Monday, October 30, 2017

Enzyme Gan GGT

Trong sự vận hành của cơ thể chúng ta, các phản ứng sinh hoá hoá học cần phải xảy ra nhanh trong những điều kiện bình thường về nhiệt độ, áp suất, pH mà cơ thể chấp nhận được, do đó cần những chất giúp cho phản ứng xảy ra dễ dàng hơn, các chất này gọi là chất xúc tác (catalyst) được nhà bác học người Đức Wilhelm Kühne (1837–1900) đặt tên mới là "enzyme", gốc Hy lạp có nghĩa là : en=ở trong; zyme: men (leaven, yeast) ví dụ như “men” làm rượu từ gạo. Việt Nam dịch là enzym; tuy cũng gọi nôm na là 'men'. Tuy nhiên, men là những sinh vật (living organism) trong lúc enzym là một protein, một chất có thể được trích ra từ một sinh vật chứ không phải là một sinh vật. Ví dụ trong dạ dày không thể dùng nhiệt độ cao, áp suất cao như trong nồi nấu thịt cho nhừ được, nên có tiết ra một enzyme để giúp tiêu hoá thịt thành những phân tử nhỏ hơn gọi là pepsin.
GGT, viết tắc của Gamma Glutamyl Transferase là một enzym xúc tác cho sự di chuyển của nhóm gamma-glutamyl trong một phản ứng hoá học xảy ra trong nhiều bộ phận của cơ thể, đặt biệt là gan. GGT còn hiện diện trong màng tế bào của tuỳ tạng (pancreas), mô thận, túi mật, lá lách (spleen), tim, và túi tinh dịch (seminal vesicles), giúp chuyên chở các amino-acid vào trong tế bào và giúp ổn định các tế bào chống stress do oxi-hoá (homeostasis).
Trên thực tế, nếu mức GGT lên cao trong máu, người ta nghĩ đến một sự hư hại nào đó của gan, túi mât (mật bị ứ đọng trong gan, cholestasis) , hoặc gần đây hơn như là một "marker" cho các bịnh tim mạch hay bịnh nghiện rượu (alcohol abuse) . Nói chung , GGT là một test nhạy cảm đối với bịnh gan mật, nhưng không chuyên biệt lắm.Ví dụ trong 100 người GGT cao, chỉ có chừng 30% bị bịnh gan mật. Tình trạng ống dẫn mật bị nghẹt (ví dụ do sạn trong túi mật) hay mật bị ứ đọng trong gan , hay một số chất như alcohol có khả năng kích thích sự sản xuất ra GGT (enzyme induction) , nên đo sẽ thấy mức enzyme GGT lên cao trong máu. Tuy nhiên lúc screen xem gan, túi mât có bị tổn thương không,người ta thường bắt đầu bằng những enzym khác như ALT (alanine aminotransferase, trước đây SGPT) hay AST ((aspartate transaminase, hay SGOT). Các máy tự động bây giờ làm các thí nghiệm hàng loạt trên một mẫu máu nhỏ, cho nên trong một nhóm thử nghiệm cơ năng gan (liver function panel), lúc bịnh nhân check-up, bs có thể order một lượt các test này chung với nhau. Diễn dịch ý nghĩa các kết quả tuỳ thuộc vào mỗi trường hợp bịnh lý cũng như kết quả các test khác cũng là thước đo của cơ năng gan, như alkaline phosphatase [ALP) (nếu ALP cao thì có thể do bịnh xương hay do bịnh gan mật, nếu cao, bs cho thử GGT, nếu GGT cũng cao thì nghi bịnh gan, nếu GGT không cao thì nghi bịnh xương), nồng độ albumin trong máu, mức bilirubin (do gan sản xuất), vv .Riêng trong trường hợp người già bị bịnh gan-mật, các marker như ALT, AST có thể không tăng đến mức báo động vì cơ thể người già không còn phản ứng như trước với bịnh ở gan, trong lúc đó GGT cao vẫn báo động có bịnh ở đâu đó.
Trong một khảo cứu bao gồm 100 trường hợp GGT tăng cao ở Turkey, nguyên nhân chính là bịnh gan, đa số là do gan nhiễm mỡ không phải do rượu (non alcoholic steatohepatitis), rồi đến viêm gan, xơ gan, u gan; bịnh mật-túi mật, nhất là sạn túi mật ; một số ít do dùng thuốc loại NSAIDS (thuốc giảm viêm không phải corticoid), nhiễm trùng đường tiểu.
Nếu gan, túi mật theo dõi qua thử máu và siêu âm không có vấn đề gì, có thể nhờ bs gia đình hay nội thương xét đến những nguyên nhân ở các bộ phận khác như tuỳ tạng, tim mạch,tuyến tiền liệt, phổi (ung thư phổi), hay tìm hiểu có xài một số thuốc có thể làm tăng cao GGT trong máu, như carbamazepine, cimetidine, furosemide (Lasix, lợi tiểu), heparin (làm máu bớt đông lại, làm loãng máu), isotretinoin, methotrexate, thuốc viên ngừa thai cho phụ nữ (oral contraceptives), phenobarbital, phenytoin, valproic acid (chống co giật). Tuy nhiên thường GTT chỉ cao ít thôi trong các trường hợp này.
Cho nên trong trường hợp vị thính giả, chỉ có bác sĩ chuyên khoa của bịnh nhân là có đủ tin tức để quyết định phải làm gì thêm nữa. Nếu bịnh nhân không vừa ý có thể nhờ một bác sĩ khác xem xét kỹ lưỡng hơn và cho biết ý kiến.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Trị bệnh trầm cảm

