Monday, November 20, 2017

Chứng giật ở mắt (Eye twitching)

Chứng giật ở mắt (eye twitching) có thể chỉ là một triệu chứng nhất thời, xảy ra lúc bịnh nhân bị stress, mất ngủ, hay dùng cà phê thuốc lá quá nhiều. Nếu kéo dài, giật mạnh hơn, lan rộng ra có thể là thành phần của chứng bịnh tên “bệnh co thắt mí mắt vô căn lành tính” ( BEB: Benign Essential Blepharospasm), xảy ra ở những người trung niên hoặc lớn tuổi hơn.Tuổi thường gặp BEB là 50-70, đàn bà nhiều gần gấp đôi đàn ông.

BEB là một bịnh gây ra do rối loạn một số bộ phận ("hạch") trong đáy não bộ (basal ganglia), là một bịnh trong nhóm rối loạn về cử động (movement disorder), chúng ta chưa hiểu nguyên nhân rõ rệt. Các "hạch" nằm dưới não trước (forebrain), liên lạc với nhiều phần khác của não bộ, và phụ trách kiểm soát các động tác có ý thức, các động tác theo thói quen như nghiến răng, các cử động của mắt, cũng như các cảm xúc và sự hiểu biết. Nếu kích thích đầu ra (output) của các hạch này yếu quá, những cử động ngoài ý muốn hay không bị kiềm chế có thể xảy ra. Di truyền có một vai trò nào đó.
Mắt chúng ta có mi trên và mi dưới. Một số cơ phụ trách nhắm mắt (protractors: orbicularis oculi, corrugator, and procerus muscles) và một số cơ phụ trách mở mắt (retractors). Hai nhóm này hoạt động đối nghịch chiều với nhau, khi nhóm này co thì nhóm kia giãn ra, hoặc ngược lại. Cảm giác nhận từ mắt đi vào não bộ trung ương, và tín hiệu xuất phát theo dây thần kinh số 7 (thần kinh mặt, facial nerve) ra lịnh cho các cơ nhắm mắt co vào. Lúc cơ chế này hoạt động không nhịp nhàng (defective circuit), mức quân bình các lực giữa các cơ quanh mắt bị rối loạn (dystonia), và người bịnh sẽ cảm thấy một vùng nào đó hay nhiều vùng trong một hoặc hai mi mắt co, giật, hoặc co quắp lại không phải lúc, và chúng ta gọi là bịnh co quắp mi mắt (blepharospasm: blephar: mi mắt, spasm: co quắp, co thắt).
Triệu chứng:
Lúc đầu có thể chỉ là mắt chớp nhanh hơn, thấy giật mi mắt, cảm giác co bóp (eyelid spasm), hay giật giật mi mắt (eye tic) không kiểm soát được. Có thể giật ở vùng giữa mặt hoặc vùng dưới mặt.
Bịnh nặng có thể làm bịnh nhắm mắt chặt lại, khó mở mắt ra, hoặc mở mắt ra thì đau nhức, nhất là nhìn lên phía trên. Bịnh nhân có thể tránh xem tivi, đọc sách vì khó chịu hay đau. Mắt có thể khô, khó chịu lúc ra ánh sáng, và bác sĩ có thể định bịnh lầm là bịnh dị ứng mắt, bịnh khô mắt vì thiếu nước mắt (dry eyes).
Bịnh nhân có thể dễ chịu hơn sau khi ngủ một giấc, thư giản, nhìn xuống, hát, nói hay humming (hát “hư hư” không ra lời).
Một số thuốc bịnh nhân dùng liên hệ với chứng này, ví dụ: thuốc chữa Parkinson; lúc bịnh nhân ngưng thuốc an thần.
Chữa trị:
Những biện pháp giản dị: giảm bớt các chất kích thích như cà phê, giảm thuốc lá, rượu.
Massage vùng thái dương, vùng mặt hai bên cánh mũi, hai cơ hàm (masseter)
Ngủ đủ giờ, có giờ giấc; giảm stress.
Tránh để mắt quá khô, dùng giọt nước mắt nhân tạo (mua không cần toa) nhỏ vào mắt nhiều lần trong ngày, nhất là lúc xem màng hình nhiều, đọc sách nhiều, người lớn tuổi mắt dễ bị khô, lấy khăn nhúng nước ấm đắp vào mắt lúc bắt đầu giật.
Mang kính mát (màu xám/gray) chặn các tia cực tím, làm giảm bịnh mắt đau do nhạy cảm với ánh sáng (oculodynia due to photosensitivity). Đội nón che nắng.
Tập trung vào một việc gì đó như đan, may, làm vườn, nấu ăn (nhìn xuống làm đỡ triệu chứng hơn). Có thể thử hút gió, hát, “humming”, đàn. Một số người giảm triệu chứng tạm thời nếu ống diphenhydramine (Benadryl).
Chữa các bịnh về mắt như viêm các phần khác nhau của mắt nếu có ( vd:viêm mi mắt/blepharitis), khô mắt , dị ứng mắt.
Thuốc men: thường không hiệu nghiệm lắm vì thuốc tác dụng trên não bộ trung ương, nên cơ chế tác dụng chưa hiểu rõ. Những thuốc như thuốc chống trầm cảm ba vòng (tricyclic antidepressant), thuốc an thần như lorazepam, clonazepam; thuốc chống spasm dùng trong bịnh Parkinson (Artane)
Chích botulinum A toxin (Botox) là biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Thuốc do một con vi khuẩn sản xuất, chích vào cơ liên hệ làm gián đoạn truyền dẫn thần kinh từ dây thần kinh qua cơ và làm cho cơ tê liệt. Thông thường dùng với mục đích thẩm mỹ, xoá các vết nhăn trên mặt. Trong trường hợp này cơ làm giật mi mắt không giật nữa. Sau 2-3 ngày, bịnh nhân cảm thấy thuyên giảm. Thuốc tác dụng tối đa sau 5-7 ngày, được vài tháng (6-9) thì hết hẳn tác dụng, thường vài tháng phải chích lại ngăn chặn co giật tái xuất hiện.
Trường hợp hiếm hơn, nếu Botox không hiệu nghiệm trong một số trường hợp mắt đau nhiều, khó mở ra bác sĩ có thể cắt bỏ một số cơ nhỏ phụ trách nhắm mắt (protractor myomectomy).
Một phẫu thuật khác là làm gián đoạn các dây thần kinh giao cảm đi vào mắt (superior cervical ganglion block) vì các dây này phụ trách đem về não bộ những cảm giác bất bình thường từ mắt (từ đó gây ra phản ứng bất bình thường là co giật các cơ mi mắt)
Những trường hợp bịnh nhân từ chối giải phẫu và chích botox không giải quyết được (phải chích vài tháng một lần, đắt tiền), một số bác sĩ dùng phương pháp dùng từ đầu thế kỷ thứ 20 là chích alcohol vào đường đi dây thần kinh và cơ quanh mắt. Có thể gây biến chứng như méo mặt, nhắm mắt không chặt.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Đau nhức trong mắt

Đau nhức mắt có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nguyên nhân hiển nhiên nhất là những bịnh của chính con mắt.
Một lý do gây nhức mắt thường gặp là do mắt làm việc quá nhiều, như xem máy vi tính, điện thoại thông minh, iphone chữ quá nhỏ, trong thời gian kéo dài (eye strain).
Chăm chú nhìn lâu không chớp làm cho mắt khô, có thể nhức nhối, khó chịu, gây luôn nhức đầu chỗ khác.
Người trung niên mắt không còn thích ứng nhìn gần nhìn xa (accommodation) như lúc còn trẻ (presbyopia; gốc Hy lạp:presbus=ông già óp=mắt; "lão thị"), nếu nhìn gần lâu cũng có thể nhức mắt.
Viêm kết mạc (conjunctivitis) là viêm của màng màu trắng bao bọc phía trước của mắt, với ít nhiều mạch máu đỏ, nếu sưng đau, các mạch máu này nổi lên nhiều hơn, và chúng ta gọi là đỏ mắt (pink eye).
Viêm giác mạc (keratitis) là viêm của giác mạc (cornea) phần trong suốt trước con ngươi của mắt. Có thể do nhiễm trùng siêu vi, hay bị chấn thương, một vật lạ (foreign body) đâm vào (do đó lúc dùng máy móc như máy mài, búa nên mang kính an toàn để che chở mắt).
Áp suất trong trong mắt (nhãn áp) tăng lên cao trong bịnh cườm nước (glaucoma) có thể làm nhức ở trong mắt cũng như làm nhức đầu.
Tuy nhiên nếu bác sĩ chuyên khoa mắt đã khám cẩn thận và không tìm thấy vấn đề gì trong mắt thì chúng ta phải nghĩ đến những nguyên nhân khác có thể gây ra đau trong mắt. Ví dụ:
Những xoang (sinus) gần mắt như xoang trán, xoang hàm lúc bị viêm, cơn đau do các bộ phận này gây ra có thể được cảm nhận như là đau ở trong mắt.
Một số trường hợp đau răng cũng có thể làm cho người bệnh thấy đau ở trong mắt mặc dù trong trường hợp này thường thường răng chỉ đau một bên chứ không phải hai bên.
Một số người bị bệnh đau nhức vì viêm thần kinh (neuritis) phụ trách vùng mắt hay vùng mặt cũng có thể cảm thấy đau ở trong mắt mặc dù bác sĩ khám mắt sẽ không thấy gì bất bình thường. Người bịnh có thể đau nhức mắt lúc ra gió, ánh sáng nhiều trong lúc người trung bình thì không thấy khó chịu; nhức mắt có thể từng cơn nhưng có thể mãn tính. Hiện nay , các khảo cứu mới cho thấy mắt bị khô (dry eye) giữ một vai trò quan trọng.
Bịnh co thắt các cơ bao bọc mí mắt cũng có thể làm đau đớn từng cơn (blepharospasm). Trong trường hợp viêm thần kinh, nguyên nhân có thể là một nhánh của dây thần kinh ba nhánh (trigeminal nerve) bị viêm và làm cho đau vùng phía trên của mặt kể cả vùng hai hốc mắt.
Trong một số trường hợp hiếm hơn (“oculo-facial pain”) nguyên nhân cảm giác đau vùng mắt có thể nằm ở trong não bộ là nơi tiếp nhận các cảm giác đi từ mắt vào (neuropathic, central pain); một sự rối loạn trong cách não bộ xử lý những cảm giác đó làm cho người bệnh cảm thấy đau ở mắt mặc dù bản thân bộ phận liên hệ không bị bệnh gì. Cũng tương tự như một số trường hợp một người nào đó đã bị cắt cụt một cánh tay nhưng mà họ vẫn thấy đau ở trong cánh tay đã mất đó; trong trường hợp này người ta gọi cánh tay đó là cánh tay ma (phantom limb) vì trên thực tế nó không còn tồn tại ở đó nữa, bộ óc cảm nhận sai lạc cánh tay đó vẫn còn đó và đang tạo nên cơn đau hành hạ bịnh nhân.
Điều quan trọng cần nhắc nhở ở đây là, nếu khám mắt bình thường mà vẫn đau trong mắt, bác sĩ cần tìm đủ mọi cách để loại bỏ khả năng có một u bướu hay một tổn thương nào đó phía sau của mắt tạo nên cơn đau đó. Chúng ta thể mường tượng hai mắt như hai trái banh bóng bàn nằm trong hai hốc mắt. Phía sau hai trái banh đó là những dây thần kinh, mạch máu nối liền với não bộ phía sau, mà não bộ lại được chứa trong một cái hộp kín bằng xương là hộp sọ. Những thay đổi về thể tích của não bộ sẽ tạo áp suất đè lên trên hai hốc mắt và lên hai tròng mắt. Ví dụ óc phù thủng nước (brain edema), úng thuỷ (hydrocephaly)) do nước trong não (cerebrospinal fluid) không lưu thông bình thường, hay do một u bướu mô óc, hay một mạch máu trong óc phình ra một cách bất bình thường (aneurysm) do vách của mạch bị hư hại yếu đi (tương tự như ruột bánh xe đạp gặp chỗ yếu bị phình ra trước khi vỡ). Hút thuốc lá, áp huyết cao, bịnh xơ vữa động mạch là những yếu tố cơ nguy của phình động mạch.
Những trường hợp như vậy có thể làm bịnh nhân nhức đầu trong hai hốc mắt, có thể kèm theo những triệu chứng như chóng mặt, buồn mửa (nôn), thấy một thành hai (diplopia). Bác sĩ có thể thấy mắt lồi ra, hay mí mắt sụp xuống (ptosis), hay các mạch máu trên kết mạc giãn ra to làm "mắt đỏ" (có thể định bịnh lầm là viêm kết mạc [conjunctivitis]), hay thị trường (visual field) của bịnh nhân bị hẹp lại, hay trong võng mô đầu của thần kinh thị giác bị phù (papilledema). Tuy nhiên, những triệu chứng và dấu hiệu trên có thể không tồn tại và dấu hiệu duy nhất của u bướu hay tổn thương của não bộ hay mạch máu của não bộ phía sau mắt là cơn đau nhức cảm nhận phía sau, trên hay giữa hai mắt. Nếu nghi có vấn đề đáng kể cần chẩn đoán chính xác hơn, bác sĩ có thể dùng kỹ thuật hình ảnh CT hay MRI với chất cản quang (with contrast) chích vào máu để kiểm soát xem não bộ và các mạch máu có bình thường hay không và chung quanh mắt có u bướu hay vấn đề gì khác không.
Tóm lại, nếu bịnh nhân đau trong mắt mà bác sĩ chuyên khoa mắt khám không thấy gì, nên xem lại mình được khám về khúc xạ (refraction) hay không, có viễn thị (hyperopia, or farsightedness), loạn thị (astigmatism) cần mang kính (gương) hay không, mình cần nghỉ ngơi mắt hay không; mắt có bị quá khô cần nhỏ nước mắt nhân tạo hay không. Nếu không bớt, nên nhờ bác sĩ gia đình xem xét hồ sơ, bịnh sử, khám lại kỹ càng. Nếu còn nghi vấn, cần nhờ bác sĩ thần kinh, bác sĩ tai mũi họng và bác sĩ y khoa hình ảnh /quang tuyến xem lại, nhất là cần loại bỏ khả năng nhức đầu vì migraine, vì huyết áp cao; loại bỏ khả năng có những tổn thương như u bướu não, u bướu thần kinh, phình động mạch là áp lực lên trên mắt và gián tiếp gây đau trong mắt.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bệnh bạch tạng

Đa số trong chúng ta đều đã từng nghe qua hay biết một người có bệnh bạch tạng vì bệnh này khá thông thường. Bệnh nhân bạch tạng thường khó chịu vì bị người lạ nhìn với vẻ mặt tò mò, đôi khi xoi mói, vì những mảng da trắng toát trên mặt, cổ, tay chân và trên thân mình. Những mảng da trắng toát này rất dễ thấy, nhất là ở những người da đậm mầu hơn.
Triệu chứng
Như trên đã nói, triệu chứng chính của bệnh bạch tạng chỉ là những mảng da trắng như sữa bắt đầu chỉ là một khoảng nhỏ rồi lan dần ra thành những mảng lớn, có khi chiếm hết cả khuôn mặt, hoặc những vùng khác của cơ thể.
Những triệu chứng ít thấy hơn của bệnh bạch tạng gồm có:
- Tóc, lông mi lông mày, râu bị bạc sớm trước tuổi
- Màng lót trong miệng bị mất mầu đỏ
- Võng mạc (retina) của mắt bị mất hay đổi mầu

Dù bất cứ vùng nào của cơ thể cũng có thể bị mất mầu nhưng những vùng hay lộ ra dưới ánh nắng mặt trời như bàn tay, bàn chân, cánh tay, mặt, môi thường bị mất mầu trước. 

Cũng vậy, bạch tạng có thể bắt đầu ở bất cứ tuổi nào nhưng thường nhất là giữa 10 và 30 tuổi. Thường có 3 hình thức bệnh bạch tạng:

- Tập trung một vùng: Bạch tạng chỉ có ở 1 hay vài vùng nhỏ của cơ thể
- Tập trung một phần (segment): Da chỉ bị trắng một bên của cơ thể
- Toàn thân: Da trắng bất cứ nơi đâu trong cơ thể và thường đối xứng nhau.
Diễn tiến của bệnh bạch tạng khó tiên đoán được. Bệnh có thể lan ra rồi ngưng lại nhưng cũng có thể lan ra mãi cho đến hết cả thân và mặt.

Dù không thể chữa cho hết bệnh được, tiến triển của bệnh có thể được ngăn chặn. Do đó bệnh nhân nên tìm gặp bác sĩ để được chữa trị càng sớm càng tốt.
Nguyên nhân
Bệnh bạch tạng xuất hiện khi chất sắc tố melanin torng làn da bị tiêu hủy hay ngưng sản xuất khiến phần da đó bị trắng ra. Nguyên nhân tại sao chuyện này xẩy ra thì vẫn chưa được biết. Tuy nhiên, nhiều giả thuyết được đưa ra: do bệnh hệ miễn nhiễm, di truyền, do bị cháy nắng hay bị xúc cảm quá độ khiến phát ra bệnh...
Định bệnh
Khi đến khám bệnh, bệnh nhân sẽ được bác sĩ hỏi kỹ về bệnh sử cá nhân, cũng như bệnh sử gia đình, và khám bệnh toàn thân. Sau đó, bác sĩ có thể cho làm sinh thiết (biopsy) da và thử nghiệm máu để định bệnh và tìm nguyên nhân. Bác sĩ cũng có thể cho bệnh nhân đi khám mắt nơi bác sĩ chuyên môn mắt để tìm xem họ có bị bệnh trong mắt không.
Chữa bệnh
- Không phải lúc nào cũng cần chữa bệnh bạch tạng. Bệnh nhân có thể bôi kem chống nắng và bôi kem che vết trắng để dễ coi hơn. Người đã sẵn có làn da trắng chỉ cần tránh bị nắng ăn (tan). Nếu bị quá nhiều chỗ và quá lớn, bệnh nhân có thể được chữa để làm làn da có mầu đều hơn bằng nhiều cách.
- Thuốc corticosteroids có thể làm da có mầu trở lại, nhất là dùng sớm. Bệnh nhân có thể phải dùng thuốc ít nhất là 3 tháng trước khi thấy có hiệu quả và cần được bác sĩ theo dõi để tìm những tác dụng phụ có hại. Thuốc calcipotriene (Doconex) cũng có thể được dùng riêng trên da hay kèm với corticosteroids và tia ultraviolet.

- Ngoài ra còn rất nhiều những thuốc khác dùng thoa da hay uống, cũng như các phương pháp giải phẫu ghép da hay tia UV được dùng để chữa bệnh bạch tạng, nhất là cho những người bị nặng. Tuy nhiên các thuốc này đều có những tác dụng phụ có hại, cần được cân nhắc kỹ trước khi dùng.
Những phương pháp tự giúp
- Bảo vệ da: Nếu bạn bị bệnh bạch tạng, bạn còn cần bảo vệ da hơn: dùng kem chống nắng với độ SPF 30 hay hơn để khỏi bị cháy nắng và những hư hại da về sau cũng như khỏi làm da nâu hơn khiến những chỗ da trắng nổi bật lên.

- Che khuyết điểm trên da bằng cách dùng kem như Dermablend hoặc thuốc thoa cho da nâu (sunless tanning)
- Thuốc ta: Những bệnh nhân có bệnh lan chậm có thể uống 40mg ginkgo 3 lần mỗi ngày để bệnh khỏi lan thêm. Nên hỏi ý kiến bác sĩ trước.
- Bệnh nhân bạch tạng có thể phải đau khổ vì sự khác biệt trên dung nhan và những cái nhìn tò mò của người lạ. Họ có thể thấy xấu hổ, ngại ngùng, trầm cảm nữa, nhất là ở người trẻ tuổi bị bạch tạng nhiều chỗ. Bệnh nhân có thể áp dụng những cách sau đây để tìm lại an ổn tinh thần:
- Tìm bác sĩ da biết nhiều về bệnh bạch tạng để tham khảo
- Tìm hiểu về bệnh bạch tạng và cách chữa bệnh càng nhiều càng tốt để có thể góp ý vào việc chữa bệnh của chính mình.
- Nếu cảm thấy tuyệt vọng, trầm cảm, nên nói cho bác sĩ biết để tìm chữa trị.
- Gia nhập những nhóm hỗ trợ để có thể cùng nhau chia sẻ những thông tin về bệnh cũng như nỗi lòng của mình. Có thể gọi National Vitiligo Foundation số 513- 541- 3903 hay Vitiligo Support International số 818- 752- 9002 để tìm những nhóm hỗ trợ trong vùng mình ở.
- Tâm sự với người thân của mình để tìm sự thông cảm và hỗ trợ.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Viêm thấp khớp (Rheumatoid Arthritis)

Viêm thấp khớp là một bệnh viêm kinh niên ảnh hưởng đến nhiều vùng cơ thể chứ không phải chỉ ở khớp xương như tên của nón. Ở một số người, bệnh này có thể gây tác hại trên một loạt các hệ thống cơ thể, như da, mắt, phổi, tim và mạch máu.

Viêm thấp khớp xảy ra khi hệ thống miễn dịch tấn công nhầm các mô cơ thể của chính mình.
Không giống như các thiệt hại do sử dụng nhiều của bệnh viêm xương khớp, viêm thấp khớp ảnh hưởng đến niêm mạc của khớp xương, gây sưng đau, cuối cùng có thể dẫn đến xói mòn xương và biến dạng khớp.
Các chứng viêm khác đi chung với viêm thấp khớp có thể làm hư hại các bộ phận khác của cơ thể. Các loại thuốc mới hiện nay có thể giúp bệnh nhân rất nhiều so với trước kia nhưng bệnh nặng vẫn đưa tới khuyết tật.
Triệu chứng
Gồm có:
- Khớp bị sưng , nóng, đau
- Các khớp xương bị cứng, nặng hơn vào buổi sáng và sau một thời gian không hoạt động
- Mệt mỏi, sốt và giảm cân
Bệnh viêm thấp khớp thời gian đầu thường xảy ra ở các khớp nhỏ - đặc biệt là các khớp gắn các ngón tay vào bàn tay hay các ngón chân vào bàn chân.
Khi bệnh tiến triển xa hơn, các triệu chứng thường lan đến cổ tay, đầu gối, mắt cá chân, khuỷu tay, hông và vai. Trong hầu hết các trường hợp, các triệu chứng xảy ra ở các khớp giống nhau trên cả hai bên của cơ thể.
Khoảng 40 phần trăm bệnh nhân có các triệu chứng không liên quan đến các khớp ở các bộ phận sau đây của cơ thể: da, mắt, phổi, tim, thận, tuyến nước bọt, mô thần kinh, tủy xương, mạch máu.
Các triệu chứng có thể nặng nhẹ khác nhau, có thể xảy ra trong một thời gian rồi hết đi. Có những thời kỳbệnh nặng lên, xen kẽ với những giai đoạn bệnh thuyên giảm tương đối, lúc triệu chứng sưng và đau bớt đi hoặc biến mất. Theo thời gian, các khớp xương có thể biến dạng vàdời chỗ.
Nguyên nhân
- Viêm thấp khớp (rheumatois arthritis) khác với viêm xương khớp (osteoarthritis)
Viêm thấp khớp xảy ra khi hệ thống miễn dịch tấn công các lớp màng bao quanh khớp của bạn. Hiện tượng viêm làm lớp màng này dày lên và cuối cùng có thể phá hủy sụn và xương trong khớp. Các gân và dây chằng giữ khớp xương bị suy yếu và căng ra. Dần dần, các khớp mất hình dạng và sự thẳng hàng.
Chưa hiểu được tại sao các tiến trình này bắt đầu, có thể có yếu tố di truyền. Các gene không thực sự gây ra bệnh nhưng có thể làm cho nạn nhân nhạy cảm hơn với các yếu tố môi trường - chẳng hạn như nhiễm vi trùng hay siêu vi - có thể gây ra bệnh.
Các yếu tố nguy cơ
Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm thấp khớp gồm có:
- Giơi tính. Phụ nữ dễ bị hơn nam giới.
- Tuổi tác. Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng thườngc bắt đầu trong độ tuổi từ 40 đến 60.
- Bệnh sử gia đình. Nếu một thành viên của gia đình bị bệnh, bạn có thể nguy cơ cao mắc bệnh.
- Thuốc lá. Hút thuốc lá làm tăng nguy cơ phát triển bệnh nhất là khi bạn có một khuynh hướng di truyền mắc bệnh. Hút thuốc cũng liên quan tới mức độ nghiêm trọng của bệnh.
- Môi trường tiếp xúc. Mặc dù không chắc chắn và chưa hiểu rõ cơ chế, một số chất như abestos hoặc silica có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Nhân viên cấp cứu tiếp xúc với bụi từ sự sụp đổ của Trung Tâm Thương Mại Thế Giới có nguy cơ cao mắc các bệnh tự miễn như viêm thấp khớp.
- Béo phì. Những người dư cân hoặc béo phì có nguy cơ khá cao mắc bệnh, đặc biệt là ở phụ nữ được chẩn đoán bệnh ở 55 tuổi trở xuống.
Các biến chứng
- Loãng xương. Chính bệnh viêm thấp khớp, vàmột số loại thuốc điều trị viêm có thể làm tăng nguy cơ loãng xương, làm suy yếu xương và dễ bị gãy xương.
- Cục phong thấp. Những cục này thường nổi lên các vùng nhô ra dễ bị va chạm (điểm áp lực), chẳng hạn như khuỷu tay. Tuy nhiên, chúng có thể nổi lên ở bất cứ nơi nào trong cơ thể, bao gồm cả phổi.
- Khô mắt và miệng. Bệnh nhân viếm thấp khớp dễ bị hội chứng Sjogren, một rối loạn làm giảm lượng ẩm trong mắt và miệng.
- Nhiễm trùng. Chính căn bệnh và nhiều loại thuốc chữa bệnh có thể làm suy giảm hệ thống miễn dịch, dẫn đến dễ bị nhiễm trùng.
- Thành phần cơ thể bất thường. Tỷ lệ chất béo thường cao hơn ở những người bị viêm thấp khớp, ngay cả ở những người có chỉ số khối cơ thể bình thường (BMI).
- Hội chứng carpel tunnel. Nếu bệnh xảy ra ở cổ tay, hiện tượng viêm có thể làm đè nén các dây thần kinh ở các bàn tay và các ngón tay gây ra hội chứng này.
- Vấn đề tim mạch. Viêm thấp khớp có thể làm tăng nguy cơ xơ cứng và nghẽn động mạch cũng như viêm màng bọc quanh trái tim.
- Bệnh phổi. Bệnh nhân bị tăng nguy cơ viêm vàgây sẹo các mô phổi, có thể dẫn đến khó thở.
- Ung thư hạch. Viêm thấp khớp làm tăng nguy cơ ung thư hạch, một nhóm các bệnh ung thư máu phát triển trong hệ thống bạch huyết.
Định bệnh
Viêm thấp khớp có thể khó chẩn đoán ở giai đoạn đầu vì những triệu chứng ban đầu giống triệu chứng của nhiều bệnh khác. Không có xét nghiệm máu riêng hay một dấu hiệu thể lý riêng để xác định chẩn đoán.
- Các xét nghiệm máu
Những người bị viêm khớp dạng thấp thường có một tỷ lệ lắng hồng cầu (ESR) cao hoặc protein phản ứng C (CRP) cao, dấu hiệu của một tiến trình viêm trong cơ thể. Các thử nghiệm khác gồm có rheumatoid factor và anti- CCP.
Điều trị
- Không có thuốc điều trị riêng biệt cho bệnh viêm thấp khớp. Hiện nay có rất nhiều thuốc khác nhau và mới hơn được sử dụng để làm giảm bớt triệu chứng bệnh.

Những loại thuốc này có thể nhắm vào những phần của hệ thống miễn dịch đã tạo ra phản ứng viêm gây tổn thương khớp và các mô. Những loại thuốc này cũng làm tăng nguy cơ nhiễm trùng.
- Bác sĩ có thể gửi bạn tới các chuyên viên trị liệu thể lý hoặc nghề nghiệp để học những bài tập giúp giữ cho các khớp xương của bạn linh hoạt. Họ cũng có thể đề nghị những cách thức mới để làm việc hàng ngày giúp các khớp ít bị áp lực hơn. Ví dụ, nếu ngón tay của bạn bị đau, bạn có thể chọn dùng cánh tay để nhấc một vật gì lên.

- Những thiết bị trợ giúp có thể giúp bạn làm việc dễ dàng hơn và tránh áp lực lên những khớp đau. Ví dụ, một con dao nhà bếp được trang bị với một tay cầm giống như cán cưa giúp bảo vệ khớp ngón tay và cổ tay. Một số công cụ, như buttonhooks, có thể giúp việc mặc quần áo dễ dàng hơn. Catalogs và các cửa hàng cung cấp y tế là nơi tốt để tìm kiếm ý tưởng.

- Giải phẫu. Nếu thuốc không giúp ngăn chặn hoặc làm chậm tổn thương khớp, có thể phải cần đến giải phẫu để sửa chữa những hư hại hầu giúp khôi phục lại khả năng sử dụng khớp. Nó cũng có thể làm giảm đau và dị dạng.

Nhưng giải phẫu có nguy cơ chảy máu, nhiễm trùng và đau đớn. Nên thảo luận kỹ về những lợi ích và rủi ro của giải phẫu với bác sĩ.
Trị liệu khác
Một số phương pháp điều trị bổ sung có nhiều triển vọng cho bệnh viêm khớp dạng thấp bao gồm:
- Dầu cá. Một số nghiên cứu đầu tiên cho thấy uống thêm dầu cá có thể làm giảm đau viêm thấp khớp và bớt độ cứng khớp. Các tác dụng phụ có thể bao gồm buồn nôn, ợ hơi và một hương vị tanh trong miệng. Dầu cá có thể ảnh hưởng đến các thuốc đang uống, nên hỏi bác sĩ trước khi uống.
- Dầu thực vật. Các hạt giống hoa anh thảo, cây lưu ly và nho đen chứa một loại acid béo có thể giúp giảm đau và cứng khớp buổi sáng. Các tác dụng phụ có thể bao gồm buồn nôn, tiêu chảy và tăng hơi. Một số loại dầu thực vật có thể gây tổn thương gan hoặc ảnh hưởng đến thuốc đang uống, nên hỏi bác sĩ của bạn trước.
- Tai Chi. Liệu pháp này sử dụng các bài tập nhẹ nhàng và trải dài kết hợp với thở sâu. Nhiều người sử dụng tai chi để giảm căng thẳng trong cuộc sống của họ. Nghiên cứu cũng cho thấy tai chi có thể làm giảm đau. Khi được dẫn dắt bởi một huấn luyện viên có kiến thức, tai chi thường an toàn. Nhưng không nên làm bất kỳ chuyển động nào gây đau.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Monday, November 6, 2017

Chứng ngứa da

Ít ai chịu đựng được cơn ngứa ngoài da. Và ai ít nhất cũng bị ngứa da vài lần. Quá tầm thường như vậy nhưng ngứa da cũng có thể làm ta rất khó chịu và gây ra do nhiều nguyên nhân. Ngứa có thể là triệu chứng của một bệnh ngoài da như bệnh phong vẩy nến (psoriasis), bệnh viêm da (dermatitis) mà cũng có thể có nhiều nguyên nhân quan trọng hơn như bệnh gan hay bệnh suy thận. Da của bạn có thể trông rất bình thường hay bị sưng đỏ, nổi vẩy, mọng nước... Muốn chữa hết bệnh, cần tìm ra nguyên nhân.a
Triệu chứng
Ta có thể bị ngứa ở một vùng da nhỏ hoặc cả thân người. Da có thể bình thường hoặc bị đỏ, nổi hột, nổi phồng, khô nứt hay dầy lên, có vẩy...
Ngứa da có thể kéo dài lâu và có thể rất nặng. Càng gãi người ta càng thấy ngứa và rồi người ta càng gãi. Thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này có thể rất khó.
Khi nào nên gặp bác sĩ?
Nên gọi lấy hẹn đi khám bệnh khi chứng ngứa da của bạn:
- Kéo dài hơn 2 tuần không giảm
- Rất nặng khiến bệnh nhân rất khó chịu không làm việc hay ngủ được
- Không có nguyên nhân gì thấy được, thí dụ như bị sâu bọ cắn
- Ngứa khắp người
- Có những triệu chứng khác kèm theo như rất mệt, xuống cân, thói quen đi cầu thay đổi, tiểu bất thường, sốt, da đỏ lên...
Nguyên nhân 
Chứng ngứa da có thể gây ra do những nguyên nhân sau:
- Da khô: Ngứa mà da không nổi đỏ thường là do da bị khô vì những nguyên nhân bên ngoài, thí dụ như khí hậu nóng hay lạnh và khô, dùng máy lạnh hay máy sưởi quá lâu, hoặc rửa tay, tắm quá thường.
- Bệnh da: Phong vẩy nến, viêm da, ghẻ, chấy rận, bệnh thủy đậu, dị ứng da... Những bệnh này thường xẩy ra ở những vùng đặc biệt và có những triệu chứng khác đi kèm theo như da đỏ lên, mọc mụt hay vẩy, phồng nước...
- Bệnh bên trong: Gồm có bệnh gan, bệnh không hấp thụ lúa mì được (celiac disease), suy thận, thiếu chất sắt, bệnh tuyến giáp trạng, ung thư. Trong những trường hợp này, bệnh nhân thường ngứa hết cả người, da thì trông bình thường không có triệu chứng gì cả.
- Dị ứng: Những chất như len, chất hóa học, xà bông... có thể làm da bị ngứa hay gây ra dị ứng, thí dụ như poison ivy, son phấn... Dị ứng thức ăn cũng có thể gây ra ngứa.
- Thuốc men: Phản ứng với thuốc trụ sinh, thuốc chữa nấm hay thuốc giảm đau có ma túy... có thể gây ra nổi mẩn đỏ và ngứa.
- Có thai: Nhiều bàbị ngứa da trong thời gian mang thai, nhất là vùng bụng, đùi, vú và cánh tay. Những người bị viêm da thường bị ngứa nặng hơn trong lúc có thai.
Biến chứng
Ngứa và gãi lâu ngày có thể làm tăng cái ngứa và đưa tới biến chứng da bị dầy lên như da thuộc, trong ướt và thẫm mầu hơn những chỗ da bình thường. Gãi lâu ngày cũng có thể gây ra nhiễn trùng, bị sẹo vĩnh viễn hay đổi mầu da.
Chữa ngứa
Khi đến gặp bác sĩ, bệnh nhân sẽ được hỏi bệnh sử và khám bệnh, nếu cần sẽ được cho thử máu hoặc thử nghiệm một miếng da bệnh để tìm nguyên nhân. Một khi nguyên nhân đã được tìm ra, bệnh nhân có thể được chữa bằng những cách sau:
- Thuốc uống hay thuốc bôi da: Thuốc uống có thể là thuốc chống dị ứng, còn thuốc bôi thì là thuốc trị viêm da.
- Đắp ướt: Sau khi thuốc đã được bôi lên chỗ da ngứa, những miếng vải thấm ướt được đặt lên da để giúp thuốc mau ngấm hơn.
- Chữa những bệnh bên trong: Khi những bệnh như suy thận, thiếu chất sắt, bệnh tuyến giáp trạng... đã được chữa khỏi, bệnh nhân thường sẽ hết ngứa.
- Chữa bằng ánh sáng: Da được chiếu bàng tia sáng tử ngoại nhiều lần cho đến khi hết ngứa.
Nhiều bệnh ngứa được chữa hết bằng những phương pháp trên. Tuy nhiên nhiều khi cũng không hết ngay được, phải dùng đến những loại kem chế tạo đặc biệt để trị ngứa. Đó là những loại kem thuốc tê như lidocaine hay benzocaine; kem bạc hà, camphor hay calamine. Dù những loại kem này thường làm giảm cơn ngứa ngay, bệnh nhân cần được chữa trị tận gốc bằng cách chữa nguyên nhân gây ra ngứa.
Tự giúp
Bệnh nhân có thể dùng những phương pháp sau đây để cảm thấy dễ chịu hơn:
- Thoa kem chống ngứa: Có thể mua kem bán tự do như hydrocortisone 1% thoa để giúp bớt ngứa. Cũng có thể mua thuốc uống chống ngứa bán tự do như Benadryl nếu bị ngứa nặng hơn.
- Tránh gãi nếu có thể được. Che chỗ bị ngứa lại. Cắt móng tay ngắn và giũa cho khỏi nhám, mang găng tay lúc đi ngủ.
- Đắp khăn ướt lên chỗ ngứa để bảo vệ da và tránh gãi.
- Tắm nước mát. Rắc baking soda, oatmeal chưa nấu chín hoặc colloidal oatmeal tức oatmeal nghiền nhỏ (Aveeno) vào nước tắm.
- Mặc áo bằng vải sợi cotton mềm để tránh bị khó chịu
- Chọn xà bông nhẹ không có mùi hay chất thuốc nhuộm để tắm. Rửa sạch xà bông, sau đó thoa một lớp lotion làm ẩm để bảo vệ da.
- Dùng thuốc giặt nhẹ, không có mùi để giặt khăn tắm, quần áo, khăn trải giường. Khi giặt nên dùng phần "extra rinse" trong máy giặt để rũ mất hoàn toàn thuốc giặt.
- Tránh những chất có thể làm da bị tổn thương hay gây ra phản ứng như chất kền nickel, nữ trang, nước hoa, phấn son, những chất dùng tẩy giặt...

BS Nguyễn Thị Nhuận