Monday, December 18, 2017

Ung thư buồng trứng

Ung thư buồng trứng là một bệnh khá thông thường. Ai trong chúng ta cũng đã từng nghe nói tới một người bị ung thư buồng trứng. Người nổi tiếng chết vì bệnh này kể sơ có cô đào hài hước Gilda Ratner và mẹ của cô đào nổi tiếng Angelina Jolie. 

Ung thư buồng trứng trước kia thường được gọi là “kẻ giết người thầm lặng” vì do triệu chứng khá mơ hồ, khi được định bệnh, ung thư đã lan ra nhiều bộ phận khác trong cơ thể khiến việc chữa trị không có kết quả. Tuy nhiên gần đây những triệu chứng sớm của bệnh đã được để ý đến, có thể giúp chúng ta tìm bệnh sớm hơn hầu chữa trị hữu hiệu. Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ, bệnh nhân được chữa sớm có tỉ lệ sống 5 năm là 93%.

Triệu chứng
Triệu chứng bệnh ung thư buồng trứng không có gì đặc biệt và giống như triệu chứng những bệnh thông thường, gồm bệnh đường tiêu hóa, đường tiểu. Bệnh nhân ung thư buồng trứng thường được định bệnh khác trước khi được định bệnh đúng. Những bệnh họ thường được gán cho là bệnh đường ruột bị kích thích, bệnh căng thẳng hay bệnh trầm cảm. 
Một điểm chính cần biết là những triệu chứng của bệnh ung thư buồng trứng thường càng ngày càng nặng hơn. Bệnh nhân đường ruột thường có triệu chứng lúc nhiều lúc ít, xảy ra sau khi ăn một thức ăn nào đó hoặc trong 1 trường hợp nào đó. Trong khi đó, triệu chứng ung thư buồng trứng có thể giống như bệnh tiêu hóa nhưng lại lúc nào cũng xẩy ra và càng ngày càng nặng hơn.
*Triệu chứng ung thư buồng trứng gồm có: 
- Bụng nặng, đầy, sưng
- Đi tiểu gắt, muốn đi hoài
- Bụng dưới khó chịu hay đau

Những triệu chứng sau cũng thường thấy:
- Hay bị khó tiêu, ợ hơi, buồn nôn
- Thói quen đi cầu bị thay đổi, có thể bị bón
- Thói quen đi tiểu cũng thay đổi, cần đi tiểu nhiều lần
- Ăn không thấy ngon hay mau no
- Bụng bự ra, mặc đồ thấy chật
- Uể oải, không có năng lượng
- Giao hợp bị đau
- Lưng phía dưới bị đau
- Kinh nguyệt thay đổi
Bạn nên đi khám bệnh khi có những triệu chứng như sưng bụng, cảm thấy bụng to, đau hay thấy như có gì đè trong bụng và những triệu chứng này kéo dài quá vài tuần. Nếu đã gặp bác sĩ và được chữa nhưng không khỏi, nên đi khám lại hoặc đến khám bác sĩ phụ khoa. Bạn cần được khám bụng dưới tức khám tử cung và buồng trứng (pelvic exam). Nếu bạn có người thân trong gia đình bị ung thư buồng trứng hay vú, bạn cần phải được khám bởi bác sĩ có kinh nghiệm về bệnh ung thư buồng trứng để được cho ý kiến về những thử nghiệm tìm bệnh sớm, trước khi mắc bệnh.

Ai dễ bị mắc bệnh?
Những người có 1 hay nhiều yếu tố sau đây có nhiều nguy cơ bị ung thư buồng trứng
- Gene bị biến thái di truyền (inherited mutation) : Sự biến thái di truyền xẩy ra trong hai loại gene được đặt tên là gene ung thư vú 1 (BRCA1) và gene ung thư vú 2 (BRCA2). Hai gene này được nhận ra nơi những gia đình có mực độ ung thư vú cao. Nhưng họ cũng bị nguy cơ ung thư buồng trứng rất cao nữa. Một người có sự biến thái (mutation) nơi 1 trong 2 gene này có nguy cơ rất cao bị ung thư buồng trứng.
Phụ nữ có sự biến thái nơi BRCA1 có 35 tới 70 phần trăm nguy cơ bị UTBT cao hơn người bình thường. Nếu có biến thái nơi BRCA2 thì có mức phần trăm cao hơn là 10 tới 30. Nơi đa số các phụ nữ, tỉ lệ biến thái cho nguyên đời là 1.5 phần trăm. Người Ashkenazi Jews mang nguy cơ bị biến thái nơi các gene này cao hơn nhiều.