Thống kê ở Mỹ cho biết 100 người lớn, đến 6-7 người mắc chứng trầm cảm, và có những thuốc được chứng minh là hiệu nghiệm chữa bịnh trầm cảm. Theo luật ở Mỹ, bác sĩ phải đối mặt với bịnh nhân và thiết lập quan hệ chính thức giữa người chữa bịnh và người bịnh, có khám bịnh và hồ sơ bịnh án đàng hoàng mới biên toa cho bịnh nhân được. Tôi thiết nghĩ luật lệ ở Việt Nam cũng vậy.
Tuy nhiên, đối phó với các triệu chứng trầm cảm không phải chỉ có thuốc mà thôi. Người bịnh cần tìm hiểu thêm về bịnh của mình, trước hết là xem chứng trầm cảm có phải do một bịnh gì khác gây ra hay không. Ví dụ bịnh suy tuyến giáp (hypothyroidism; tuyến giáp: tuyến hình chữ H hoa, nằm trước cổ) cũng làm bịnh nhân thấy mất sinh lực, buồn bã; một số thuốc beta-blocker như Lopressor dùng chữa bịnh huyết áp cao có thể gây trầm cảm. Thuốc ức chế bơm proton (proton pump inhibitor, vd omeprazole/Prilosec) để trị bịnh dạ dày quá nhiều axít, thuốc an thần, thuốc statin hạ cholesterol (vd Lipitor), ngay cả một số thuốc kích thích (stimulant) cũng có thể gây trầm cảm. Tâm lý trị liệu (psychotherapy) có thể hiệu nghiệm nhưng cần phải chọn người tâm lý gia (therapist) thích hợp. Thuốc men cũng vậy, có thể phải thử nhiều thuốc mới tìm thấy thuốc hợp với mình.
Có những biện pháp hữu hiệu có ích cho người bịnh:
  • thể thao, thể dục, ví dụ đi bộ, chạy 30 phút ngày, có thể đủ để giải quyết trầm cảm,
  • dinh dưỡng: các bữa ăn nhỏ và đều đặn, không dùng đường nhiều quá, mà dùng những chất tinh bột cabohydrate hấp thụ chậm hơn,
  • ngủ đúng giờ, đầy đủ, ít lắm là 7-8 giờ/ ngày,
  • giao thiệp, kết nối với bạn bè, người thân, nâng đỡ nhau; tìm người mình có thể tâm sự, không co rút, ngại ngùng giấu diếm nỗi lo, ưu tư của mình.
Các chế phẩm từ thảo dược và một số "thực phẩm bổ sung" (dietary supplements) có thể có tác dụng tốt trên những triệu chứng trầm cảm, nhưng cần nghiên cứu nhiều hơn để xác định loại nào có ích nhất.
Đối với y khoa tại Mỹ, cơ quan kiểm soát thực phẩm và thuốc (FDA) không công nhận những chất bổ sung này là "thuốc" (drug, medicine), dù cần toa hay không, để trị bịnh trầm cảm. Cho nên FDA có thể không quản lý và kiểm soát các chất này lúc chúng được quảng cáo và bán trên thị trường. Người dùng các chất này phải tự mình tìm hiểu từ những nguồn thông tin đáng tin cậy, kiểm tra phẩm chất thuốc, dùng liều vừa phải sau khi tham khảo với bác sĩ của mình nếu cần. Điểm quan trọng nhất là không được ngưng thuốc của bác sĩ kê toa một cách đột ngột và thay thế bằng các chất "bổ sung" này. Cũng không được dùng các chất "bổ sung"này chung với thuốc chống trầm cảm do bác sĩ kê đơn vì tác dụng từ hai bên có thể cọng lại và gây tình trạng nguy hiểm, một trong những lý do là mức serotonin trong cơ thể có thể lên cao quá mức.
1. St John Wort: Trong St John's wort: wort=cây, cây thuốc, dược thảo; khóm cây này ra hoa vàng nhìn tương tự như hoa mai chúng ta,vào khoảng tháng 6 lúc lễ ông Thánh Gioan (Baotixita), được dùng ở châu Âu từ thời cổ đại Hy-lạp để trừ tà và chữa nhiều bịnh khác nhau, như bịnh ngoài da, bịnh hành kinh phụ nữ, bịnh đau nhức. Chất “bổ sung thảo dược” (herbal supplement) này không được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) chấp thuận để điều trị chứng trầm cảm ở Hoa Kỳ, nhưng được dùng để điều trị trầm cảm phổ biến ở Châu Âu. Mặc dù có thể hữu ích cho trầm cảm nhẹ hoặc trung bình, cần cẩn thận. St. John Wort có thể tương tác với nhiều loại thuốc, bao gồm thuốc giảm cân, thuốc ngừa thai, hoá trị liệu, thuốc chống HIV / AIDS, thuốc chống cơ chế đào thải của cơ thể sau khi cấy ghép các bộ phận (drugs against organ rejection). Ngoài ra, tránh dùng St. John Wort trong khi dùng thuốc chống trầm cảm - sự kết hợp có thể gây ra các phản ứng phụ nghiêm trọng.
2. SAMe: "Chất bổ sung" này là một dạng tổng hợp của một chất hóa học xảy ra tự nhiên trong cơ thể. SAMe (phát âm “Xam-I”) viết tắt của S-adenosylmethionine. SAMe không được FDA chấp thuận để điều trị chứng trầm cảm ở Hoa Kỳ, nhưng được sử dụng ở Châu Âu như một loại thuốc theo toa để điều trị chứng trầm cảm. SAMe ảnh hưởng đến chất truyền dẫn serotonin trong não bộ. SAMe có thể hữu ích, nhưng cần nhiều nghiên cứu hơn. Trong liều cao hơn, SAMe có thể gây buồn nôn và táo bón. Không sử dụng SAMe nếu bạn đang dùng thuốc chống trầm cảm theo toa/đơn - kết hợp cả hai thứ có thể dẫn đến các phản ứng phụ nghiêm trọng.
3. Omega-3 fatty acids:
Hiện nay một trong những bận tâm lớn của y khoa phòng ngừa là tìm cách hạ cholesterol trong máu để giảm những biến cố về tim mạch như tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim. Tuy vấn đề này còn trong vòng tranh luận, có những bằng chứng cho thấy ăn ít mỡ và hàm lượng cholesterol thấp trong máu có thể liên hệ đến bịnh trầm cảm và tự sát (mood disorders; "rối loạn về tâm cảnh"). Lý do là cholesterol đóng vai trò quan trọng trong trong việc tổng hợp serotonin, trong biến dưỡng các tế bào thần kinh và trong những hormone liên quan đến stress và tính dục (stress and sex hormones) cũng như biến dưỡng của vitamin D; các chất này cũng có vai trò quan trọng trong trạng thái tâm lý , tình cảm của con người.
Trong bối cảnh đó, có những khảo cứu cho thấy một số chất béo như a-xít béo omega-3 có thể có ích cho sức khoẻ tình cảm, làm giảm các triệu chứng trầm cảm.
Những chất béo này được tìm thấy trong cá sống trong nước lạnh (cold water fish), hạt lanh (flaxseed), dầu hạt lanh (flaxseed oil; (chỉ ăn tươi, không được nấu nướng sẽ làm hư axit béo omega-3), hạt óc chó (walnut) và một số thực phẩm khác. Chất Omega-3 dùng như là bổ sung thực phẩm đang được nghiên cứu về khả năng chữa bịnh trầm cảm và triệu chứng trầm cảm ở những người bị rối loạn lưỡng cực (bipolar disorder hay “manic-depressive”,người bịnh có những cơn hăng say hay "mania" xen kẻ với những cơn trầm cảm hay 'depression"). Mặc dù được xem là an toàn, omega-3 có thể có vị tanh như mùi cá, và với liều lượng cao, nó có thể tương tác với các thuốc khác. Mặc dù ăn các thực phẩm có axit béo omega-3 có thể có lợi cho sức khoẻ tim mạch, cần nhiều nghiên cứu hơn để xác định xem nó có ảnh hưởng đến việc ngăn ngừa hoặc cải thiện tình trạng trầm cảm hay không.
4. Chiết xuất từ “nghệ tây” (saffron extract; saffron=crocus sativus; lấy từ phần stigma của hoa safron, không phải củ nghệ của ta) có thể cải thiện triệu chứng trầm cảm, nhưng cần nhiều nghiên cứu hơn. Liều cao có thể gây ra các phản ứng phụ đáng kể.
5. 5-HTP. (5-hydroxytryptophan), hiện có bán trên thị trường tại Hoa Kỳ, nhưng đòi hỏi phải có toa thuốc ở một số quốc gia. Sử dụng 5-HTP có thể cải thiện mức độ serotonin là một chất dẫn truyền trong hệ thần kinh có ảnh hưởng đến trạng thái vui buồn (serotonin thấp đi đôi với bịnh trầm cảm), giấc ngủ, khẩu vị (dùng cho người mập bớt ăn lại) nhưng bằng chứng chỉ sơ bộ và cần nhiều nghiên cứu hơn nữa. Có một mối lo ngại về an toàn khi sử dụng 5-HTP, nhất là nếu dùng liều quá cao, hay dùng kèm theo một thuốc chống trầm cảm khác, có thể gây ra một bịnh thần kinh nguy hiểm, hội chứng serotonin (bứt rứt khó chịu, toát mồ hôi, tim đập nhanh, loạn nhịp, chết).
6. Dehydroepiandrosterone, còn được gọi là DHEA, là một hormone của cơ thể bình thường do tuyến thượng thận tiết ra. Nồng độ DHEA cao nhất trong máu vào tuổi 20-30; đến tuổi 40 giảm xuống chỉ còn một nửa; tới 65 tuổi chỉ còn 10-20%. Sự thay đổi hàm lượng DHEA có liên quan đến chứng trầm cảm. Một số nghiên cứu sơ bộ cho thấy triệu chứng trầm cảm được cải thiện khi dùng DHEA như một chất bổ sung chế độ ăn uống - tuy nhiên, cần nhiều nghiên cứu hơn. Một khảo cứu trên 46 bịnh nhân nam và nữ 45-65 tuổi bị trầm cảm chữa bằng DHEA 90-450mg trong 6 tuần giảm triệu chứng đến 50%.(Schmidt 2005) . Mặc dù nó thường thường không gây vấn đề gì, DHEA có thể gây tác dụng phụ nghiêm trọng, đặc biệt nếu sử dụng với liều cao hoặc lâu dài. DHEA có thể làm tăng hormone nam testosterone hay nữ estrogen; một số người dùng DHEA để được "cường dương", tăng libido. Có thể gây các biến chứng làm da nhờn, khó chịu dạ dày, phụ nữ mọc lông nhiều trên mặt, tiếng trầm xuống ồ ể như đàn ông,rới loạn kinh nguyệt, nhức đầu, nghẹt mũi, mất ngủ, áp huyết lên cao. DHEA trong “khoai lang hoang” (wild yam) không có hiệu quả; "wild yam" chứa chất diosgenin cho nên có thể dùng để chế biến ra DHEA trong phòng thí nghiệm, tuy nhiên mặc dù một số quảng cáo dùng wild yam như "DHEA thiên nhiên", chuyện này không đúng vì cơ thể chúng ta không chuyển hoá diosgenin thành DHEA được, phải dùng thuốc DHEA thật nếu thật sự cần thiết.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Ung thư gan ở Châu Á có liên hệ tới thảo dược

Các nhà nghiên cứu vừa phát hiện nhiều bằng chứng cho thấy có mối liên hệ giữa các thảo dược cổ truyền của Trung Quốc với ung thư gan trên khắp khu vực Châu Á, theo một cuộc nghiên cứu công bố ngày 18/10.
Phát hiện cho thấy cần có các biện pháp mạnh tay hơn để ngăn mọi người tiêu thụ các hóa chất gọi là aristolochic acids (AA), có mặt trong nhiều loại dược liệu trong y học cổ truyền thuộc họ mộc hương, theo báo cáo đăng trên tạp chí y học Science Translational Medicine.
Các nhà nghiên cứu thí nghiệm 98 khối u gan tại các bệnh viện ở Đài Loan và phát hiện 78% chứa các mẫu biến đổi cho thấy ung thư có rất nhiều khả năng do có tiếp xúc với các hóa chất này.
Họ cũng nghiên cứu 89 mẫu bệnh phẩm ung thư gan ở Trung Quốc và 47% cho thấy có liên hệ với độc tố vừa kể.
Tại Việt Nam, trong số 26 khối u gan được nghiên cứu thì có 5 trường hợp (19%) có liên hệ với chất acid AA trong khi ở các nước Đông Nam Á khác, tỷ lệ này là cứ 9 khối u gan thì có 5 cái có liên hệ với AA.
Mối liên hệ giữa ung thư gan với thảo dược y học cổ truyền Trung Quốc ít thấy hơn ở khu vực Bắc Mỹ, chỉ chiếm 5% trong tổng số 209 ca ung thư gan được khảo sát và trong 230 trường hợp ở Châu Âu, có 1,7% như thế.
Đài Loan vào năm 2003 đã cấm dùng các thảo dược có chứa chất AA để bào chế thảo dược sau khi khám phá rằng AA có thể gây suy thận và ung thư đường niệu.
Tuy nhiên, không có lệnh cấm thẳng thừng rõ ràng tại Đài Loan hay Trung Quốc, khiến người tiêu dùng khó tránh, báo cáo nói.
Theo AFP/ Sciencemag.org

Hội chứng Asperger

"Hội chứng Asperger" là một từ khá lỏng lẻo trong y khoa. Lịch sử: Hans Asperger, một bác sĩ nhi khoa người Áo, là người công bố đầu tiên về hội chứng của những đứa trẻ cử chỉ, hành động vụng về, khả năng cảm thông với người khác và khả năng ‘truyền đạt thông tin không dùng lời nói” (non-verbal communications) cũng giới hạn (năm 1944). Nguyên thuỷ, Asperger dùng từ autistic psychopathy (“bịnh tâm thần tự kỷ”) và công bố của ông không được chú ý lắm. Đến năm 1981, nhà tâm lý học người Anh Lorna Wing “tái khám phá” ra chứng này và đặt tên là Hội Chứng Asperger.
Trong Hội Chứng Asperger người bịnh bị thiếu sót trong khả năng giao tiếp với người khác (tương tác xã hội khiếm khuyết, impaired social interactions) đồng thời sở thích bị giới hạn hoặc có những tập tính lập đi lập lại (restricted interest/repetitive behaviors). Tuy nhiên khả năng trí tuệ, học hỏi (cognitive skills ) vẫn bình thường hoặc trên trung bình, ngôn ngữ phát triển bình thường, và họ sống tự lập được, hoặc còn có thể rất thành công trong một lãnh vực chuyên môn nào đó. Hiện nay, y khoa tâm thần không xếp hội chứng Asperger thành một định bịnh riêng rẽ như trước, mà gom vào "quang phổ tự kỷ' (autism spectrum; bịnh Asperger là một biểu hiện nhẹ trong "quang phổ tự kỷ").
Như chúng ta đã từng bàn trong một buồi nói chuyện trước đây, rất nhiều thiên tài khoa học (như Einstein, Bill Gates, Steve Jobs), văn học, nghệ thuật (như Bob Dylan vừa được giải Nobel về văn chương), chính trị (Abraham Lincoln, Al Gore, Steven Spielberg) bị 'nghi' là mắc chứng Asperger, do đó chúng ta có thể kết luận:
  1. Các nét của HC Asperger không phải luôn luôn là có hại mà có khi có thể hay gắn liền với hay là mầm mống của sự vĩ đại (“exceptional talents”).
  2. Các nét này rất phổ biến, nhưng gọi một ai đó hay chính mình, căn cứ vào tính tình lạnh lùng, quyết đoán và nếp sống cô độc, là mắc chứng Asperger hay 'Aspie' chưa chắc đã chính xác và có lợi.
Cho nên, đối với người mang hội chứng Asperger, nói đến 'chữa bịnh' chưa chắc là một từ thích hợp. Cũng như mọi người khác, họ có những điểm mạnh, sở trường cũng như những điểm yếu, sở đoản làm cho họ gặp khó khăn hơn người khác trong một số tình huống nhất định nào đó. Ví dụ một ở một nhà khoa học thí nghiệm trên thú vật hay bác sĩ giải phẫu, giáo sư về khoa học, khả năng chăm chú vào một lãnh vực nhỏ (overly intense interest), không bị đãng trí vì những tình cảm chi phối, khả năng 'nói nhiều, nói như máy' (“little professor-like, robotic speech) về một đề tài mà họ canh cánh trong lòng nhưng làm người trung bình buồn ngủ,... có thể là những điểm mạnh trong môi trường chuyên môn, kinh viện. Nếu người đó cặm cụi trong công việc mà quên tắm rửa, ăn uống; vụng về với đồng nghiệp, người khác phái; hay có những lời nói ngớ ngẫn, không thích hợp với hoàn cảnh; hay làm tổn thương tự ái người khác đến mức không ai muốn chơi với anh ta, thì lúc đó chuyện thiếu kỹ năng giao tiếp mới trở thành một vấn đề cần cải thiện.
Nói riêng về “chữa trị” cho người lớn mắc chứng Asperger:
  1. Vấn đề huấn luyện truyền đạt ngôn ngữ và học các kỹ năng xã hội (social skill training) ít quan trọng hơn là ở trẻ em, mà những điểm chính sau đây cần được giải quyết:
  2. Học cách thư giãn (relaxation training)
  3. 3)Giúp chọn nghề thích hợp
  4. Chữa những bịnh đi kèm theo, như trầm cảm, bịnh thần kinh phân liệt,rối loạn về ăn uống (như bịnh bỏ ăn anorexia nervosa), bịnh Tourette (bịnh nhân bị các tic như chớp mắt, giật tay chân, nhún vai và chửi thề, văng tục mà không cố ý).
1) Kỹ năng xã hội :
Người mắc Asperger thường bị người khác hiểu lầm, dễ bị la mắng, trách móc bởi người thân cũng như người lạ. Trong lúc đó thì bản thân họ cũng không hiểu rõ lắm tình huống xã hội đang xảy ra (“socially awkward). Ví dụ, người bịnh không hiểu những lời nói bóng gió của người thích mình, cũng như của người ghét mình nhưng không nói thẳng ra. Và bản thân họ thì nói những điếu có thể làm người khác bực mình, ghét hoặc thù. Nếu có được cha mẹ anh em, bạn bè gần với mình và có cơ hội quan sát cách mình xử sự như thế nào, và chịu khó hỏi ý kiến của họ nhờ 'cố vấn, giúp đỡ, có thể mình sẽ dần dần cải thiện đọc được 'ngôn ngữ cơ thể' của người khác, gia tăng cái gọi là 'EQ' (hay Emotional Intelligence, chỉ số “thông minh” về tình cảm, cảm tính) của mình, khả năng 'thông cảm' với người khác. Nên phân biệt "thông minh tình cảm" với tính hành động nóng nảy (impulsivity, impulsiveness) hay đi kèm hội chứng Asperger. Trong quá khứ, văn hoá Việt Nam không khuyến khích chúng ta cười hay mĩm cười sợ làm mất trang nghiêm và điều này không gây trở ngại cho người quang phổ tự kỷ, thường được mô tả là có nết lạnh lùng, không biểu lộ tình cảm. Người Mỹ thì lại thích mĩm cười lúc chào hỏi, lúc chụp hình, nếu không cưới người ta sẽ cho là mình không thân thiện hay khó chịu. Nếu chúng ta thấy mình có vẻ Asperger, nên để ý đến điểm này, xem người khác có hiểu lầm là mình "quạu" hay làm phách hay không.
Người trong quang phổ tự kỷ kể cả người Asperger thích sống với những tập tính (routine), thói quen, một môi trường quen thuộc. Họ gặp khó khăn lúc phải thích ứng với hoàn cảnh mới như dọn nhà, dọn phòng, những đổ dùng của họ bị người khác sắp xếp lại hay lấy dùng. Do đó bạn bè hay người thân có thể nghĩ rằng họ khó chịu, hay theo lối nói trên TV Việt Nam "kỷ tính", thậm chí bủn xĩn, “bần tiện”. Người 'Aspie' nếu ý thức cái 'tật' của mình, có thể giải thích cho người khác thông cảm hiểu rằng những thay đổi như vậy làm cho họ thấy bất an, thấy lo sợ, đồng thời nhờ ý thức được chiều hướng bất lợi của mình trong giao tiếp xã hội, họ tự kiềm chế được, tự đổi hành vi của mình bằng cách tìm hiểu mình hơn và ý thức hơn về bản thân. Cũng vậy, Aspie cũng không chăm sóc bề ngoài của mình, ví dụ chỉ mặc một loại áo quần, không biết ăn diện vì sợ thay đổi và sợ cái mới, cho nên lúc họ tìm bạn khác phái có thể ít gây hứng thú.
Trẻ em hồi nhỏ đã được dạy dỗ kỹ càng những kỹ năng căn bản lúc còn nhỏ tuổi, như:
  • Tự giới thiệu mình nếu muốn nói chuyện với ai, nếu người ta đang nói chuyện với người khác thì không nên chen vào,
  • Không được đến sát người khác quá nhiều ('personal space', ví dụ ở Mỹ, không nên đến sát gần người lạ, giữ khoảng cách 4 feet, bạn bè 1 1/2-3 feet).
  • Chúng hay sờ mó, "phá", hay lấy những đồ vật của người khác mà không xin phép, không hiểu như thế là không chấp nhận được; và điều này có thể dạy dỗ bằng cách lập đi lập lại quy tắc và khuyến khích lúc chúng tuân thủ.
  • Không được ngắt lời người khác đang nói chuyện với mình.
  • Nhìn vào mắt người khác, nhưng có chừng mục, không nhìn chăm chăm.
  • Để ý xem người ta thích hay không thích chuyện gì
  • Không chỉ trích, không nhận xét phiến diện. Đôi khi phải giả ngoại giao một chút. Ví dụ người ta hỏi "Bạn thấy mình nhà quê không, thấy mình mập không? Nếu trả lời "Có, bạn nhà quê thật, mập thật..." là có lẽ mất bạn ngay. Những trường hợp nói không thật, trả lời "không" cho câu hỏi trên có lẽ tốt hơn, lịch sự hơn và gọi là "white lies" (nói láo 'trắng', vô hại), nhưng người Asperger gặp khó khăn phân biệt những trường hợp ‘nói khéo” như vậy..
  • Để ý xem người khác còn muốn nghe chuyện mình hay không. Nếu không chắc thì hỏi ý người ta,"Bạn muốn nghe tiếp không, hay mình bàn chuyện khác?”
  • Ngày xưa, người ta không bàn về chính trị hay tôn giáo với người lạ, chỉ nói về thời tiết. Cũng vậy, mỗi nền văn hoá có những điều cấm kỵ (taboo), như ở Mỹ thì không hỏi quá nhiều về đời tư, ví dụ lương anh bao nhiêu, anh học tới đâu, cái ví đắt thế, mua bao nhiêu tiền...và cũng không nên thổ lộ về những chuyện riêng tư nhiều quá.
  • Để ý người mình nói chuyện muốn ngưng câu chuyện, ngưng không trả lời, ngáp, nhìn đồng hồ, hay liếc mắt ra cửa…
  • Lúc đi phải nhớ chào người ta, thay vì chỉ nói "Bye" trong tiếng Anh, có thể nói "Mình phải đi đây, mai mốt mình gặp lại nhé"...
  • Nếu thiếu sót những điểm này, hay nếu mình không quen với văn hoá nơi mình mới hội nhập, cần hỏi hay đọc sách, vào you tube để tìm hiểu thêm cách ứng xử theo văn hoá địa phương. nên thổ lộ về những chuyện riêng tư nhiều quá.
2)Về thư giãn:
Người Á Đông chúng ta có những phương pháp như yoga, thiền, tụng kinh. Thuần tuý về sinh lý học, các biện pháp này dùng những phương tiện sau:
  • Một nơi yên tĩnh
  • Một “phương tiện/’mẹo’ tâm trí” (“mental device”, theo Bennon và Klipper) tạo nên tiêu điểm (point of focus) cho mình tập trung: một chữ hay câu nói, lập đi lập lại đều đều (tương tự như thần chú hay kinh, không cần hiểu nghĩa của các chữ cũng đươc; có thể tập trung vào hơi thở; để các ý tưởng ra vào đầu óc tự do, nhưng ý nào vào thỉ cứ tự nhiên thải đi, không bận tâm.
  • Thái độ thụ động trong lúc thư giãn, sau 20 phút thì bắt đầu nhúc nhích tay chân, vận động thân thể để về tình trạng linh hoạt bình thường.
  • Tư thế thoải mái.
3)Về nghề nghiệp, người bịnh Asperger có thể có năng khiếu về các nghề STEM, khoa học, kỹ thuật, kỹ sư, toán, không cần tiếp xúc tình cảm với người khác, đòi hỏi làm việc kéo dài có khi trong những môi trường vắng vẻ, cô lập (như trong phòng thí nghiệm, thư viện). Tuy nhiên, học cũng cần được cố vấn để giữ thái độ 'chuyên nghiệp' như chào hỏi tối thiểu, mĩm cười lúc cần, cảm ơn, kiểm soát cơn nóng giận, giữ khoảng cách tối thiểu với người khác phái. Nên tránh say mê quá nhiều các hoạt động cô độc trên internet, máy tính và cố gắng tìm những cơ hội sống với gia đình, bạn bè, xã hội thật, không ảo; nhất là tránh để các cuộc gặp gỡ, nói chuyện, bữa ăn bị gián đoạn liên miên vì các tin nhắn trên iphone. Những năng khiếu như đàn, chơi cờ, thi đố vui (vd Jeopardy, Scrabble) do trí nhớ rất tốt, thích các con số, nên được khuyến khích phát triển , và có thể dùng như một phương tiện giao tiếp, giúp gia nhập các hội đoàn dễ dàng, tạo nên được sự ngưỡng mộ của bạn bè cũng như người khác phái.
Trước đây, ở Việt Nam có cuốn "Đắc nhân tâm, bí quyết của thành công", do Nguyễn Hiến Lê dịch cuốn “How to make friends and influence people của Dale Carnegie (1936) giúp chúng ta tránh những lỗi lầm và học những kỹ thuật để áp dụng lúc gia tiếp với người khác. Và cuốn " Quẳng gánh lo đi mà vui sống" cũng do Nguyễn Hiến Lê dịch từ cuốn “How to stop worrying and start living” (1948), của cùng tác giả, rất có ích cho người đọc giảm bớt sự lo âu của mình. Trên internet, có nhiều nơi vẫn còn phổ biến hai sách này online. Ở Mỹ hai cuốn này vẫn bán rất chạy, có lẽ vì chúng thực dụng và, thời nào cũng vậy, thuật xử thế ("Ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười ở hẹp người chê...) và sự tìm kiếm tĩnh lặng trong cuộc sống cạnh tranh vẫn là những mối bận tâm của mọi người, không riêng gì những người mắc hội chứng Asperger.
Đương nhiên trong điều kiện lý tưởng nên tìm bác sĩ chuyên môn về tâm lý để định bệnh chính xác và để chữa trị những bệnh tâm lý hay tâm thần kèm theo với chứng bệnh Asperger
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Polyp túi mật (Gallbladder polyps)

Túi mật (gallbladder) là một bộ phận nằm trong bụng, phía trên, bên phải, (right upper quadrant) dưới gan, cỡ bằng một trái lê nhỏ. Mật (bile) gồm phần lớn là nước, cọng với các muối mật (bile salts), cholesterol, chất bilirubin (bilirubin pigment, chế biến từ các hồng cầu già, chết bị tiêu huỷ, làm cho mật màu nâu, xanh lục, và làm phân nước tiểu màu vàng). Lúc ăn, gan sản xuất và tiết ra mật qua ống dẫn mật (bile duct) đi thẳng vào tá tràng (duodenum), là đoạn đầu tiên của ruột non. Lúc không ăn, mật được dẫn vào một nhánh (cystic duct) của ống dẫn mật để đi vào túi mật dùng để chứa và cô đọng mật. Lúc ăn thức ăn có chất béo (mỡ, dầu) thì túi mật bóp lại, đẩy mật vào ruột giúp tiêu hoá các chất mỡ trong tá tràng. Các hạt mỡ được phân tán thành những hạt nhỏ hơn, làm cho các enzyme từ tuỵ tạng (pancreas) dễ tiêu hoá chúng hơn, và ruột non hấp thụ dễ hơn. Lúc túi mật đầy (khi đói), chiều dài túi mật chừng 10 cm, chiều ngang chừng 5cm, chứa chừng 80ml mật. Tuy nhiên, nếu không có túi mật, sự tiêu hoá cũng không bị ảnh hưởng nhiều.
Vách túi mật dày chừng 3 mm, và trong lòng trống trơn. Polyp là những gì bất thường mọc từ vách túi mật đi vào lòng túi mật. Chừng 5% dân số có polyp trong túi mật. Người Tàu bị viêm gan B mãn tính có nhiều polyp túi mật hơn trung bình.
Đại đa số polyp túi mật không gây ra triệu chứng gì đáng kể. Một số ít bịnh nhân đau hông phải, buốn nôn, ói mửa vì thỉnh thoảng các mảnh cholesterol tách rời khỏi các polyp và gây tắc nghẽn (--> cơn đau mật [biliary colic], hay viêm tuỵ tạng [pancreatitis]), hoặc hiếm hơn, các polyp dài thòng xuống và làm nghẽn ống dẫn mật vào túi mật. Thường cơn đau mật do sạn trong túi mật di chuyển qua ống dẫn mật làm tắc nghẽn ống này và gây ra cơn đau quặn, tuy nhiên trong những trường hợp ở đây hạt cholesterol hay chính polyp làm ống dẫn mật tắc nghẽn và tạo nên cơn đau. Cơn đau phía trên bên phải bụng, có thể chạy lan qua cánh tay phải, và xảy ra sau một bửa ăn no hay ban đêm, kéo dài một hoặc vài giờ và tái đi tái lại.
Tuy nhiên, trong đa số các trường hợp, polyp túi mật được phát hiện lúc người bịnh đau mập mờ bên phải bụng, hay có vấn đề gì đó phía bên gan và túi mật và bác sĩ gởi bịnh nhân đi làm siêu âm. Chỉ một số ít thử máu thấy cơ năng gan bị rối loạn. Lúc làm siêu âm (ultrasound), túi mật có một hay nhiều polyp được phát hiện. Các loại polyp:
1)các u bướu giả (pseudotumors): thực chất là những khối cholesterol (60-90%), hay những tế bào viêm (10%).
2) u bướu gồm tế bào biểu bì hay tuyến (epithelial polyps, adenomas) thường chỉ một mình, to 5-20 mm; tế bào mỡ (lipoma); tế bào xơ (fibroma); tế bào mạch máu (angiomas).
Trong nhóm adenoma này, chỉ có một số ít là chứa tế bào ung thư (gallbladder carcinoma). Tuy nhiên để bắt kịp các ung thư hiếm có này trước khi quá trễ, thường người ta xét đến các cơ nguy ung thư: polyp lớn hơn 6mm, đơn độc (solitary polyp), không có cuống (sessile polyp), bịnh nhân trên 60 tuổi, kèm theo sạn túi mật và bịnh nhân mắc bịnh viêm xơ ống mật sơ phát (primary sclerosing cholangiitis)
Theo Andrean-Sanberg, các polyp nhỏ hơn 6 mm (0,6 cm) không cần theo dõi. Các polyp túi mật to hơn 1,5 cm có nguy cơ ung thư cao. Nói chung nếu bịnh nhân không có bịnh gì khác, và polyp nhỏ hơn 1cm, đa số bác sĩ theo dõi bằng cách cho làm lại siêu âm sau 6-12 tháng, sau đó theo dõi thêm nữa thế nào tuỳ trường hợp mọc nhanh hay chậm, tuỳ bịnh nhân. Nếu polyp lớn hơn 1cm, phần đông các tác giả thiên về biện pháp phẫu thuật cắt bỏ túi mật; có khi cần phải cắt rộng thêm vào mô gan nếu có dấu hiệu ung thư đã lan ra khỏi niêm mạc (mucosa, lớp tế bào lót phía trong túi mật). Một số bác sĩ chủ trương giải phẫu cắt bỏ túi mật nếu polyp to hơn 6mm.

Tin tức trình bày và những con số này hoàn toàn có tính cách thông tin và đưa ra như những ví dụ. Bịnh nhân cần theo dõi bịnh với bác sĩ của mình. Đây là một lãnh vực rất chuyên môn, cần người kinh nghiệm trong các bịnh loại này để xử lý.
Để kết thúc, chúng ta có thể nhắc đến một đề tài khá thú vị về túi mật , vai trò mật gấu trong đông y và thuốc chữa bịnh túi mật. Một trong những muối mật được dùng trong y khoa là ursodeoxycholic acid (UDCA hay Ursodiol), có tác dụng làm tan sạn túi mật (cho những bịnh nhân bị sạn túi mật nhưng không muốn hay không thể giải phẫu cắt bỏ túi mật) và giảm hấp thụ cholesterol, do đó hạ cholesterol trong máu; ngoài ra còn dùng chữa bịnh gan (mạch dẫn mật bị xơ). Chỉ có mật gấu mới có nhiều chất này. Trước đây người ta săn gấu lấy mật; từ hơn 30 năm nay Bắc Hàn đề xướng ra phương pháp nuôi gấu trong chuồng để lấy mật của con gấu sống mỗi ngày. Mỗi ngày con gấu cung cấp được chừng 10-20 ml mật. Cuộc sống của những con vật này thật thê thảm, sống trong cáo chuồng sắt bó chặt người chúng, và mỗi ngày bị người nuôi dùng hướng dẫn siêu âm đâm vào bụng để rút mật, hay phải mang một ống dò nối liền túi mật với ngoài da để hứng mật. Túi mật của chúng thì bị viêm và trong phần lớn cũng có nhiều polyp. Các hội bảo vệ thú vật chống đối kỹ nghệ này và hiện nay ở VN bị cấm, mặc dù còn trên 10.000 con gấu bị nuôi kiểu này ở các nước như Trung quốc, Việt Nam.Thuốc Ursodiol dùng trong y khoa được bào chế tổng hợp không phải lấy từ gấu ra, cho nên hiện nay không cần phải hành hạ các con gấu mới có được thuốc. 
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Viêm khớp sau chấn thương và dexamethasone

1) Trẻ em đau khớp mãn tính có thể bị bịnh phong thấp (JIA= Juvenile Idiopathic Arthritis) với nóng sốt, da nổi mẫn, sưng , đau khớp; bịnh này khá hiếm, mỗi năm trong 100 ngàn em có từ 4-14 trường hợp tại Mỹ.
Trẻ em đau nhiều khớp cấp tính có thể bị sốt thấp khớp cấp tính (acute rheumatic fever, ARF) do cơ thể phản ứng với một kháng nguyên của vi khuẩn Streptococcus trước đây thường gặp ở VN; tuy nhiên, thường trong ARF, các khớp viêm sẽ tự khỏi, đáng ngại hơn hết là các biến chứng trên tim, như hẹp van hai lá, hở van, suy tim ("Bịnh chỉ liếm đầu gối à lại cắn vào trái tim”).
Ở Mỹ, viêm khớp trẻ em vào mùa xuân có thể do Bịnh Lyme, do vi khuẩn Borrelia burgdorferi của con bọ chét chân đen (black-legged tick) truyền qua người. Bịnh bắt đầu với sốt, mệt mỏi và một vết ban màu đỏ (erythema migrans) sau đó có thể sưng đau khớp, tim và hệ thần kinh.
Trường hợp ở đây, có lẽ triệu chứng khớp kéo dài từ hồi 5 tuổi là hậu quả của chấn thương nặng hồi đó, và có lẽ chữa trị và phục hồi có thể cũng không tốt lắm, tuy bịnh nhân may mắn không bị cưa chân (post-traumatic arthritis). Chấn thương làm hư hại xương và các lớp sụn che chở các đầu xương trong khớp, có thể làm rách, hay đứt các gân giữ cho khớp ổ định, do đó khớp không còn trong tình trạng cơ giới bình thường, ít chịu đựng hơn khớp lành mạnh,và hư hại , hao mòn nhanh hơn. Đau lưng có thể do bất quân bình giữa hai hạ chi, có thể một bên yếu hơn bên kia và xương sống lệch qua một bên, tuy nhiên cần bs khám mới biết được.
2) Một số người bị bịnh gout sẽ đau nhức khớp nhiều hơn lúc ăn những thức ăn có nhiều chất purine như bộ đồ lòng thú vật (organ meat), thịt đỏ, nhiều thịt dù là loại gì, nước xốt thịt (gravy), uống bia. Những chất này cung cấp nhiều purine là nguồn gốc của uric acid. Lúc uric acid ứ đọng trong các khớp, gây ra viêm khớp của bịnh gout. Măng (bamboo shoot) chứa purine ở mức vừa vừa. Chúng ta không biết vị thính giả có bị gout hay không. (Một số nơi cho rằng măng giảm viêm, nhưng xem kỹ tài liệu tham khảo thì thấy khảo cứu nói về trích tinh lá tre chứ không phải măng tre).
3) Tuy nhiên một số người đau nhức nhiều hơn sau khi ăn thịt hay uống bia, có thể do cơ chế khác. Ví dụ các omega 3 fatty acid thì giảm viêm, nhưng omega 6 fatty acid (linoleic acid) lại tăng viêm (sưng đau). Các chất acid béo omega 3 và omega 6 đều cần thiết cho cơ thể. Tuy nhiên trong thức ăn Tây phương, thường tỷ lệ omega 6 trên omega 3 là 10 lần hoặc hơn, và như vậy không tốt cho sức khoẻ. Nếu giảm tỷ lệ này xuống 5 hoặc thấp hơn, có thể giảm bớt hiện tượng viêm.(2)
Các thức ăn sau đây có tỷ lệ omega 6 fatty acids cao hơn (3):
● Corn oil (dầu làm từ bắp)
● Eggs
● Poultry
● Safflower oil
● Sunflower oil (dầu hạt hướng dương)
● Whole grains
Các thức ăn sau đây có tỷ lệ omega 3 fatty acids cao hơn:
● Almonds
● Canola oil: Dầu trích từ Canola, là một hạt cải dầu hay rapeseed. Trước đây cải dầu dầu này được dùng trong kĩ nghệ, sau được các nhà khoa học Canada biến đổi thành một giống sản xuất ra dầu ăn được an toàn, giúp giảm cholesterol trong máu vì hàm lượng chất mỡ không no (unsaturated fats) cao. Trong canola oil, lượng omega 6 fatty acids cao, gấp 2 lần lượng omega 3 fatty acids.
● Chia seeds (Salvia hispanica)(Mexico, Guatamala)
● Cá có nhiều mỡ như cá hồi (Fatty fish; eg, salmon)
● Flaxseed
● Hemp
● Dầu đậu nành (Soybean oil)
Ví dụ, giảm ăn các snack food, đồ ăn chiên vì chúng có nhiều corn oil, nên ăn trái cây tươi, walnut, hạt (nuts); nếu dùng dầu ăn chọn olive oil, canola oil thay vì corn oil.

4) Có nhiều bài thuốc được phổ biến rộng rãi nhưng chưa được y khoa công nhận là có bằng chứng. Ví dụ như một số người khuyên người viêm khớp tránh uống sữa, ăn các thức ăn chế biến từ sữa, tránh ăn các thức ăn có chứa solanine như khoai tây, cà dái dê, cà chua (gia đình thực vật tên nightshade), vv nhưng luồng chính y khoa thì còn nghi hoặc.
5) Về trà có nhiều tin tức trái ngược nhau, có lẽ vì có nhiều loại trà với cách chế biến khác nhau. Một số người nói trà giúp giảm đau nhức khớp. Năm 2000, một khảo cứu ở Đại học Georgetown, Mỹ trên 76 ngàn phụ nữ từ 50-79 tuổi cho thấy người uống trà có cơ nguy bị viêm thấp khớp tăng lên 40%, những người uống trên 4 tách trà/ngày, cơ nguy tăng 70%. Tuy nhiên, đây chỉ là nghiên cứu về người uống trà đen (black tea). Người ta so sánh với cà phê thì cà phê không có vấn đề này (5). Nếu uống trà làm chúng ta đau nhức thêm, có lẽ nên tránh hoặc đổi qua một thứ trà khác.
Nói chung, những biện pháp sau đây được xem là có ích, không những cho bịnh đau khớp mà còn tốt cho sức khoẻ nói chung:
a) Tránh các mỡ no (saturated fats, phần đông mỡ động vật), giới hạn trong 10% của các nguồn calories, ví dụ ăn 2000 calo mỗi ngày thì giới hạn mỡ no là 20 gram/ngày.
b) Bớt muối (mặn, sodium chloride) trong thức ăn, uống. Người già, người bịnh đau khớp nên giới hạn dưới 1500mg/ngày, so với mức trung bình thực tế ở Mỹ là 3400mg. Mức khuyến cáo trung bình: 2300mg.
c) Giảm bớt các chất đường, tinh bột.
d) Giảm rượu, dù rằng có thể lượng rượu nhỏ (1 ly nhỏ rượu đỏ hay bia/ ngày) có thể có ích, làm giảm viêm, nhưng nhiều hơn thì không được.

Nếu người mập, cố gắng giảm cân xuống cũng giúp cho khớp bớt viêm và đau.

6)Thuốc thảo dược hay cổ truyền Á Đông càng ngày càng thịnh hành ở Mỹ và mức tiêu thụ lên đến trên 4 tỷ đô la. Tuy nhiên nhà bào chế trộn thuốc tây vào thuốc đông y là một thực tế phổ biến, nhất là dùng chất dexamethasone, một chất giảm viêm rất mạnh. Trong một khảo cứu, phần lớn kem thoa da trị lác cho trẻ em có chứa chất này và có thể gây ra nguy hiểm.(4)
Thuốc corticoid có tác dụng giảm viêm rất nhanh nhưng đồng thời cũng là giảm đề kháng của cơ thể (nguy hiểm ở những người bị lao tiềm ẩn), làm lên cân một cách giả tạo, xương bị xốp (bịnh loãng xương), râu tóc mọc nhiều hơn, da yếu và nứt, trẻ em chậm lớn về bề cao; dùng nhiều có thể là thay đổi tính tính tình, quá hăng (mania), trầm cảm (depression) hay điên loạn (steroid psychosis). Mắt có thể bị cườm nước (glaucoma) hay cườm khô (cataract). Nên đến bác sĩ chuyên khoa mắt để khám xem có những bịnh này không. Chuyện dùng dexamethasone lâu dài trước đây và chuyện đi tiểu đêm nhiều lần có liên hệ gì không thì chỉ có bác sĩ khám bịnh nhân trả lời được thôi. Thuốc dexamethasone thuộc loại thuốc corticosteroid là những thuốc tác dụng như chất hormon (nội tiêt) của tuyến thượng thận (adrenal glands), có nghĩa là tuyến nằm trên hai trái thận, hình như cái nón ụp trên đầu trái thận. Người Việt chúng ta do ảnh hưởng của Đông y, có thể lẫn lộn giữa trái thận (kidney) hay tuyến thượng thận với khả năng sinh lý (khả năng tính dục, libido). Triệu chứng đi tiểu nhiều lần trong đêm nếu dính líu tới chuyện dùng dexamethasone trước đây thì sự liên hệ này cũng khó thiết lập và chứng minh khoa học.

Ibuprofen (Advil, Motrin) là một thuốc chống viêm mà không phải corticoid (NSAIDs=Non Steroid Anti Inflammatory Drugs) cho nên không gây những phản ứng phụ như dexamethasone, prednisone . Các thuốc NSAIDs sau đây bán tự do ở Mỹ:
● Aspirin (Bufferin, Bayer, and Excedrin)
● Ibuprofen (Advil, Motrin, Nuprin)
● Ketoprofen (Actron, Orudis)
● Naproxen (Aleve)

Dùng NSAIDs cần cẩn thận, nhất là ở người từng bị chảy máu hay loét ruột hay dạ dày vì có thể gây loét hay chảy máu trong hệ tiêu hoá. Người già, hay người có vần đề dễ chảy máu, có thể nghĩ đến dùng acetaminophen nếu có thể.
7)Về vấn đề nặng ngực, khó thở, nhói tim đã mười năm nay và cạo gió thì khoẻ lại, thêm nữa bác sĩ tim cho biết tim mạch bình thường: có lẽ những cơn đau do cơ bắp nhức mõi. Nên nghĩ tới những phương pháp thư giãn như thể thao, tai chi, yoga, bơi lội. Nếu cạo gió hiệu nghiệm thì cũng là một trị liệu vô hại và tốt, tương tự như massage.
BS Hồ Văn Hiền

Bệnh phế quản nhạy cảm và bịnh suyễn (Reactive Airway Disease and Asthma)

Khi một trẻ em mệt , khó thở trong khi hay sau khi chơi, chạy nhảy nhiều, hay tập thể thao , thể dục,... có thể lý do là phế quản của em thắt lại (bronchoconstriction, bronchospasm) lúc các em hoạt động nhiều (exercise-induced asthma). Nếu bác sĩ cho thở thuốc albuterol sulfate để hít vào phổi và em thấy khoẻ, điều này xác nhận là phế quản thắt lại là nguyên nhân làm bé mệt.
Bịnh “đường thở nhạy cảm” gọi là “reactive airway disease”, có thể là nguyên nhân chính trong trường hợp này. Những bịnh nhân này có các ống thở (phế quản, bronchi) nhạy cảm một cách bất thường với các nhiễm trùng do siêu vi, thay đổi khí hậu (trời lạnh). Mỗi lần cháu bị cảm, thay vì chỉ nóng, ho, sổ mũi, nghẹt mũi vài hôm, 10 ngày là hết, các cháu này ho nhiều hơn, khò khè, bác sĩ nghe phổi thì có đàm (rales) nên định bịnh là viêm phế quản , đôi khi định bịnh là viêm phổi (pneumonia) nếu chụp X Ray thấy những vết nám. Vì đứa trẻ nhỏ thường bị cảm virus nhiều lần trong năm đầu và năm thứ nhì, các trẻ này dễ bị định bịnh là bị viêm cuống phổi tái hồi (recurrent bronchitis), trong lúc vấn đề cơ bản của chúng chỉ là cuống phổi quá nhạy cảm, và nói một cách khác là chúng bị suyễn, nhưng vì chưa chắc chắn , bác sĩ tránh dùng từ “suyễn” mà dùng từ “reactive airway disease” mơ hồ hơn trước khi xác định đấy là bịnh suyễn. Tuy nhiên, nếu là reactive airway disease, thì viêm phế quản do virus gây ra thường không cần trụ sinh mà cần đối phó với bịnh tương tự như bịnh suyễn bàn sau đây.
Bệnh suyễn có nhiều nguyên nhân gây ra và cùng một bệnh nhân có thể có nhiều yếu tố khác nhau góp lại để gây bệnh suyễn. Bịnh nhân có thể dị ứng với một chất nào đó trong không khí (ví dụ gián, thú cưng trong nhà, phấn bông tuỳ theo mùa). Khói thuốc lá có thể làm cho phế quản khó chịu (irritant) thay vì gây dị ứng. Thời tiết lạnh hay áp suất không khì đổi; bịnh nhân chạy nhảy, chơi thể thao có thể làm bịnh nhân thở nhanh hơn, mạnh hơn, và do đó nhiệt độ trong phế quản hạ xuống, làm cho phế quản co thắt lại. Cộng thêm vào đó, những chất nhờn (mucus) được tiết ra nhiều và niêm mạc trong lồng phế quản sưng lên. Các biến cố này làm cho lòng phế quản nhỏ lại rất nhiều và không khí đi qua một cách khó khăn tạo nên những rales hay một tiếng vi vu như tiếng sáo diều nếu áp tai vào ngực bệnh nhân để nghe. Nếu suyễn nặng ta có thể nghe được mà không cần dùng ống nghe, đó là tiếng khò khè mô tả ở trên (tiếng Anh gọi là "wheezing").
Phụ huynh nên tìm hiểu về khả năng bé bịnh suyễn hoặc reactive airway và bàn với bác sĩ lúc cháu đi khám. Nhắc lại những số khái niệm về cơ cấu của hệ hô hấp: Khi chúng ta thở vào, không khí đi vào mũi hoặc miệng, qua ống khí quản (trachea) là cái ống cưng cứng, nằm chính giữa cổ, mà ta có thể sờ được một cách dễ dàng, sau đó không khí được phân phối khắp các vùng trong phổi nhờ những nhánh ống càng ngày càng nhỏ hơn, tủa ra như hình những rễ cây. Những ống này gọi là phế quản (bronchi) đem không khí đến những túi nhỏ ở tận cùng gọi là phế nan (alveoli). Khi ta thở ra, không khí được đẩy ngược trở ra từ các phế nan và thoát ra ngoài ở miệng hoặc mũi. Ðường kính của những phế quản nói trên được điều chỉnh ở mức tối hảo để đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Nói một cách giản dị, các phế quản phải được mở rộng vừa đủ để không khí đi ra đi vào. Yếu tố này tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố kiểm soát, một số yếu tố làm nở phế quản, yếu tố khác ngược lại có khuynh hướng làm co phế quản lại. Ví dụ khi ta sợ sệt trước một tai họa nào đó khiến ta phải "tranh đấu hoặc trốn chạy", tuyến thượng thận tiết ra chất adrenaline nhiều trong máu để giúp ta đối phó với các "stress" đó (fight or flight), một trong những tác dụng của chất adrenaline là làm cho cuống phổi nở ra để chúng ta lấy hơi.
Chữa trị: Trong trường hợp người bị suyễn hay bịnh phế quản quá nhạy cảm, phế quản nhạy cảm một cách bất bình thường và dễ co thắt lại. Nếu cháu bé ngửi phải một chất làm phế quản khó chịu, hoặc bị một bệnh siêu vi (virus) nào, BS có thể cho toa mua sẵn thuốc có tác dụng làm nở phế quản mỗi lần cháu bắt đầu ho đàm. Thuốc uống (nay ít dùng), hay thuốc pha sẳn thành dung dịch cho vào máy phun hơi (nebulizer) để thở vào mũi và miệng qua mặt nạ (mask), hoặc thuốc chưá trong một ống bơm gọi là metered-dose inhaler (MDI). Tên thuốc : albuterol (Proair, Ventolin, Proventil). Bé nhỏ dùng inhaler cần một cái ống đặc biệt gọi là “holding chamber” (tên thương mãi là Aerochamber, gắn liền với một cái mặt nạ [mask] lớn nhỏ tùy theo tuổi, ụp vào miệng bịnh nhân, để bé hít hơi có thuốc từ trong ống nhiều lần) để giữ thuốc đừng tản mát ra ngoài. Phụ huynh có thể lên internet đọc thêm về các MDI và Aerochamber cũng như cách dùng các thứ này.
Nếu bịnh nhân hay mệt, ngoài những cơn xảy ra lúc chạy nhảy, nên nhờ bác sĩ điều tra xem em có bị dị ứng hay suyễn mãn tính (chronic asthma) hay không. Có nhiều trẻ mệt mỏi, ho đêm, nhưng không khò khè (wheezing) rõ rệt nên cha mẹ không biết chúng bị suyễn. Nếu cần, bác sĩ sẽ cho các em dùng ống hít (inhaler) chứa chất corticoid một hai lần mỗi ngày, dài hạn hay ít nhất trong mùa đông hay mùa xuân lúc các em bị các yếu tố như thời tiết, phấn bông 'trigger' làm lên cơn suyễn. Một thuốc khác được dùng để ngừa hay giảm thiểu các cơn suyễn là montelukast ( leukotriene receptor antagonist (LTRA) ), thuốc cốm, viên kẹo nhai hay viên nuốt uống mỗi ngày.
Đương nhiên, cần hướng dẫn của bác sĩ nhi khoa và các tin tức bàn ở đây chỉ có mục đích thong tin và giúp cho sự đối thoại với bs của bé đầy đủ và dễ dàng hơn.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Wednesday, October 4, 2017

Chóng mặt

Chóng mặt là một triệu chứng bao gồm nhiều nguyên nhân khác nhau.
Vertigo: Chóng mặt chúng ta nói ở đây được định nghĩa là cảm giác chuyển động trong lúc thực tế mình không di động (motion), hoặc cảm thấy di động quá mức trong lúc mình chỉ làm một cử động nào đó. Người chóng mặt có thể cảm thấy mọi vật chung quanh chạy vòng vòng hoặc cảm tưởng mình lắc lư muốn té về trước hoặc về sau, như cảm giác say sóng lúc đi trên biển.
Thường vertigo gây ra do bịnh lý của một bộ phận trong phần tai trong (inner ear) còn gọi là “mê đạo” (labyrinth) vì nó gồm nhiều ống chứa đầy một chất dịch nối liền với nhau. Mê đạo thu nhận những tín hiệu về âm thanh (thính giác), từ bộ phận gọi là gọi là con ốc [cochlea]). Những tín hiệu về phương hướng, vị trí cơ thể đến từ phần của mê đạo gọi là tiền đình (vestibule). Những tín hiệu này được chuyền qua não bộ bằng thần kinh tiền đình (vestibular nerve), là một thành phần của dây thần kinh số 8 (8th cranial nerve, vestibulocochlear nerve).

Nếu vì một lý do gì đó, tiền đình một bên bị rối loạn sẽ gởi những tín hiệu sai lạc, là chúng ta cảm thấy sự vật chung quanh xoay vòng vòng (vertigo, spinning sensation) hoặc "lắc lư con tàu đi" (say sóng, dizziness, imbalance).
Trong labyrinth có một phòng nhỏ trong xương gọi là tiền đình (vestibule), chứa một túi nhỏ (saccule and utricle) gắn liền với 3 ống nhỏ , tròn (ống bán khuyên), nằm trên 3 mặt bằng khác nhau nhưng gắn liền chụm vào nhau (superior, posterior and lateral semicircular canals), chứa đầy môt chất dịch lỏng.

Mỗi lần đầu chúng ta quay qua lại, gật đầu, ngẫng đầu, nước dịch này di chuyển trong các ống semicircular canals và kích thích các tế bào lông (hair cells, cilia) trong ống. Các tế bào này phát tín hiệu vào não bộ, não bộ phân tích để biết phương hướng mới của cơ thể trong lúc di chuyển.Trong utricle và saccule (=otolith organs), có những vật nhỏ gọi là "đá tai" (otolith; oto=tai, lith =đá; nhưng thật ra là những tinh thể rất nhỏ kết tụ với nhau); chúng di động lúc đầu chúng ta lên xuống cao thấp, di chuyển trước sau, phải trái bên này qua bên kia, chúng cho biết vị trí đầu chúng ta so với chiều sức hút quả đất (gravity); (ví dụ lúc đi thang máy chạy lên khác chạy xuống) và gia tốc (acceleration; ví dụ lúc xe chúng ta ngồi chạy vọt lên).
a) Bịnh chóng mặt từng cơn lành tính tuỳ thuộc tư thế (Benign Paroxysmal Positional Vertigo/ BPPV)
Trong một số trường hợp như bị đánh vào đầu, nằm lâu bất động trong một tư thế nào đó lúc giải phẫu tai hay chữa răng, các "đá tai" này chạy lạc vào trong các ống bán khuyên, tạo nên tín hiệu bất thường làm chóng mặt. Bịnh nhân bị chóng mặt từng cơn, tái đi tái lại, thường khởi xướng bởi một thay đổi trong vị trí của đầu mình. Mỗi cơn kéo dài chừng một phút thì giảm, đi kèm theo với hai tròng mắt di động, giật nhịp nhàng (nystagmus); có thể làm lảo đảo, nôn mửa. Bác sĩ chữa bằng cách đặt đầu bịnh nhân vào nhiều tư thế khác nhau để tìm cách đưa các "đá tai" ra khỏi vòng bán khuyên.
b) Viêm tiền đình
Nguyên nhân thường gặp nhất gây ra viêm tiền đình (vestibular neuritis, ảnh hưởng trực tiếp đến phần thăng bằng) là do ảnh hưởng của một virus, vd bịnh nhân bị cúm (influenza), nhiễm virus herpes (gây lỡ miệng, trái rạ [thuỷ đậu, chicken pox], hay bịnh zona [dời ăn, herpes zoster, shingles]. Có thể nguyên nhân do một lại vi khuẩn là nhiễm trùng tai giữa và ảnh hưởng đến tai trong (tiền đình thuộc về tai trong). Hiếm hơn, viêm thần kinh tiền đình có thể do viêm màng óc (meningitis).
Triệu chứng viêm tiền đình: chóng mặt, ói mửa, đi đứng không vững đột ngột.
Tiến trình tự nhiên viêm tiền đình: đa số bịnh nhân chỉ bị triệu chứng nặng một hai ngày, sau đó các triệu chứng giảm dần. Hiếm khi, các triệu chứng cấp tính kéo dài vài ngày hay vài tuần, tuy nhiên những triệu chứng nhẹ như cảm giác mất thăng bằng còn sót lại, đi đứng không vững có thể kéo dài hàng tháng. Bịnh nhân cải thiện thật nhanh có lẽ nhờ não bộ (thần kinh trung ương) thích ứng với hoàn cảnh mới và tập điều chỉnh theo các tin tức bất bình thường do thần kinh tiền đình mắc bịnh gởi vào. Tuy nhiên, bộ phận tiền đình có thể cần thời gian lâu hơn để hồi phục, và trong một số trường hợp những hư hại của hệ tiền đình trở thành vĩnh viễn, không đảo ngược được, nghĩa là cơ năng của nó bất bình thường.
Chữa trị viêm tiền đình:
Các thuốc chữa triệu chứng, ói mữa, mất nước. Ví dụ:
1) chất kháng histamine:dimenhydrinate (Dramamine), diphenhydramine (Benadryl), Meclizine (Antivert), Promethazine (Phenergan).
2) thuốc đối kháng hệ đối giao cảm (anticholinergic), vd:scopolamine (Transderm-Scop)
3) thuốc an thần : diazepam (Valium) , lorazepam (Ativan)

Cần phân biệt với lâng lâng như say rượu (lightheadedness), cảm giác mất thăng bằng (imbalance, muốn té), hay cảm giác sắp xiủ, hoặc xiủ (fainting) vi những lý do khác như đường máu quá thấp, áp huyết quá thấp, máu lên đầu bị giảm vì các động mạch nuôi óc bị nghẽn do xơ động mạch.
Áp huyết thấp (hypotension), thường được định nghĩa như là áp suất kỳ thu tâm = hoặc < 90mm thuỷ ngân (systolic pressure = or <90 mm Hg), áp suất trương tâm= hoặc < 60 mm Hg (diastolic pressure = or <60 mm Hg). tuy nhiên cũng tuỳ theo bịnh nhân, tuổi bịnh nhân, áp huyết thông thường của người đó. Có nhiều nguyên nhân, giản dị như bịnh nhân thiếu nước, bị xúc động, ngâm nước nóng quá lâu (mạch máu dãn nở), có thai, ít vận động. Phức tạp hơn ví dụ bịnh nhân thiếu máu (bần huyết, lượng hồng cầu quá thấp), chảy máu đâu đó (ví dụ rong kinh, chảy máu bao tử, ruột), hay suy cơ năng tuyến giáp, nang thượng thận (bịnh Addison: đi đôi với da sậm màu, các vùng niêm mạc như miệng cũng đen hơn bình thường), nhiễm trùng máu, phản ứng thuốc, dị ứng, phản vệ (anaphylaxis=huyết áp hạ nhanh, shock kèm theo khó thở, nổi mẫn ngoài da). Cũng nên nêu rõ áp huyết thấp (hypotension) và thiếu máu (anemia) là hai bịnh khác nhau, mặc dù thiếu máu có thể gây ra áp huyết thấp, chóng mặt, xỉu.
Nói chung chúng ta không muốn áp huyết cao và áp suất thấp là mục đích của chữa trị bịnh cao áp huyết. Tuy nhiên, nếu áp huyết thấp kèm theo các chứng như chóng mặt, muốn xỉu, mờ mắt, ói, ta chân lạnh, xanh xao, thở khó hay yếu, chán nản, trầm cảm, nên đi khám bác sĩ.
Bịnh nhân cần thu thập quan sát và ghi chú chi tiết về cơn chóng mặt của mình để nhờ bs của mình khám và phân tích, nhất là loại bỏ những nguyên nhân quan trọng như nghẽn mạch máu, bịnh não bộ, thiếu máu (anemia). Thông thường, người ta chỉ lo cho bịnh áp huyết cao, vì áp suất cao trong các mạch máu tạo một stress , một gánh nặng lên vách mạch máu và nhất là tim, vì tim phải làm việc trong điều kiện áp suất cao. Còn đối với người chỉ có áp huyết thấp đơn độc, không kèm theo bịnh gì khác đáng kể, thì có lẽ đây là một điều bất tiện hơn là một đe doạ về sức khoẻ. Có lẽ đối với họ, nên tránh dùng những chất kích thích quá nhiều, như trà, cà phê, thuốc lá, thuốc bổ (nếu không cần thiết) để cảm thấy sảng khoái hơn, vì sau khi bị kích thích, "hăng" quá” sẽ có giai đoạn chùng xuống, chóng mặt và mệt mõi, hoặc tuỳ thuộc vào các chất kích thích này.
Nếu bác sĩ khám thấy huyết áp thấp trong lúc mọi chuyện khác đều bình thường, bác sĩ có thể nghi là thể tích máu trong hệ hoàn không đủ, cần gia tăng thể tích này lên và khuyên uống thêm nước. Tuy nhiên , như trường hợp thính giả hỏi ở đây, có thể không hiệu nghiệm lắm, trừ trường hợp bịnh nhân bị mất nước quá nhiều mà không biết, như trời nóng chảy mồ hôi quá nhiều, uống rượu làm đi tiểu quá nhiều kèm theo ói mửa, hay bịnh nhân viêm dạ dày, ruột làm tiêu chảy , ói mửa và mất nước. Tuy nhiên, ở người bình thường không có các vấn đề cấp tính nêu trên, cần xét đến các yếu tố khác gây ra hạ áp huyết thấp. Ví dụ như người ít vận động, ngồi nhiều, máu tụ xuống hai chân (hạ chi), lúc đứng dậy nhanh, cơ thể không thích ứng đủ nhanh để đem máu lên đầu kịp (như mạch máu co lại để máu dồn về tim, tim đập nhanh hơn, mạnh hơn) Nếu đo áp huyết lúc đang ngồi và lúc đứng lên, áp huyết có thể quá thấp lúc đứng, gọi là "orthostatic hypotension" (ortho =thẳng, static: vị trí) (số áp huyết thu tâm [systolic pressure] giảm 20mm Hg , hay số trương tâm giảm [diastolic pressure]10 mm Hg trong vòng 3 phút sau khi đứng lên). Những người này có thể cần ăn mặn thêm (thêm muối) và vận động thể thao nhiều hơn nếu thích hợp). Những trường hợp mãn tính ở người trẻ có thể do hệ thần kinh tự dưỡng bị rối loạn, hệ thần kinh giao cảm phụ trách điều khiển tim bơm máu mạnh hơn, nhanh hơn, co mạch máu để tăng áp suất trong mạch có thể không đáp ứng đủ mạnh. Đúng chéo hai chân, ngồi chồm hổm, mặc quần bó chân (lower limb compression bandage), bó bụng lại (abdominal binder) không cho máu tụ dưới thấp có thể làm giảm orthostatic hypotension.
Cuối cùng, tôi xin bàn về một chứng liên hệ, gọi là "áp huyết thấp sau khi ăn" (postprandial hypotension). Sau khi ăn, hệ tiêu hoá có nhiệm vụ "thanh toán" các thức ăn đó, và đó cũng làm một công việc đòi hỏi năng lượng do máu cung cấp. Có những cảm biến (stretch sensors) trong dạ dày cho biết là dạ dày đang đầy thức ăn và cơ thể sẽ tự động dãn nở các mạch máu dẫn tới gan, dạ dày, ruột. Đồng thời các mạch máu đi đến chỗ khác sẽ co lại, tim sẽ đập nhanh hơn để giữ áp suất trong mạch máu, cần thiết để giữ đủ máu bơn lên nuôi não bộ trên cao (lúc đứng). Ở một số người, nhất là người già, hệ thống cảm biến này trong hệ tim mạch không còn đủ nhạy càm, các mạch máu không co dãn đủ mức và nhanh chóng để thích ứng với nhu cầu máu vào hệ tiêu hoá, do đó áp suất của máu quá thấp, gây chóng mặt, nhất xỉu, có khi cơn đau tim hoặc tai biến mạch máu não sau khi ăn. Người ta từng khảo cứu xem các thuốc như cà fein (kích thích), chất làm giảm hấp thụ các chất đường, thuốc làm áp huyết cao lên (như midodrine) nhưng không hiệu quả vì lợi "bất cập" hại (phản ứng phụ). Cho nên:
1) nên uống chừng 1-2 ly nước lạnh 15 phút trước khi ăn (⅓- ½ lit),
2) ăn nhiều bữa ăn nhỏ thay vì nhịn đói thật lâu rồi ăn nhiều (để đường trong máu không dao động nhiều, tăng cao sau khi ăn, xong tuột xuống nhanh),
3) tránh ăn nhiều quá, nhất là các chất "carbohydrates" như các nước ngọt, trái cây ngọt, tinh bột (trong bánh mì, cơm trắng, mì, bún hấp thụ đường vào máu rất nhanh) nhanh quá,
4) ngồi xuống ăn,
4) tránh những nơi quá nóng (mạch máu ngoài da dãn nở) có thể nguy hiểm nếu té như gần bếp lửa, chỗ cao chênh vênh, lúc lái xe, uống rượu...
5) nằm xuống để máu dễ lên đầu hơn nếu chóng mặt sau khi ăn, tránh làm việc, lái xe, đi bộ mệt nhọc nếu có triệu chứng này.

Ngày 21 tháng 8 năm 2017

Chứng đi tiểu đêm ở người già (Nocturia in the elderly)

Người lớn tuổi thường bị mất ngủ, lý do thường gặp nhất là phải đi tiểu nhiều ban đêm. Chừng 60% người già cho biết họ phải đi tiểu 2 hay trên 2 lần mỗi đêm. Ngoài việc gây rối loạn giấc ngủ, bịnh nhân sáng sớm mệt mõi, không nghỉ ngơi đầy đủ, nguy cơ té và có thể gảy xương có thể là những chuyện nguy hiểm đi kèm theo chứng tiểu đêm.
Bịnh nhân đàn ông có thể có những triệu chứng kèm theo làm cho bác sĩ nghĩ đến những nguyên nhân ở đường tiểu phía dưới (lower urinary tract): như ban ngày đi tiểu liên miên (urinary frequency, (trên 8 lần/ngày)), dòng nước tiểu yếu, cần đi tiểu ngay (urgency), hay són tiểu (urinary incontinence). Nguyên nhân chúng ta thường nghe đến là tuyến tiền liệt phì đại lành tính (benign prostate hypertrophy [BPH]) (không phải ung thư) làm đường thoát ra của nước tiểu bị nhỏ lại và tiểu không thông, chia làm nhiều lần. Phụ nữ có thể đi tiểu nhiều lần hơn lúc lớn tuổi, hoặc do kết quả sinh đẻ (sinh qua ngã âm đạo làm các ở vùng đáy xương chậu bị tổn thương, không lành lại hoàn toàn, và do đó yếu đi, không giữ được nước tiểu nhiều như trước trong bàng quan); hoặc do thói quen phụ nữ hay đi tiểu.
Vài ý niệm về cơ thể học: Chúng ta có hai trái thận (kidney, Fr: rein) hai bên, phía sau và phía trên bụng. Hai thận lọc máu và bài tiết nước tiểu , đi xuống hai ống niệu quản (ureter), vào bọng đái (bladder) nằm giữa, phía dưới bụng. Bọng đái người lớn có nước tiểu chừng 300ml thì mắc tiểu, nếu bộ óc cho phép “mở cửa” thì nước tiểu thoát ra niệu đạo (tiểu tiện), nếu nín thêm bọng đái có thể chứa đến 600ml là tối đa.
Tuyến tiền liệt (prostate) là một tuyến ngoại tiết của bộ phận sinh dục nam. Ở phái nam, tuyến nằm dưới và nằm ngay trước ngõ nước tiểu đi ra của bàng quang (bọng đái, bladder), từ đó được đặt tên khoa học là prostate, có nghĩa là “đứng [pro] trước [stat], giữ cửa”, từ tiếng Việt tiền liệt cũng theo nghĩa đó. Trước đây, chúng ta còn gọi là “nhiếp hộ tuyến”. Tuyến tiết vào tinh dịch một số thành phần giúp nuôi dưỡng các tinh trùng.
Tuyến tiền liệt bao quanh, ôm lấy niệu đạo (urethra) là ống dẫn nước tiểu thoát ra từ bọng đái, Nếu tuyến lớn quá (phì đại, hypertrophy), hoặc có ung bướu, tuyến có thể bóp nghẽn đường đi ra của nước tiểu và làm khó tiểu hoặc bí tiểu.
Tuy nhiên, chứng đi tiểu đêm không phải luôn luôn do tuyến tiền liệt, và tôi xin nêu sau đây những tin tức để chúng ta cùng học hỏi. Sau đây là những lý do khác nhau có thể gây chứng tiểu đêm:
1) Do nước tiểu nhiều lúc ban đêm (nocturnal polyuria):
  • suy tim
  • rối loạn chất nội tiết ADH (antidiuretic hormone, hay vasopressin được hypothalamus của não bộ tiết ra) là chất đáng lẽ làm thận giữ lại nước nhiều hơn, làm nước tiểu cô đọng hơn, và thể tích nước tiểu giảm đi lúc ban đêm. Ngược lại ở một số người già có rất ít chất vasopressin này tiết ra ban đêm, nên lượng nước tiểu ban đêm quá nhiều. Trong một số trường hợp người ta dùng một thuốc có tác dụng giống như vasopressin (gọi là chất analog của vasopressin) tên là desmopressin. Desmopressin từ lâu được dùng trị bịnh đái dầm và bịnh đái tháo nhạt (diabetes insipidus, người bịnh tiểu quá nhiều vì thiếu vasopressin hay thận không đáp ứng với vasopressin). Hiên nay có viên thuốc tan trong miệng (orally disintegrating tablets), liều thấp dùng cho người già, phụ nữ dùng liều thấp hơn.(1)
  • nước ứ phần dưới cơ thể (hạ chi) , do các tỉnh mạch (vein) không hoạt động bình thường, do suy tim, do thiếu protein trong máu, do ăn mặn quá.
  • uống thuốc lợi tiểu (diuretic) trước khi đi ngủ (ví dụ thuốc loại thiazide trị bịnh cao máu)
  • ngưng thở (apnea) trong giấc ngủ vì bị đường hô hấp tắc nghẹt (obstructive sleep apnea), thiếu oxy trong máu gây ra áp suất trong động mạch phổi tăng, làm áp suất trong tâm nhĩ phải tăng, cơ thể xem đó như là dấu hiệu dư quá nhiều nước trong cơ thể và gây tác dụng tạo ra nước tiểu nhiều hơn. Đi tiểu đêm nhiều lần (nhiều hơn 2 lần) là một dấu hiệu của ngưng thở trong giấc ngủ và có thể được bs dùng để screen bịnh nhân xem họ có bị sleep apnea hay không. Đại đa số người bị chứng ngưng thở lúc ngủ được hỏi đều cho biết họ đi tiểu nhiều ban đêm, nhiều hơn là số người công nhận là mình ngáy to. Bịnh nhân có thể nghĩ rằng đi tiểu nhiều lần là do bàng quang hay tuyến tiền liệt có vấn đề nên chỉ đi khám bác sĩ chuyên về tiết niệu, hay bs phụ khoa mà thôi. Từ đó có thể không giải quyết được vấn đề vì nguyên nhân nằm ở chỗ khác, là mũi và họng bị nghẽn lúc ngủ (gây ra sleep apnea).
Nếu bịnh nhân ngáy to, thỉnh thoảng yên lặng không nghe tiếng thở, nhất là người mập, nên coi chừng có sleep apnea hay không, bằng cách đo polysomnogram (đo tim, nhịp thở, oxy trong hơi thở , não điện đồ cùng một lúc trong khi bịnh nhân ngủ). Nếu cần, dùng CPAP cho apnea (máy tạo nên áp suất dương thường trực trong đường hô hấp trong lúc ngủ.)
2) Bịnh nhân nói chung tạo ra quá nhiều nước tiểu:
  • do bịnh tiểu đường (đái tháo đường,diabetes)
  • đái tháo nhạt (diabetes insipidus, do tổn thương não bộ, hoặc do thận bị hư /nephrogenic diabetes insipidus)
  • uống nước quá nhiều (polydipsia)
3) Do thể tích (dung tích, capacity) bọng đái quá nhỏ về đêm:
  • hệ thần kinh bọng đái bất thường (neurogenic bladder) không kiểm soát được
  • viêm bọng đái (bàng quang)(cystitis)
  • ung thư bọng đái, tiền liệt , niệu đạo (cancer of the bladder, prostate, urethra)
  • thói quen đi tiểu lúc bọng đái chưa đầy (~300-600ml)
  • “overactive bladder” (OAB) (bọng đái “quá hoạt động”)
  • lo âu (anxiety)
  • rượu, cafe
  • thuốc men:
  • caffeine, theophylline trị thông cuống phổi, thuốc lợi tiểu,
  • thuốc beta blockers (dùng trị bịnh cao huyết áp, làm cơ detrusor bọng đái co lại tăng risk són tiểu) , thuốc alpha blocker (giãn nở các cơ cổ bọng đái), thuốc lợi tiểu (dùng trị bịnh cao huyết áp; [diuretic]).
  • sạn trong bọng đái
Nói chung , nếu cần nên đến bác sĩ gia đình để tìm xem chính xác nguyên nhân ở đâu, ngoài khả năng do tuyến tiền liệt gây ra. Nếu bác sĩ cho phép, có thể thử những biện pháp thông thường như:
  • Tránh uống nước quá nhiều, nhất là tối, 6h trước khi đi ngủ, ăn trái cây khô trước khi đi ngủ để giảm bớt nước tiểu ban đêm.
  • Tránh cà phê, trà , rượu, bia (la ve) và những thuốc lợi tiểu, nếu có thể được.
  • Kê chân lên cao (lúc ngồi, nằm) ban ngày để tránh nước tụ xuống hai chân, mang vớ bó chặt để giảm bớt phù hai chân.
  • Cẩn thận thắp đèn sáng, nếu cần đi khám mắt xem thị lực có tốt không, có bị cườm mắt [cataract] hay không, để tránh té, tai nạn lúc đi tiểu đêm.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Ợ hơi và bịnh nuốt không khí

Thay đổi cách ăn uống, để ý tác dụng các món mình ăn có thể giúp cho nhóm người này tránh những triệu chứng khó chịu do ảnh hưởng của sự "khói tiêu" sình hơi gây ra:
1. -giảm bớt các thức ăn khó tiêu, gây ra nhiều hơi sình bụng; thức ăn giàu chất xơ (fibers) có thể giúp bớt bón nhưng có thể sinh hơi trong ruột, một số thức ăn giàu tinh bột , khó tiêu như khoai , sắn, cơm để nguội hâm lại.
2. -tránh những thức ăn uống mà mình không hạp, ví dụ các chất có sữa, bơ; có thể dùng viên thuốc có men lactase (vd Lactaid) lúc phải ăn những thứ chế biến từ sữa
3. -tránh các nước uống có khí (carbonated drinks)
4. -đừng ăn no quá
5. -giảm cân nếu quá mập
6. - tập thể dục ,đi lại, vận động nhiểu hơn.
7. -dùng những thuốc không cần toa để giảm gas trong ruột như simethicone (vd GASX).

Nếu cùng là một người hỏi năm ngoái, có thể bịnh đã kéo dài và bịnh nhân vẫn còn ưu tư nhiều, tôi xin thêm mấy điểm sau:
1) Một trong những lý do hiếm nhưng có thể bác sĩ không nhận ra của bịnh ợ hơi nhiều là bịnh gọi là "nuốt không khí", tạm dịch từ Anh ngữ "aerophagia" (aero= không khí; phagia=ăn). Người bịnh thường ợ hơi nhiều, tuy không phải lúc nào cũng có triệu chứng này, có thể thấy tức bụng và bị bón. Chụp hình X Quang thấy khí nhiều trong ruột và ruột già (kết tràng) căng hơi.
2) Trong trường hợp ợ không khí đã được nuốt vào dạ dày, có lúc cơ tròn đóng phía trên của dạ dày mở ra, hơi thoát vào thực quản, và do phản xạ, cơ đóng phía trên thực quản mở ra cho khí thoát ra miệng; bịnh nhân ợ hơi ra từ trong dạ dày, gọi là gastric belching.
3)Một số bịnh nhân ợ quá nhiều do một cơ chế khác. Ở đây, do áp suất âm (negative pressure) trong lồng ngực, không khí từ họng được hút vào thực quản (nhưng không đi vào dạ dày), và sau đó ống thực quản co thắt lại để đẩy không khí này ra ngoài, gọi là “ợ hơi trên dạ dày” (supra-gastric belching). Ở người bịnh vì ợ kiểu này quá nhiều (> 13/ngày), có khi phải ợ 20-30 chục lần trong một phút. Ợ ngưng lúc bịnh nhân nói chuyện hoặc lúc đãng trí vì một chuyện gì khác, nhưng càng chú ý vào triệu chứng ợ hơi lại càng ợ nhiều hơn, và ợ hơi không xảy ra lúc đang ngủ. Bịnh này có thể liên hệ với số bịnh về tâm lý, tâm thần như bịnh trầm cảm, bịnh lo âu thái quá, bịnh ám ảnh - cưỡng chế (obsessive compulsive disorder, OCD), bịnh ăn quá nhiều rồi móc họng cho ói (bulimia nervosa), viêm não. SGB thường kèm theo tràn dịch acid dạ dày lên thực quản, và thường đi đôi với tính kém di động của thực quản (esophageal hypomotility).
Bác sĩ có thể cần một số xét nghiệm như quây video hay đo điện trở của thực quản (24 hour impedance manometry) để nghiên cứu về cách không khí bị hút vào thực quản rồi đẩy ra mà người bịnh không ý thức được. Chuyên viên chữa những rối loạn của hầu và thực quản này là những chuyên viên trị liệu về phát âm (speech therapist) và chuyên viên dạy bịnh nhân thay đổi hành vi (behavior) của mình. Tại sao các speech therapist lại chữa vấn đề ợ hơi? Những người sau khi bị cắt thanh quản (laryngectomy), các chuyên viên này dạy họ nói bằng cách dùng hơi phát ra từ thực quản, đối với bịnh nhân bị chứng ợ hơi quá nhiều do không khí dồn lại trong thực quản, chuyên viên phải dạy cho bịnh nhân gỡ bỏ thói quen vô ý thức của mình , nghĩa là làm ngược lại những gì họ huấn luyện cho người đã mất thanh quản.
Đối với các vấn đề tâm lý, tâm thần kèm theo, bác sĩ cần chữa trị các chứng như bịnh trầm cảm, lo âu bằng thuốc men (ví dụ thuốc chống trầm cảm ba vòng, SSRI) hay chữa bằng tâm lý trị liệu hay hành vi trị liệu.
Có báo cáo cho biết chữa SGB bằng baclofen (thuốc giãn cơ) và pregabalin (Lyrica) (theo Kunte).

Về các polyp nhỏ ở trực tràng, cần bác sĩ ruột theo dõi, từng trường hợp. Bịnh polyp thường gặp: 30-40% người lớn có polyp trong ruột già. Thường thì bác sĩ cắt bỏ những polyp lớn hơn 5 mm (1/2 cm) và sau đó làm sinh thiết để phân loại. Loại polyp do tăng sản (hyperplastic polyp) thường nằm cuối ruột già, không biến thành ung thư. Loại polyp loại u tuyến (adenomatous polyp, adenoma) có khả năng biến thành ung thư, nhưng trung bình mất chừng 10 năm để một polyp nhỏ biến thành ung thư.
Rất ít polyp hay ung thư ruột già được tìm thấy trên người dưới 40 tuổi, trừ trường hợp ảnh hưởng di truyền. 90% xuất hiện sau tuổi 50, do đó ở Mỹ người ta sàn lọc (screen) bịnh nhân từ 50 tuổi để truy tầm ung thư ruột già, một trong những biện pháp là soi ruột già (colonoscopy).
Bao nhiêu lâu mới cần soi ruột già lại một lần tuỳ theo số polyps tìm thấy lần trước, kích thước to nhỏ bao nhiêu, tế bào của polyps có dấu hiệu ung thư hay không, gia đình có cha mẹ anh chị em ruột (first degree relative) bị ung thư ruột già hay không, và tuỳ theo sở thích của bác sĩ chữa bịnh cho mình. Tuỳ theo loại polyp, hoàn cảnh bịnh nhân , bác sĩ có thể nội soi từ 2 năm đến 10 năm một lần. Ví dụ, 3 năm sau khi cắt adenoma, soi lại khả năng adenoma xuất hiện lại là 30%. Cần hỏi bác sĩ rỏ ràng về vấn đề theo dõi này. Hút thuốc lá, ăn thịt đỏ, thịt nướng, thịt chế biến (xúc xích, hamburger, thịt hộp), uống nhiều alcohol (rượu, bia), ít ăn trái cây, rau cải, quá mập có thể tăng cơ nguy u bướu ruột già.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền