS) cũng có thể làm bịnh nhân mệt, yếu, dễ té, cơ co giật (spasm), nuốt khó, nói không rõ, nói đớt. MS thường xảy ra ở phụ nữ nhiều hơn, tuổi trẻ hơn (20-50 t), có thể có rối loạn về đời sống tâm lý, tính dục (sexual dysfunction) và do cơ chế khác ALS; MS là một bịnh tự miễn nhiễm do hệ miễn nhiễm tự chống lại cơ thể của chính mình.
Gọi là “đa xơ cứng”, nhưng xin chú ý đây không nói về xơ cứng xương khớp, mà từ "xơ cứng" (sclerosis) trong MS được các bs giải phẩu học thế kỷ thứ 19 dùng để mô tả những mảng (plaque) mô sờ cưng cứng như mô thẹo , rải rác trong não bộ và tuỷ sống bịnh nhân lúc giải phẩu tử thi ( multiple =đa; sclerosis, từ la tinh có nghĩa là thẹo [scar]).
Các sợi trong bó dây thần kinh được bao bọc bởi một chất mỡ bảo vệ gọi là myelin, và dòng điện dẫn truyền riêng rẽ theo từng sợi thẩn kinh. Củng giống như dây cáp video có lớp nhựa bao bọc mỗi sợi dây điện trong đó, làm điện không bị " mát dây". Trong bịnh MS , các tế bào hệ miễn nhiễm (immune system) phá huỷ chất myelin của dây thần kinh, và phá huỷ các tế bào sản xuất chất myelin này (oligodendrocytes).
Trong MS, các tế bào phòng thủ tấn công chất myelin trong não bộ, dây thần kinh thị giác và tuỷ xương sống, tạo nhiều hư hại, trong vùng chất trắng (white matter) cũng như chất xám (grey matter) của bộ não và gây những triệu chứng thần kinh như mất khả năng trí tuệ (loss of cognitive abilities), mệt mỏi (fatigue), chóng mặt, trầm cảm (depression), liệt các cơ của cơ thể (paralysis). Viêm dây thần kinh thị giác (optic neuritis) có thể là triệu chứng đầu tiên của MS, là một bịnh của hệ thần kinh (nervous system), bao gồm bộ óc (brain) và tuỷ sống (spinal cord).
Nếu người bịnh đau nhức nhiều ở các bắp cơ bác sĩ có thể nghĩ đến bịnh đau đa cơ thấp (polymyalgia rheumatica), thường gặp hơn ở người da trắng, 50- trên 70 tuổi. Các bắp thịt cổ, vai, cánh tay, mông, đùi (cận thân) đau và cứng.
Trị liệu ALS:Thuốc Riluzole để làm tiến triển bịnh chậm lại, nhưng kết quả không nhiều, chỉ kéo dài thêm vài tháng tình trạng sống mà không cần khai thông khí quản; các biện pháp khác để phụ trợ: nuôi bằng ống gắn trực tiếp vào dạ dày, máy thở phụ.
Nói tóm lại, để trả lời câu hỏi của bịnh nhân, chúng ta không thể nói ông mắc bịnh gì. Đau không phải là triệu chứng chính của ALS. Những nhận xét ở trên chỉ có tính cách thông tin. Bịnh nhân cần quan sát, ghi chú rõ ràng về các triệu chứng của mình và tốt hơn hết nhờ bs gia đình tìm cho mình một chuyên gia về bịnh thần kinh để giải quyết vấn đề định bịnh rất phức tạp, cũng như để điều trị thích hợp.
Chúc bịnh nhân may mắn.
Bác sĩ Hồ văn Hiền

Chữa bịnh viêm gan B (Chronic hepatitis B)

Viêm gan B là một loại bịnh hiếm do siêu vi là tổn thương gan. Ở Mỹ có chừng 1,2 triệu người mắc chứng viêm gan B mãn tính và trên một nửa số người này là gốc châu Á Thái Bình Dương (trong lúc chỉ 5% dân Mỹ là gốc châu Á Thái Bình Dương). Các khảo cứu ở Mỹ cho thấy người gốc châu Á, trong 100 người có chừng 12 người mang siêu vi gan B trong dòng máu mình (viêm gan B mãn tính). Virus viêm gan B (HBV) có thể lan truyền từ người này qua người khác qua bằng đường máu (kim chích, dụng cụ phẫu thuật không khử trùng đàng hoàng; dung dao cạo râu chung; do đường tính dục (sexual transmission), và từ mẹ truyền qua con lúc sanh.

Không phải ai mắc viêm gan B mãn tính đều phải dùng thuốc. Bác sĩ sẽ xem xét những điều kiện của mỗi người, lợi hại của trị liệu và quyết định có cần và có nên chữa người đó hay không.
Mục đích trị liệu: ngăn chặn tiến triển của bịnh biến thành suy gan, xơ gan và ung thư gan (hepatocellular carcinoma, HCC).
Câu hỏi đặt ra là tại sao không chữa hết mọi người bịnh?
Thứ nhất, bịnh HBV lúc hoạt động lúc không, cho nên không có một phát đồ chung cho mọi trường hợp. Thứ đến, các thuốc được dùng chỉ áp chế (suppress) siêu vi HBV, không trị dứt nó được và có thể phải dùng thuốc vô hạn định,dùng thuốc có nguy cơ là sẽ lờn thuốc (resistance), không hiệu nghiệm được nữa. Cho nên lúc bịnh còn trong thời kỳ không hoạt động, bác sĩ không muốn dùng thuốc. Bác sĩ theo dõi bịnh; nếu gan có dấu hiệu bị viêm (các enzym tăng cao), lượng HBV tăng nhanh trong máu, gan bị xơ, kết quả siêu âm, sinh thiết gan nếu thấy cần thiết) lúc đó bác sĩ mới tính chuyện dùng thuốc.
Nói chung 2/3 bịnh nhân sẽ không nặng hơn. Riêng đối với người mắc HBV mãn tính do máu mẹ truyền sang lúc mới sinh thì dự hậu kém hơn,1/3-1/4 sẽ chết do xơ gan hay ung thư gan nếu không chữa trị. Cho nên việc theo dõi để chọn ai cần chữa và chữa lúc nào, kéo dài bao lâu rất quan trọng.
Các yếu tố cơ nguy:
-mức DNA của HBV cao dai dẵng.
-men [enzyme] ALT cao chứng tỏ tế bào gan bị hư hại nhiều.
(Trong cơ thể chúng ta, các phản ứng sinh hoá hoá học cần phải xảy ra nhanh trong những điều kiện bình thường về nhiệt độ, áp suất, pH mà cơ thể chấp nhận được, do đó cần những chất giúp cho phản ứng xảy ra dễ dàng hơn, các chất này gọi là chất xúc tác (catalyst) được nhà bác học người Đức Wilhelm Kühne (1837–1900) đặt tên mới là "enzyme", gốc Hy lạp có nghĩa là : en=ở trong; zyme: men (leaven, yeast) ví dụ như “men” làm rượu từ gạo. Việt Nam dịch là enzym; tuy cũng gọi nôm na là 'men'. Lúc screen xem gan, túi mât có bị tổn thương không, người ta thường bắt đầu bằng những enzym như ALT (alanine aminotransferase, trước đây SGPT) hay AST ((aspartate transaminase, hay SGOT).)
-một số trường hợp đột biến trong DNA của siêu vi.
-tuổi bịnh nhân cao
-phái nam
-bịnh nhân nghiện rượu
-trong gia đình có người bị bịnh ung thư gan
-chất Alpha-Feto-Protein (AFP) trong máu cao.
-nhiễm đồng thời với các virus khác như viêm gan Delta (HDV), viêm gan C (HCV), HIV (bịnh liệt kháng).
Các thuốc chính được dùng khắp thế giới cho HBV là: pegylated interferon alfa (PEG-IFN-a), entecavir (ETV), tenofovir disoproxil fumarate (TDF).
Interferon có nhiều biến chứng, các triệu chứng giống như bị cúm, đau nhức bắp thịt, có khi triệu chứng tâm thần. Chỉ 1/3
trường hợp bịnh HBV đáp ứng với interferon.
Thuốc Entecavir được cơ quan quản trị thuốc của Hoa kỳ là FDA chấp thuận được dung để chữa những trường hợp viêm gan B mà virus sinh sản tích cực (active viral replication) cọng với tổn thương ở gan, chứng minh bằng các xét nghiệm cơ năng gan (enzyme ALT hoặc AST lên cao) hoặc sinh thiết tế bào gan cho thấy bịnh đang ở giai đoạn tích cực, hoạt động (active liver disease). Năm 2010, FDA, chấp thuận việc dùng entecavir cho các trường hợp suy gan (liver failure) do siêu vi gan B. Đối với thuôc entecavir, xin trích dẫn một số điểm công bố trong package insert được FDA chấp thuận:
-các biến chứng thường gặp nhất: nhức đầu, mệt mõi, buồn nôn , ói.
-Uống entecavir nếu ngừng đột ngột có thể là bịnh nhiễm trở nặng hơn, nhất là trong 6 tháng đầu.
-Thuốc thải ra ngoài do thận, nên nếu cơ nặng thận yếu, giảm thấp do tuổi già, phải điều chỉnh liều thuốc.Thuốc lại có khả năng gây độc gan (hepatotoxicity): nếu da vàng, buồn nôn, phân mất màu, trở nên trắng, phải cho bs mình biết.
-Thuốc không có khả năng trị dứt (cure) nhiễm trùng siêu vi gan B mà chỉ làm giảm lượng virus trong cơ thể, giảm khả năng nhiễm những tế bào gan mới.
-Thuốc có thể làm cơ năng gan tốt hơn.
-Tuy nhiên theo kiến thức hiện nay, không biết thuốc có giảm nguy cơ ung thư và xơ gan do viêm gan B mãn tính gây ra hay không.
Tổ chức y tế quốc tế (WHO) khuyến cáo chữa những người hội đủ các điều kiện sau đây nếu họ không bị xơ gan:
1) tuổi trên 30
2) Enzyme ALT cao dai dẵng
3) DNA của HBV nhân ra nhanh chóng (high-level HBV replication (HBV DNA >20,000 IU/mL).
Ngược lại Hội Nghiên cứu Bịnh Gan của Mỹ (American Association for the Study of Liver Diseases (AASLD) ) khuyến cáo không nên chữa cho bịnh nhân với các điều kiện như sau:
-không bị xơ gan
-ALT bình thường dai dẵng
-mức DNA của siêu vi HBV thấp (Low levels of HBV DNA replication (HBV DNA <2,000 IU/mL).
Tuy nhiên bịnh nhân được thử máu, siêu âm gan đều đặng để theo dõi.
Người bịnh viêm gan mãn tính không bị giới hạn về vấn đề ăn uống.Tuy nhiên nếu suy gan do xơ gan (decompensated cirrhosis ), có thể cần giới hạn sau đây:
-giảm muối dưới 1.5 gram/ngày
-thức ăn có mức protein cao hơn, từ thịt trắng (white meat) như gà tây, gà, cá
-giới hạn nước dưới 1.5 lít/ngày nếu mức muối (NaCl) trong máu thấp.
Tóm lại, chữa viêm gan B mãn tính là lãnh vực của chuyên gia về bịnh này. Nếu bs của mình khuyên là không cần chữa, nên mừng và theo đúng các hướng dẫn để được theo dõi đúng mức. Thường bs có thể thẻo dõi 3 tháng một lần, trong một năm ; sau đó mỗi năm một lần. Nếu bịnh nặng hơn, có thể bác sĩ sẽ bắt đầu trị liệu lúc cần.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bệnh lở miệng (canker sores)

Bệnh này người Việt Nam thường đặt tên là “mụn nhiệt” và cho là trong người “nóng” nên gây ra. Đây là những mụt nhỏ, cạn, mầu trắng mọc trong những phần mềm của miệng hay nớu răng. Mụn này không mọc phía ngoài môi và không lây lan như mụn “cold sores”. Mụn nhiệt thường rất đau khiến cho việc ăn uống trở nên khó khăn.
Triệu chứng
Đa số những mụn lở này đều hình tròn mầu trắng, giữa có thể mầu vàng nhạt và rìa sưng đỏ. Mụn có thể mọc khắp nơi trong miệng: dưới lưỡi, trong má, trong môi, trên nớu. Ta thường cảm thấy tê tê và hơi đau đau một hai ngày trước nơi vùng miệng sắp sửa mọc mụn.. Có nhiều loại mụn nhiệt: nhỏ, lớn và mụn giống herpes.
- Mụn nhiệt nhỏ: Thường xẩy ra nhất, hình bầu dục, nhỏ hơn nửa inch hay 12 mm, thường lành sau 1, 2 tuần, không để lại sẹo.
- Mụn nhiệt lớn: Ít xẩy ra hơn, lớn hơn nửa inch hay 12 mm, rìa không phẳng phiu, thường lành sau 6 tuần và để lại sẹo lớn.
- Mụn nhiệt dạng herpes: Thường xẩy ra khi tuổi đã lớn, không lớn hơn 1/8 inch hay 3mm nhưng mọc mỗi lúc 10 tới 100 cái, rìa nham nhở, thường lành trong vòng 1, 2 tuần không để lại sẹo.
Những triệu chứng khác:
Đôi khi bạn có thể bị thêm vài triệu chứng khác ngoài những mụn nhiệt, thí dụ như sốt, người khó chịu, hạch bạch huyết sưng lên.
Khi nào nên gặp bác sĩ?
Nên đi gặp bác sĩ khi
- Mụn nhiệt của bạn rất to, khác thường
- Bị nhiều mụn tiếp nối, chưa lành đã bị mụn mới
- Mụn kéo dài hơn 3 tuần
- Mụn mọc lấn ra phần môi ngoài
- Quá đau, không giảm khi đã dùng thuốc
- Không thể ăn uống vì đau
- Sốt cao kèm theo
Nên gặp nha sĩ nếu răng quá nhọn hay có đeo những thiết bị răng khiến gây ra mụn nhiệt.
Nguyên nhân
Chưa biết rõ nguyên nhân gây ra mụn nhiệt, tuy những yếu tố sau đây bị nghi là đóng góp vào nguyên nhân gây bệnh
- Bị vết thương nhỏ trong miệng do chữa răng, đánh răng quá mạnh, cắn phải miệng khi chơi thể thao, ăn đồ quá cay quá nhiều gia vị, tự cắn phải vào má
- Nhạy cảm với đồ ăn như chocolate, cà phê, dâu tây, trứng, nuts, phô mai, thức ăn nhiều acid như trái thơm
- Dị ứng thức ăn
- Ăn thiếu vitamin B 12, chất kẽm, chất folate hay chất sắt.
- Dị ứng với một số vi trùng trong miệng.
- Bị nhiễm vi trùng H. pylori, vi trùng này cũng gây ra loét bao tử.
- Bệnh celiac, một bệnh ruột rất nặng do dị ứng với chất gluten trong lúa mì hay các loại hạt lúa khác.
- Bệnh viêm ruột như Crohn's hay ulcerative colitis.
- Bệnh Behcet là một bệnh gây ra viêm toàn cơ thể, kể cả miệng.
- Bệnh hệ miễn nhiễm khiến hệ này tấn công những tế bào lành mạnh trong miệng thay vì những thứ gây bệnh như vi trùng hay siêu vi trùng.
- Bệnh HIV/AIDs khiến hệ miễn nhiễm bị hủy hoại
- Thay đổi mức kích thích tố khi có kinh
- Bị stress
- Thuốc đánh răng hay súc miệng có chứa chất sodium lauryl sulfate
Một điều khác biệt giữa mụn nhiệt canker sores và mụn lở cold sores là mụn nhiệt không do siêu vi herpes gây ra.
Những yếu tố khiến dễ bị canker sores
Ai cũng có thể bị canker sores nhưng những yếu tố sau đây khiến ta dễ bị hơn:
- Phụ nữ: Mụn canker sores, nhất là loại mọc từng cụm, thường xẩy ra cho phụ nữ.
- Gia đình: Khoảng 1/3 số người bị bệnh này có nhiều người trong gia đình cùng bị giống như vậy. Do đó có thể có yếu tố di truyền gây bệnh hoặc người cùng gia đình thường bị nhiễm chung một yếu tố nào đó.
Chữa trị
Thường thì loại mụn nhiệt nhỏ không cần phải chữa vì chúng thường hết trong vòng 1, 2 tuần. Nhưng những loại mụn lớn hay kéo dài lâu nên cần được chữa:
- Thuốc súc miệng: Nếu bạn bị quá nhiều mụn nhiệt, bác sĩ có thể cho một loại thuốc súc miệng có chứa chất steroids dexamethasone để làm giảm phản ứng viêm và đau. Súc miệng bằng thuốc tetracycline cũng giúp giảm đau và mau lành nhưng có thể gây ra nhiễm vi nấm và làm men răng đổi màu ở trẻ em.
- Thuốc xứ c tại chỗ: Thuốc chứa chất bezocaine (Orabase), amlexanox (Aphthasol) và fluocinonide (Lidex, Vanos) có thể làm bớt đau và mau lành nếu được xức vào vết thương ngay khi chúng vừa xuất hiện.
- Thuốc uống: Vài loại thuốc bình thường không dùng chữa mụn nhiệt lại có thể giúp chữa bệnh, đó là thuốc cimetidine (Tagamet) và colchicine. Đôi khi thuốc steroids uống cũng được dùng khi những mụn nặng không trị được bằng những cách khác.
- Debacterol: Được chế đặc biệt để chữ a mụn nhiệt, dùng “đốt” chỗ mụn khiến thời gian lành giảm xuống 1 nửa.
- Thuốc bổ: như folate, vitamin B 6, vitamin B 12 và chất kẽm có thể được bác sĩ cho thêm nếu bệnh nhân cần.
- Nếu bác sĩ nghi ngờ mụn nhiệt của bạn là do một bệnh nào khác gây ra, bác sĩ sẽ tìm và chữa bệnh đó.
Tự giúp
- Súc miệng bằng nước muối, hoặc baking soda (1 tsp/nửa cup nước ấm), hoặc hydrogen peroxide pha lỏng phân nửa, hoặc pha một phần thuốc Benadryl với 1 phần Kaopectate hay Maalox. Nhớ nhổ ra sau khi súc miệng.
- Trét một ít chất baking soda lên mụn nhiệt
- Dùng thuốc mua tự do như Anbesol hay Orajel
- Không ăn những thức ăn nhiều acid hay quá cay
- Ngậm nước đá 
- Chải răng nhẹ nhàng và dùng thuốc không chứa chất làm sủi bọt thí dụ như hiệu Thera Breath
- Bôi thuốc “milk of magnesia” lên mụn có thể làm giảm đau
- Làm giảm stress bằng cách tập yoga, thiền...


Đau ở lồng ngực (chest pain)

Cơn đau ở lồng ngực thường làm người bệnh rất lo sợ không hiểu mình có đang bị đột quỵ tim (heart attack) hay không. Đau ở lồng ngực là một trong những triệu chứng thông thường nhất khiến người ta kêu cấp cứu. May thay, không phải cơn đau lồng ngực nào cũng là triệu chứng đột quỵ tim. Ngược lại, đa số các cơn đau này không liên quan tới tim. Tuy nhiên, khi bị đau ở ngực, chúng ta không nên coi thường mà cần đến ngay phòng cấp cứu ỏ bệnh viện để đuợc khám và định bệnh.

Triệu chứng

Tùy theo căn nguyên của bệnh mà triệu chứng khác nhau
1. Do bệnh tim: Nếu triệu chứng có căn nguyên từ tim, bệnh nhân sẽ có những triệu chứng sau
- Cảm thấy sức ép, bóp chặt trong lồng ngực
- Đau như xé trong ngực, đưa ra sau lưng, cổ, quai hàm, vai và cánh tay, nhất là tay bên trái.
- Đau vài phút hết rồi trở lại, cường độ đau thay đổi
- Thở dốc, ra mồ hôi, chóng mặt, buồn nôn

2. Do bệnh khác: Đau ngực do những nguyên nhân khác, triệu chứng có thể là:
- Ợ chua, đồ ăn trào ngược lên cổ họng
- Khó nuốt
- Cường độ đau thay đổi tùy theo vị trí nằm ngồi
- Đau tăng lên khi ho hay thở sâu
- Đau khi nhấn vào lồng ngực

Khi nào nên gặp bác sĩ?

Nếu bạn bị đau ngực hoặc nghi mình đang bị heart attack, gọi 911 ngay, đừng chần chừ để tự định bệnh. Mỗi phút đều quan trọng cho việc chữa trị .Vào phòng cấp cứu có thể cứu mạng bạn hoặc đem đến cho bạn cảm gáic bình yên khi biết cơn đau không phải là heart attack. Gọi 911 hoặc nhờ người chở ngay đến bệnh viện, không tự lái xe.

Nguyên nhân

1. Do bệnh tim:
- Đột quỵ tim (heart attack) do mạch máu nuôi tim bị nghẽn
- Đau thắt ngực (angina): Mảnh cholesterol đóng vào thành động mạch nuôi tim khiến đường kính hẹp lại, máu không tới tim đủ khi làm việc nặng, bệnh nhân cảm thấy đau thắt ngực.
- Động mạch chủ bị xướt: Thành động mạch chủ bị tét ra khiến máu chảy nhiều, đưa đến thình lình đau xé trong lồng ngực và sau lưng. Có thể gây ra do bị tông mạnh vào ngực hay do biến chứng của bệnh cao huyết áp.
- Động mạch bị co thắt: Các động mạch nuôi tim bị co thắt khiến máu không tới được bắp thịt tim. Triệu chứng xẩy ra lúc bệnh nhân đang nghỉ ngơi chứ không phải đang làm việc nặng.
- Viêm màng tim: Màng bọc quanh tim có thể bị nhiễm siêu vi và sưng lên gây ra đau trong lồng ngực.
- Những bệnh tim khác: Viêm bắp thịt tim do siêu vi, tim to do bắp thịt to lên.

2. Bệnh đường tiêu hóa: Cũng có thể gây ra đau lồng ngực, rất giống triệu chứng bệnh tim
- Bệnh ợ nóng: Nước chua từ bao tử trớ ngược lên thực quản khiến bệnh nhân bị đau xé ngay sau xương ức.
- Thực quản co thắt: Gây ra đau do các bắp thịt thực quản không phối hợp nhau khi nuốt.
- Thoát vị hòanh cách mô: Một phần bao tử bị trồi lên lồng ngực 
- Nghẹt van thực quản (achalasia): Van ở cuối thực quản không mở ra đủ khiến thức ăn không xuống bao tử được dồn lại gây ra đau.
- Bệnh túi mật và tụy tạng: túi mật có sạn hay viêm tụy tạng có thể gây ra đau bụng chiếu lên ngực.

3. Bệnh xương và bắp thịt:
- Viêm sụn của xương lồng ngực gây ra đau, đau tăng thêm khi ta nhấn vào xương ức hay xương sườn.
- Bắp thịt đau do các bệnh như fibromyalgia.
- Xương sườn bị thương hay dây thần kinh bị kẹt gây ra đau.

4. Bệnh đường hô hấp:
- Cục máu đông trong phổi (embolism) làm nghẹt động mạch dẫn máu tới phổi, thường xẩy ra sau khi mổ hay nằm bất động lâu.
- Viêm nàng phổi khiến đau khi ho hay thở sâu.
- Những bệnh phổi khác như phổi bị xẹp (pneumothorax), tăn ghue61t áp động mạch phổi, suyễn.

5. Những nguyên nhân khác:
- Cơn hốt hoảng (panic attack)
- Bệnh giời leo
- Ung thư

Định bệnh

Như trên đã nói, có rất nhiều nguên nhân gây ra đau ở lồng ngực (chest pain), không nhất thiết phải là heart attack. Tuy nhiên, những cái đau này rất giống nhau và rất khó phân biệt. Do đó, không thể khinh thuờng cái đau trong lồng ngực mà cần phải đến bệnh viện ngay để được định bệnh và chữa trị. Nên chọn bệnh viện lớn có phương tiện chữa bệnh heart attack. Nơi đay, một số các thử nghiệm và quang tuyến X sẽ được thực hiện sau khi các bác sĩ cấp cứu hỏi bệnh và khám nghiệm bệnh nhân, nhất là những thử nghiệm tìm những bệnh gây nguy hiểm đến tính mạng như heart attack, rách động mạch chủ, nghẹt động mạch phổi, phổi bị xẹp…

Chữa trị

Tùy theo nguyên nhân gây ra cái đau mà bệnh nhân được chữa trị bằng những phương cách khác nhau
- Bệnh tim được chữa bằng nhiều loại thuốc khác nhau
- Heart attack được chữa bằng cách thông động mạch vành tim bị nghẽn và có thể mổ để thay đoạn bị nghẽn bằng một mạch máu khác.
- Các bệnh nghẹt động mạch phổi, rách độngmạch chủ… thường được chữa bằng cách giải phẫu. 
- Bệnh đường tiêu hóa thường được chữa bằng thuốc


BS Nguyễn Thị Nhuận