Một yếu tố di truyền khác là hội chứng bệnh ung thư trực tràng và ruột già HNPCC. Phụ nữ trong những gia đình mang bệnh này có nguy cơ cao bị ung thư màng trong tử cung, ruột già, buồng trứng và bao tử.
- Tiền sử gia đình: Nếu có người trong gia đình bị UTBT, bạn sẽ tăng nguy cơ bệnh lên 10 tới 15 phần trăm.
- Tiền sử ung thư vú: Nếu đã bị UT vú, nguy cơ bị UTBT cũng tăng lên.
- Tuổi: UTBT thường xẩy ra sau khi hết kinh. Nguy cơ UTBT tăng theo tuổi. Tuy nhiên cũng có những trường hợp bị UTBT trước tuổi hết kinh.
- Tình trạng con cái: Đàn bà đã từng có thai ít nhất một lần sẽ được giảm nguy cơ UTBT. Dùng thuốc ngừa thai có vẻ làm giảm nguy cơ UTBT.
- Tình trạng vô sinh (infertility): Nếu bạn khó có bầu, nguy cơ UTBT của bạn tăng lên. Nếu uống thuốc Clomid trị vô sinh quá 1 năm, nguy cơ cũng tăng lên.
- Uống hormone (HRT): Kết quả một nghiên cứu cho thấy có sự liên hệ giữa việc uống thuốc hormone vào tuổi mãn kinh và UTBT, nhất là những bà chỉ uống thuốc estrogen thôi. Các bà đã uống thuốc hormone trên 5 năm có nguy cơ cao nhất.
- Mập: Các bà nặng quá khổ dễ bị UTBT hơn và khi mắc bệnh, bị loại ung thư dữ hơn.

Làm gì trước khi đi khám bệnh UTBT?
Vì UTBT có những triệu chứng rất mơ hồ, đôi khi bác sĩ sẽ “coi nhẹ” lời khai bệnh của bạn hoặc không cho bạn đủ thì giờ. Do đó, trước khi đi khám bệnh, nên chuẩn bị như sau:
- Viết xuống tất cả những triệu chứng bạn có, kể cả những triệu chứng có vẻ không liên hệ lắm tới cuộc khám.
- Viết xuống những chuyện mới xẩy ra trong đời sống của bạn, thí dụ như căng thẳng (stress) hay những thay đổi lớn như ly dị, mất việc...
- Viết ra tất cả những thuốc bạn đang uống, kể cả thuốc mua tự do hay thuốc bổ, dược thảo...
- Đi khám bệnh cùng một người thân. Người này sẽ nghe kỹ hơn những lời dặn của bác sĩ để nói lại cho bạn.
- Viết ra những câu bạn muốn hỏi bác sĩ: Nguyên nhân chính gây ra những triệu chứng của bạn, còn những nguyên nhân nào khác không, những thử nghiệm nào cần làm...

Làm gì khi bị UTBT?
Sau khi qua nhiều thử nghiệm định bệnh, bạn sẽ phải qua nhiều bước chữa trị nếu bị UTBT. Ngoài việc cần đòi hỏi được giải thích cặn kẽ về những thử nghiệm định bệnh, những phương pháp chữa trị, những tác dụng phụ của việc định bệnh và chữa trị, bạn còn cần phải thay đổi lối sống cho lành mạnh hơn cũng như có thể dùng thêm những phương pháp ngoại khoa giúp sức khỏe toàn thể và cuộc sống của bạn tốt hơn. Dưới đây là những thay đổi cần làm:

- Ăn uống lành mạnh: Trong lúc chữa trị, bệnh nhân UT khó ăn uống tốt được vì tác dụng phụ của thuốc khiến bạn dễ buồn nôn, ói, ăn thấy nhạt nhẽo. Tuy nhiên bạn vẫn cần phải ăn uống đúng cách để có sức chống bệnh. Nên:
* Ăn những đồ ăn nhiều chất đạm để tái tạo những mô cơ thể. Nên ăn trứng, yogurt, cottage cheese, peanut butter, thịt nạc, thịt gà, cá, đậu hạt và lentils.
* Ăn thử vài lần những đồ ăn tốt mà mình không thích. Có thể những lần sau mình sẽ thích.
* Những khi cảm thấy khỏe, nên ăn nhiều và sửa soạn sẵn những món ăn để đông đá. Ăn những thức ăn lành mạnh.
* Cho thêm những thứ nhiều calories vào đồ ăn, thí dụ trét thêm bơ, jam, mật ong lên bánh mì, rắc thêm hạt nuts lên đồ ăn.
* Ăn nhiều bữa nhỏ trong ngày. Ăn vặt bằng trái cây và rau.
- Năng vận động. Ngay cả lúc không cảm thấy khỏe cũng nên hoạt động như đi bộ khoảng ngắn, trèo thang để giúp các bắp thịt khỏi thoái hóa. Vận động cũng giúp đỡ bị trầm cảm và bớt bồn chồn. Cũng nên tập những vận động nhắc đi nhắc lại như bơi, yoga...


BS Nguyễn Thị Nhuận

Wednesday, December 6, 2017

Chữa bịnh viêm gan B (Chronic hepatitis B)

Viêm gan B là một loại bịnh hiếm do siêu vi là tổn thương gan. Ở Mỹ có chừng 1,2 triệu người mắc chứng viêm gan B mãn tính và trên một nửa số người này là gốc châu Á Thái Bình Dương (trong lúc chỉ 5% dân Mỹ là gốc châu Á Thái Bình Dương). Các khảo cứu ở Mỹ cho thấy người gốc châu Á, trong 100 người có chừng 12 người mang siêu vi gan B trong dòng máu mình (viêm gan B mãn tính). Virus viêm gan B (HBV) có thể lan truyền từ người này qua người khác qua bằng đường máu (kim chích, dụng cụ phẫu thuật không khử trùng đàng hoàng; dung dao cạo râu chung; do đường tính dục (sexual transmission), và từ mẹ truyền qua con lúc sanh.

Không phải ai mắc viêm gan B mãn tính đều phải dùng thuốc. Bác sĩ sẽ xem xét những điều kiện của mỗi người, lợi hại của trị liệu và quyết định có cần và có nên chữa người đó hay không.
Mục đích trị liệu: ngăn chặn tiến triển của bịnh biến thành suy gan, xơ gan và ung thư gan (hepatocellular carcinoma, HCC).
Câu hỏi đặt ra là tại sao không chữa hết mọi người bịnh?
Thứ nhất, bịnh HBV lúc hoạt động lúc không, cho nên không có một phát đồ chung cho mọi trường hợp. Thứ đến, các thuốc được dùng chỉ áp chế (suppress) siêu vi HBV, không trị dứt nó được và có thể phải dùng thuốc vô hạn định,dùng thuốc có nguy cơ là sẽ lờn thuốc (resistance), không hiệu nghiệm được nữa. Cho nên lúc bịnh còn trong thời kỳ không hoạt động, bác sĩ không muốn dùng thuốc. Bác sĩ theo dõi bịnh; nếu gan có dấu hiệu bị viêm (các enzym tăng cao), lượng HBV tăng nhanh trong máu, gan bị xơ, kết quả siêu âm, sinh thiết gan nếu thấy cần thiết) lúc đó bác sĩ mới tính chuyện dùng thuốc.
Nói chung 2/3 bịnh nhân sẽ không nặng hơn. Riêng đối với người mắc HBV mãn tính do máu mẹ truyền sang lúc mới sinh thì dự hậu kém hơn,1/3-1/4 sẽ chết do xơ gan hay ung thư gan nếu không chữa trị. Cho nên việc theo dõi để chọn ai cần chữa và chữa lúc nào, kéo dài bao lâu rất quan trọng.
Các yếu tố cơ nguy:
-mức DNA của HBV cao dai dẵng.
-men [enzyme] ALT cao chứng tỏ tế bào gan bị hư hại nhiều.
(Trong cơ thể chúng ta, các phản ứng sinh hoá hoá học cần phải xảy ra nhanh trong những điều kiện bình thường về nhiệt độ, áp suất, pH mà cơ thể chấp nhận được, do đó cần những chất giúp cho phản ứng xảy ra dễ dàng hơn, các chất này gọi là chất xúc tác (catalyst) được nhà bác học người Đức Wilhelm Kühne (1837–1900) đặt tên mới là "enzyme", gốc Hy lạp có nghĩa là : en=ở trong; zyme: men (leaven, yeast) ví dụ như “men” làm rượu từ gạo. Việt Nam dịch là enzym; tuy cũng gọi nôm na là 'men'. Lúc screen xem gan, túi mât có bị tổn thương không, người ta thường bắt đầu bằng những enzym như ALT (alanine aminotransferase, trước đây SGPT) hay AST ((aspartate transaminase, hay SGOT).)
-một số trường hợp đột biến trong DNA của siêu vi.
-tuổi bịnh nhân cao
-phái nam
-bịnh nhân nghiện rượu
-trong gia đình có người bị bịnh ung thư gan
-chất Alpha-Feto-Protein (AFP) trong máu cao.
-nhiễm đồng thời với các virus khác như viêm gan Delta (HDV), viêm gan C (HCV), HIV (bịnh liệt kháng).
Các thuốc chính được dùng khắp thế giới cho HBV là: pegylated interferon alfa (PEG-IFN-a), entecavir (ETV), tenofovir disoproxil fumarate (TDF).
Interferon có nhiều biến chứng, các triệu chứng giống như bị cúm, đau nhức bắp thịt, có khi triệu chứng tâm thần. Chỉ 1/3
trường hợp bịnh HBV đáp ứng với interferon.
Thuốc Entecavir được cơ quan quản trị thuốc của Hoa kỳ là FDA chấp thuận được dung để chữa những trường hợp viêm gan B mà virus sinh sản tích cực (active viral replication) cọng với tổn thương ở gan, chứng minh bằng các xét nghiệm cơ năng gan (enzyme ALT hoặc AST lên cao) hoặc sinh thiết tế bào gan cho thấy bịnh đang ở giai đoạn tích cực, hoạt động (active liver disease). Năm 2010, FDA, chấp thuận việc dùng entecavir cho các trường hợp suy gan (liver failure) do siêu vi gan B. Đối với thuôc entecavir, xin trích dẫn một số điểm công bố trong package insert được FDA chấp thuận:
-các biến chứng thường gặp nhất: nhức đầu, mệt mõi, buồn nôn , ói.
-Uống entecavir nếu ngừng đột ngột có thể là bịnh nhiễm trở nặng hơn, nhất là trong 6 tháng đầu.
-Thuốc thải ra ngoài do thận, nên nếu cơ nặng thận yếu, giảm thấp do tuổi già, phải điều chỉnh liều thuốc.Thuốc lại có khả năng gây độc gan (hepatotoxicity): nếu da vàng, buồn nôn, phân mất màu, trở nên trắng, phải cho bs mình biết.
-Thuốc không có khả năng trị dứt (cure) nhiễm trùng siêu vi gan B mà chỉ làm giảm lượng virus trong cơ thể, giảm khả năng nhiễm những tế bào gan mới.
-Thuốc có thể làm cơ năng gan tốt hơn.
-Tuy nhiên theo kiến thức hiện nay, không biết thuốc có giảm nguy cơ ung thư và xơ gan do viêm gan B mãn tính gây ra hay không.
Tổ chức y tế quốc tế (WHO) khuyến cáo chữa những người hội đủ các điều kiện sau đây nếu họ không bị xơ gan:
1) tuổi trên 30
2) Enzyme ALT cao dai dẵng
3) DNA của HBV nhân ra nhanh chóng (high-level HBV replication (HBV DNA >20,000 IU/mL).
Ngược lại Hội Nghiên cứu Bịnh Gan của Mỹ (American Association for the Study of Liver Diseases (AASLD) ) khuyến cáo không nên chữa cho bịnh nhân với các điều kiện như sau:
-không bị xơ gan
-ALT bình thường dai dẵng
-mức DNA của siêu vi HBV thấp (Low levels of HBV DNA replication (HBV DNA <2,000 IU/mL).
Tuy nhiên bịnh nhân được thử máu, siêu âm gan đều đặng để theo dõi.
Người bịnh viêm gan mãn tính không bị giới hạn về vấn đề ăn uống.Tuy nhiên nếu suy gan do xơ gan (decompensated cirrhosis ), có thể cần giới hạn sau đây:
-giảm muối dưới 1.5 gram/ngày
-thức ăn có mức protein cao hơn, từ thịt trắng (white meat) như gà tây, gà, cá
-giới hạn nước dưới 1.5 lít/ngày nếu mức muối (NaCl) trong máu thấp.
Tóm lại, chữa viêm gan B mãn tính là lãnh vực của chuyên gia về bịnh này. Nếu bs của mình khuyên là không cần chữa, nên mừng và theo đúng các hướng dẫn để được theo dõi đúng mức. Thường bs có thể thẻo dõi 3 tháng một lần, trong một năm ; sau đó mỗi năm một lần. Nếu bịnh nặng hơn, có thể bác sĩ sẽ bắt đầu trị liệu lúc cần.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền