Friday, September 22, 2017

Tuyến tiền liệt

Những triệu chứng sau đây có thể phát xuất từ tuyến tiền liệt (prostate):
1) bịnh nhân tiểu chậm đi, dòng nước tiểu yếu
2) ngập ngừng, mất vài giây mới bắt đầu tiểu được
3) tiểu xong, cảm thấy như tiểu chưa hết
4) nước tiểu còn nhỏ giọt, không dứt liền sau khi tiểu
5) phải đi tiều nhiều lần hơn trước ("đái láu")
6) bị thôi thúc phải đi tiểu liền, chạy nhanh vào phòng tắm

7) tiểu ngập ngừng, ngưng rồi chảy tiếp

8)phải rặn mới tiểu được
9) tiểu đau, đau sau khi tiểu
10) tiểu ta máu
11) xuất tinh đau
12)đau vùng dưới, vùng xương chậu, vùng hậu môn
13) Người lớn tuổi thường bị mất ngủ, lý do thường gặp nhất là phải đi tiểu nhiều ban đêm.
Vài ý niệm về cơ thể học:
Chúng ta có hai trái thận (kidney, Fr: rein) hai bên, phía sau và phía trên bụng. Hai thận lọc máu và bài tiết nước tiểu, đi xuống hai ống niệu quản (ureter), vào bọng đái (bladder) nằm giữa, phía dưới bụng. Bọng đái người lớn có nước tiểu chừng 300ml thì mắc tiểu, nếu bộ óc cho phép “mở cửa” thì nước tiểu thoát ra niệu đạo (tiểu tiện), nếu nín thêm bọng đái có thể chứa đến 600ml là tối đa.
Tuyến tiền liệt (prostate) là một tuyến ngoại tiết (exocrine gland) của bộ phận sinh dục nam. Tuyến thể tích chừng 15-30 ml, cở chừng hột walnut hay trái banh chơi golf, nằm dưới và nằm ngay trước ngõ nước tiểu đi ra của bàng quang (bọng đái, bladder), từ đó được đặt tên khoa học là prostate, có nghĩa là “đứng [pro] trước [stat], giữ cửa”, từ tiếng Việt tiền liệt cũng theo nghĩa đó. Trước đây, chúng ta còn gọi là “nhiếp hộ tuyến”. Tuyến tiết vào tinh dịch một số thành phần giúp nuôi dưỡng các tinh trùng.
Tuyến tiền liệt bao quanh, ôm lấy niệu đạo (urethra) là ống dẫn nước tiểu thoát ra từ bọng đái.
1) Nếu tiền liệt lớn quá (phì đại, enlarged prostate, hypertrophic prostate) nước tiểu thoát ra khỏi bọng đái (bàng quang; bladder) khó khăn hơn, làm bịnh nhân đi tiểu nhiều lần mà không ra hết, dễ nhiễm trùng. Bọng đái phải làm việc nhiều hơn để đẩy nước tiểu ra ngoài, nên vách bọng đái dày ra. Nếu bọng đái gắng bóp mà nước tiểu không thoát ra được (urinary retention), phải thông tiểu. Hoặc người bịnh bị són tiểu do nước tiểu đầy quá mới tràn ra trong lúc vẫn còn nước tiểu trong bọng đái (overflow incontinence)
2) Ung thư tuyến tiền liệt là một đề tài gây nhiều tranh luận hiện nay trong giới y khoa.
Thường người ta sàng lọc (screen) bịnh nhân bằng 2 phương pháp đơn giản:
(i) bác sĩ khám bằng ngón tay qua ngã hậu môn, tuyến tiền liệt nằm phía trước trực tràng, bác sĩ sở vào bằng ngón trỏ (digital rectal exam), cảm giác như lúc sờ vào chóp mũi, và bề mặt (phía sau) tuyến đều đặn đối xứng. Nếu sờ cứng, nổi cộm , to lên không đều thì bác sĩ nghi có bướu (DRE: digital rectal exam, ở đây digital là "dùng ngón tay", không phải kỹ thuật số)
(ii) đo PSA (prostate specific antigen), là một kháng nguyên (antigen) từ tuyến tiền liệt tiết vào máu, đo dùng đơn vị nanogram/ml. Trước năm 2008, ở Mỹ gần như là thông lệ, mỗi năm bác sĩ cho thử mức PSA trong máu ở mọi người đàn ông trên 50 tuổi (yearly PSA screening). Nếu mức PSA cao hơn 4ng/ml, người ta làm sinh thiết tuyến tiền liệt để tìm ung thư.
Nói chung , PSA lên cao ở bịnh nhân ung thư tuyến tiền liệt, tuy nhiên không phải ai có PSA cao cũng bị ung thư, ví dụ người bị viêm tuyến tiền liệt, tuyến phì đại lành tính (benign prostate hypertrophy) cũng có thể PSA lên cao. Thường bs sẽ nghi ung thư nếu PSA>4 nanogram/ml, tuy nhiên có người bị ung thư nhưng PSA lại thấp hơn 4 nanogram/ml.
Hiện nay, một số cơ quan y tế, vd: USPSTF [US Preventive Services Task Force], khuyên không nên thử PSA hàng năm cho tất cả mọi đàn ông không có triệu chứng trên 50 nữa vì người ta rút tỉa từ các nghiên cứu rằng một số đáng kể bịnh nhân vì PSA cao, phải chịu đựng thử thịt (biopsy, sinh thiết), phẫu thuật không cần thiết. Mổi năm ở Mỹ, có 160,000 trường hợp ung thư TL mới được định bịnh, và chừng 27,000 người chết vì bịnh này. Có chừng 2,9 triệu người Mỹ đang mang bịnh này ( American Cancer Society). Tuy nhiên, nói chung dự hậu sống sót khá tốt, 99% người bịnh còn sống sau 5 năm. Ngoài ra, người ta ước tính là 50-70% các ung thư tiền liệt được chẩn đoán sẽ phát triển rất chậm và cho đến khi bịnh nhân chết vì nguyên nhân khác, các ung thư này vẫn còn nằm yên trong tuyến tiền liệt và không ảnh hưởng hay làm ngắn hơn cuộc sống của người mang nó. Tuy nhiên, Medicare (cơ quan bảo hiểm sức khoẻ cho người già ở Mỹ) và một số bảo hiểm tư vẫn trả tiền cho thử máu PSA hàng năm.
Xin nhắc lại, các nhận xét trên đây chỉ có tính cách thông tin. Thính giả cần hội ý với bác sĩ của mình.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bệnh són tiểu phụ nữ lớn tuổi

Bịnh són tiểu phụ nữ lớn tuổi
Người ta ước tính trên 1/3 phụ nữ lớn tuổi bị són tiểu, tỷ lệ ở đàn ông chỉ chừng 1/2 so với tỷ lệ phụ nữ.
Són tiểu gây nhiều phiền toái, nhiều vấn đề vệ sinh cũng như có thể gây ra một số bịnh khác như nhiễm trùng đường tiểu, ngoài da, nhiễm nấm (fungal infection), lở loét da, mất ngủ, đi bị té, tai nạn. Phụ nữ dễ bị són tiểu hơn có thể vì niệu đạo (urethra, ống dẫn nước tiểu từ bọng đái ra ngoài) và có thể vì các cơ vùng đáy xương chậu (pelvic floor) bị giãn, hay bị rách mà không lành lại tốt sau khi sanh. (Tuy nhiên một nghiên cứu trên các nữ tu sau thời bế kinh cho biết 50% bị són tiểu, cho nên ảnh hưởng của vấn đề sinh đẻ cũng không rõ ràng lắm).
Phụ nữ càng già và càng yếu thì càng dễ bị són tiểu hơn, do các cơ yếu đi, các bịnh mãn tính khác, ví dụ như ho có thể làm són tiểu, do đẩy bọng đái xuống thấp; một số thuốc hạ áp huyết có thể gây ho thường xuyên.
Người rất lớn tuổi có thể ít ý thức hơn về vấn đề són tiểu, và có thể không cho bs biết để cải thiện tình hình.

Ba loại són tiểu:
a) Són tiểu do stress (Stress incontinence) xảy ra lúc ho, rặn, dồn sức đẩy, khiêng vật nặng, cười, hắt hơi là những lúc áp suất trong bụng gia tăng (stress ở đây là stress trên cổ bọng đái nơi kiểm soát đường ra của nước tiểu.
b) Són tiểu vì bọng đái quá năng động, thôi thúc đi tiểu quá nhiều, đái láu ( urge incontinence): cơ detrusor của bọng đái quá nhạy cảm, hoạt động quá mức (overactive bladder), làm người bịnh thấy phải đi tiểu ngay dù là đang làm việc, tiếp khách, không nín được, sợ són tiểu, nhưng chỉ tiểu ra được chút ít vì bọng đái chưa đầy, và như thế phải đi tiểu trên 8 lần/ngày, thức dậy trên 2-3 lần mỗi đêm. Trường hợp nặng hơn, cơ detrusor bóp mạnh quá, bóp không đúng lúc làm cơ tròn (sphincter) cổ bọng đái không còn giữ nổi nước tiểu khiến phải đi tiểu liền, không chờ lâu hơn được
c) Són tiểu vì bọng đái tràn (overflow incontinence): đường thoát nước tiểu quá hẹp, thường là nam giới bị bịnh tuyến tiền liệt làm nghẽn niệu đạo, bọng đái căng tới mức không chứa thêm nước tiểu nữa thì tràn ra ngoài; bịnh nhân có đi tiểu nhưng bọng đái vẫn đầy, dần dần bọng đái mất khả năng co bóp của nó.
d) Một người bịnh có thể bị cả 3 nguyên nhân kết hợp với nhau.
Đương nhiên chúng ta không thể thay thế bác sĩ chuyên khoa (phụ nữ hay niệu khoa/ gynecologist, urologist) định bịnh và giải quyết vấn đề cho bịnh nhân. Những trị liệu như tập các cơ/bắp thịt của vùng xương chậu cho mạnh hơn (pelvic floor muscle exercise), do đó kiểm soát được lúc nào muốn tiểu tiện theo ý muốn có thể được bác sĩ nhờ chuyên viên vật lý trị liệu thực hiện dạy cho bịnh nhân. Tuy nhiên có thể không thực tế trong trường hợp bịnh nhân quá yếu hay quá già.
Thuốc dùng chữa són tiểu cũng rất giới hạn. Các bs thường dùng một loại thuốc chống co thắt cơ bọng đái, làm bọng đái chứa một thể tích lớn hơn cho đến lúc bịnh nhân cảm thấy mắc tiểu, và lúc tiểu áp suất trong bọng đái cao hơn (antispasmodic/antimuscarinic agents): oxybutinin hydrochloride (Ditropan® và Ditropan XL®, Oxytrol® transdermal patch [thuốc dán]), và tolterodine tartrate (Detrol® and Detrol LA®, cẩn thận nếu bịnh gan và thận).Thuốc làm khô miệng.
Phụ nữ són tiểu có thể vì các bộ phận trong vùng xương chậu "toạ" xuống quá thấp (pelvic organ prolapse). Bác sĩ có thể nhét vào âm đạo một cái vòng cao su (pessary) để nâng tử cung lên cao hơn, tạo nên một góc xếp trên niệu đạo, làm cho bịnh nhân kiểm soát đường nước tiểu đi ra tốt hơn.
Niêm mạc trong âm đạo người già mỏng và yếu, cần được nhân viên chuyên môn có kinh nghiệm chuẩn bị bằng kem chứa hormon estrogen nếu cần. Lúc đầu phải khám lại mỗi tuần, sau đó theo định kỳ lâu hơn, hàng tháng hay hàng năm.

Người săn sóc cho phụ nữ lớn tuổi có thể để ý những khía cạnh sau đây:
1) Những điều kiện nhất thời, có thể ngắn hạn có thể giải quyết được.
Ví dụ:
a) nhiễm trùng âm hộ; nhiễm trùng đường tiểu phía trên như thận, bọng đái;
b) bón làm phân ứ đọng trong ruột già, phía sau tử cung và bọng đái, làm cổ bọng đái (neck of the bladder) bị kích thích, dễ mắc tiểu;

2) Một số bịnh của người già nếu không chữa đúng mức có thể ảnh hưởng đến vấn đề són tiểu như bịnh tiểu đường (diabetes), suyễn, viêm phế quản mãn tính, suy tim , bịnh Parkinson.
3) Thuốc men có thể ảnh hưởng tới cơ năng tiểu tiện; nhất là thuốc lợi tiểu (diuretics, làm nước tiểu nhiều hơn), thuốc chống co thắt cơ (antispasmodics), thuốc calcium channel blocker dùng hạ áp huyết; thuốc chữa bịnh Parkinson; thuốc chống dị ứng như Benadryl (làm giãn cơ bọng đái, lúc quá đầy thì nước tiểu tràn); thuốc an thần thuốc giảm đau.
4) Người già có thể khó khăn trong một số động tác, như khó cởi nút quần, đi đứng chậm chạp lên xuống ghế, giường, ngồi xuống đứng dậy trong phòng tắm. Cải thiện bằng cách mặc quần
áo dễ mở, dễ cài (ví dụ gắn velcro thay vì nút, zipper). Giúp đến toilet nhanh hơn, tránh té, tai nạn: đường đi có đèn sáng, làm dấu rõ ràng, có chỗ vịn. Dùng máy rửa bidet tự động nếu khó khăn lau sau khi dùng phòng tắm, nếu lau nhớ đi từ trước ra sau để tránh phân dính vào bộ phận sinh dục phía trước.

5) Nhu cầu về nước là một vấn đề quan trọng. Người già có thể kiêng uống nước vì sợ phải mắc tiểu, hoặc họ không tỉnh táo lắm và không thấy cần uống nước trừ có người nhắc. Ngược lại cần một lượng nước đúng mức cơ thể mới điều hoà được các nhu cầu như nước mất trong hơi thở, bốc hơi, mồ hôi ngoài da... Nếu không đủ nước, phân sẽ khô và dễ gây bón, nước tiểu quá đậm đặc làm khó chịu bọng đái, làm mắc tiểu thường hơn và khó nhịn, nín tiểu hơn. Những chất có alcohol như rượu, bia, thuốc rượu, cơm rượu, có caffeine như cà phê, trà, nước ngọt như coca cola, làm đi tiểu nhiều hơn và mất nước. Nói chung cần chừng 30 ml nước cho mỗi kg cân nặng; ví dụ cân nặng 50 kg cần 1,5 lít nước/ngày, tính luôn nước trong thức ăn (canh, soup, chè, cháo, vv,) thức uống. Nên uống phần lớn nước trước bữa ăn chiều, sau đó uống ít thôi để tránh đi tiểu đêm.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Kích thích dây thần kinh

Kích thích dây thần kinh và não bộ trong công cuộc phục hồi chức năng vận động
I) Trước hết là một phương pháp không mới, được dùng từ 20 năm nay, dùng điện kích thích trực tiếp các thần kinh điều khiển một cơ bắp nào đó bị liệt hay bị yếu sau khi stroke, gọi là kích thích cơ năng điện (functional electrical stimulation; FES). Dây thần kinh bị kích thích, điều khiển cơ bắp co lại mạnh hơn là người bịnh tự mình có thể thực hiện được, sau đó bộ óc "học lại" cách thực hiện động tác đó mà không cần đến máy nữa. Hãng Neuromove sản xuất máy dùng cho cánh tay, tay, cổ chân. Hai máy Odstock Drop Foot Stimulator và WalkAide kích thích dây thần kinh common peroneal nerve dùng cho cổ chân bị yếu (footdrop). Các máy này đắt tiền, chừng US$ 5000-6000.
II) Trong một số trường hợp dòng điện được dùng để trị bịnh não bộ trong y khoa (“electro-cures”). Trong quá khứ, người ta nhận xét ở những người mắc bịnh trầm cảm (depression) nặng hay mắc bịnh thần kinh phân liệt (schizophrenia) đi đôi với chứng làm kinh (kinh phong, epilepsy), triệu chứng 2 bịnh thần kinh trên thuyên giảm sau khi bịnh nhân trải nghiệm một cơn co giật, làm kinh. Từ quan sát đó, người ta thử dùng dòng điện để làm cho bịnh nhân co giật (Italia, 1938) thì nhận thấy có những cải thiện trong triệu chứng tâm thần như trầm cảm và schizophrenia , ngày xưa lúc mà thuốc men chưa có gì nhiều. Ngày nay electroconvulsive therapy ( ECT, "chạy điện", hay theo tiếng Pháp chúng ta gọi là "électrochocs") ít được dùng hơn vì có nhiều cách trị liệu bằng tâm lý và thuốc men, và chỉ dành cho những trường hợp kháng các loại trị liệu thông thường.
Trong ECT thực hành bây giờ, một dòng điện được cho chạy qua đầu (nghĩa là qua não bộ) của bịnh nhân thật nhanh, gây ra một cơn ‘co giật’ (epilepsy ) trong não bộ; vì bịnh nhân đang trong tình trạng mê man do thuốc mê và thuốc làm tê liệt các cơ bắp, những co giật cơ bắp thật sự không xảy ra như ngày xưa lúc ECT còn sơ khai, những hư hại trên xương khớp, cơ bắp do đó ít xảy ra.
Cơ chế ECT không được hiểu rõ, có thể do dòng điện kích thích máu lưu thông trong một số nơi của não bộ, có thể nó thay đổi hay gia tăng các chất truyền dẫn thần kinh như serotonin, có thể nó khuyến khích sự tái tạo các tế bào mới.
Ngoài ra, hiện nay cũng có những trung tâm dùng từ trường tác dụng lên trên não bộ của những người trầm cảm (Transcranial Magnetic Stimulation, TMS)). Trên thị trường có những máy cầm tay tạo nên dòng điện nhẹ chạy qua đầu bịnh nhân và theo quảng cáo được FDA chấp thuận dùng để chữa trầm cảm (cranial electrostimulation hay CES, ví dụ FW Stimulator).
III) Trong những phương pháp kích thích não bộ để tác dụng trên cơ năng, trên cách làm việc của nó, có hai cách tiếp cận:
1) tiếp cận từ bên ngoài, cho dòng điện chạy qua sọ đi vào não mà không cần phẫu thuật, gọi là 'kích thích não bộ không xâm phạm" (Non-Invasive Brain Stimulation, NIBS)
2) mở xương sọ, tiếp cận trực tiếp với mô não, gắn những điện cực lên mô não và qua những dây điện gắn với một máy chạy bằng pin gắn dưới da người bịnh, kích thích các khu não này để ảnh hưởng đến những hiệu lịnh điện từ não phát ra (Deep Brain Stimulation). Ví dụ, kỹ thuật này được áp dụng thành công trong một số trường hợp không trị được bắng những trị liệu ít "xâm phạm” hơn (nghĩa là không cần mổ óc); như bịnh Parkinson nặng, hay bịnh rung vô căn (essential tremor) làm người bịnh rung nhiều quá không sinh hoạt được, hay bịnh dystonia, epilepsy, OCD (obsessive compulsive disorder).
IV. Sau đây chúng ta chỉ bàn về NIBS trong công cuộc phục hồi chức năng vận động của người bị liệt sau khi bị tai biến mạch máu não (stroke).
Trước hết chúng ta bàn sơ về ý niệm về ‘tính dẽo dai của não bộ’, hay ‘brain plasticity’. Trong những năm gần đây, y giới đã thay đổi quan điểm về sức phục hồi của não bộ sau khi bị tổn thương. Các tế bào thần kinh qua phát triển tự nhiên, hay qua học hỏi, kinh nghiệm được kết nối với nhau (‘wired’) qua những cái rể (axon dendrite) của nó thành những mạng lưới, những đường mòn (pathway) của tín hiệu, dòng điện phát ra (‘firing’) rồi dẫn truyền đi từ tế bào này qua tế bào khác, phục vụ cho một cơ năng, công việc nào đó, ví dụ bò, đi, chạy, nói, đánh đàn.
Thay vì theo quan niệm như trước đây, phần nào bị hư hại , ví dụ, do máu không đến nuôi nữa vì vỡ một mạch máu nhỏ, gây stroke, làm bịnh nhân không nói được, thì cơ năng đó (cơ năng nói) sẽ mất luôn. Quan niệm ‘dẽo dai’ (plasticity) cho rằng bộ óc có thể “tái tổ chức”(to reorganize) lại được. Óc có thể điều khiển cho các mạng lưới, các pathway kết nối các tế bào thần kinh nối lại (rewiring), đi ngã khác tạo nên những ‘pathway’ mới, những mạng lưới mới để thay thế những pathway bị hư hại; tương tự như con sông bị nghẽn chỗ này sẽ đâm nhánh qua những con kênh nhỏ khác. Não bộ dùng những vùng não khác còn nguyên vẹn chung quanh chỗ bị hư hại, dạy cho những neuron “làm" công việc mới, nối kết lại trong những hệ thống mới, trong nguyên tắc là "tế bào neuron cùng ‘bắn’ [phát tín hiệu] cùng nhau sẽ nối kết với nhau" (Neurons that fire together wire together [Donald Hebb, 1949]). Não bộ cũng dùng những vùng cùng nhiệm vụ ‘đồng nhiệm’ ở bên bán cầu não bên kia. Vì thường những vận động chỉ dùng bên bán cầu não trội (dominant hemisphere), thường là bên não trái (90%), cho những cử động của các cơ bên phải, vùng vận động cho ngôn ngữ cũng nằm bên óc trái. Bán cầu não bên phải đóng vai trò như một ‘bánh xe xơ-cua’, còn xài được. Trong lúc còn bình thường, có một sự ngăn trở giữa hai bán cầu não, để não bên trái không cản trở công việc của bán não trội, tuy nhiên sau khi não trội bị tổn thương, sự trao đổi giữa hai bên có thể gia tăng, và sự can thiệp của bên bán não phải (không trội, non-dominant hemisphere) có thể trở thành vấn đề làm chậm lại tiến trình phục hồi của não trội bên trái.
Người ta ghi nhận kết quả đáng kể của tác dụng dòng điện lên trên sự phục hồi của cơ năng vận động, nhưng chưa có kiến thức cụ thể, chắc chắn nó tác dụng như thế nào. Người ta nghĩ rằng tác dụng dòng điện trên não bộ làm "điều hoà" (to modulate) những cố gắng khác nhau của mô não trong cố gắng tái tạo của não bộ, một yếu tố quan trọng là giảm tác dụng , giảm can thiệp của bán cầu não phải để cho phép bán não trái vận dụng những vùng chung quanh vết thương của nó một cách hữu hiệu hơn.
Có hai cách kích thích não bộ:
1) Kích thích trực tiếp bằng dòng điện xuyên qua sọ, từ máy phát điện đi vào điện cực dán vào da đầu (Transcranial direct current stimulation (tDCS) of the brain)
2) Kích thích qua sọ bằng từ trường, từ trường thẳng góc với sọ sẽ được biến thành một dòng điện kích thích vỏ não phía dưới (Repetitive transcranial magnetic stimulation (rTMS)
Cả hai phương pháp này đều đang trong vòng khảo cứu. Theo tôi tìm hiểu thì bịnh nhân nếu muốn tham gia cần gia nhập những nhóm thử nghiệm lâm sàng. Tốt hơn hết là nên hỏi các chuyên viên y khoa phục hồi của mình hay hỏi bác sĩ chuyên khoa thần kinh nơi mình ở.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Gãy xương bàn chân số 5

Bàn chân có 5 cái xương metatarsal (MT) xoè ra như 5 cái nang của một cái quạt. Xương metatarsal thứ 5 (MT5) cùng với xương gót và xương thứ nhất tạo thành một thế kiền 3 chân cho bàn chân đứng vững. Tuy nhiên nó lại ít được các mô mềm bao bọc và che chở, và do cách sắp xếp của 3 động mạch nuôi dưỡng, có môt vùng gần đầu xương (meta-diaphyseal junction) ở đó, nếu bị gãy sẽ khó lành hơn (non-union). MT5 cũng là xương di động nhiều nhất trong 5 xương MT, cho nên nếu bị chấn thương hay gãy xương mà không phục hồi tử tế, có thể làm đau bàn chân dễ dàng hơn.
Trong MT, xương MT 5 dễ bị gãy nhất, do chấn thương như té, bẻ bàn chân đột ngột, vặn bàn chân vào phía trong, một vật gì rơi xuống hoặc do stress gây ra stress fracture. Tuỳ vết gãy nằm trên đoạn nào của xương, xương có xê dịch hay không, có ngắn lại không sẽ quyết định xương lành dễ dàng hay không, và các theo dõi điều trị. Cho nên cần định bịnh chính xác chi tiết về vết gãy trên hình quang tuyến, cũng như bác sĩ chuyên môn về chỉnh trực chữa bịnh nếu có vấn đề. Trong trường hợp gãy do stress, thường bịnh nhân đã từng đau sẵn chỗ đó, một thời gian trước khi xương gãy.
Stress fracture là vết nứt, gãy, hay bầm trong xương do xương đó bị cử động quá nhiều, thường xảy ra ở các lực sĩ chạy bộ (march fracture) , đá banh, bóng rổ, cũng như những người vừa thay đổi trong cách tập của mình (như chạy treadmill đổi qua chạy ngoài đường), hay theo một thể thao mới, nặng nhọc hơn. Loãng xương (osteoporosis) cũng làm stress fracture dễ xảy ra .
Sau đây là hướng dẫn của Hội các Bác sĩ Chỉnh trực Hoa kỳ (American Academy of Orthpaedic Surgeons) về vấn đề này:
"Đa số các vết gãy xương bàn chân số 5 có thể chữa trị bằng cách dùng một chiếc dày bốt cho phép bịnh nhân đi ("walking boot") ở mức thoải mái. (Chú thích: “walking boot”: giày làm cho cổ chân, bàn chân được che chở, chỉ chịu sức nặng vừa phải thôi, trong thời gian chuyển tiếp đợi vết gãy lành hẵn; giá ở Mỹ chừng 50-100 đô la). Vết gãy xương bàn chân thường lành (phục hồi) sau 6-8 tuần hoặc lâu hơn. Bác sĩ có thể cần chụp X quang để chắc chắn là xương gãy lành tốt và ngay ngắn. Dù có lành tốt đi nữa, chân của bạn vẫn có thể sưng nhiều tháng sau đó, và tìm được giày đi êm chân có thể khó khăn. (http://orthoinfo.aaos.org/topic.cfm?topic=a00165)
Bác sĩ sẽ hướng dẫn cho bịnh nhân biết lúc nào có thể hoạt động lại bình thường (tuỳ người, ví dụ, đá banh, chạy bộ..). Nếu đau cần đi khám bác sĩ. Dùng bàn chân gãy xương sớm quá có thể gây tổn thương tái lại.
Tóm lại, tốt hơn hết, nên đi khám lại bác sĩ và theo hướng dẫn. Trong lúc chờ đợi bs, có thể cần mang một loại giày ống “walking boot”, hay “CAM boot” [CAM: Controlled Ankle Movement], để che chở cổ chân và bàn chân lúc đi lại, để sức nặng thân thể không đè lên chân bị thương trong 4-6 tuần tới.
Xin nhắc lại là những nhận xét trên chỉ có tính cách rất tổng quát và không thể giúp thính giả tự chữa lấy.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Triệu chứng lưỡi rát

Triệu chứng lưỡi rát có nhiều nguyên nhân. Nếu bác sĩ tai mũi họng khám và nội soi mà không thấy gì đáng lo ngại, và ông đã thấy bớt nhiều, có lẽ chỉ một vấn đề ngắn hạn làm ông rát lưỡi, ví dụ viêm lưỡi.
Viêm lưỡi thường có triệu chứng kèm theo như lưỡi đỏ, láng; nguyên nhân có thể do thiếu máu, thiếu một số vitamin nhất là vitamin B, nhiễm trùng nấm, siêu vi. Vitamin PP (cũng gọi là vitamin B); thiếu vitamin PP có thể gây bịnh pellagra; thiếu vitamin PP gây ra lở da ở những vùng phơi nắng (tay, chân, mặt), lưỡi sưng đỏ, cùng với những triệu chứng thần kinh như mất ngủ, hung hăng, lú lẫn, điên loạn.

Các nút vị giác (taste buds) cứ chừng 10 ngày là bị thay đổi hết một nửa (half life of 10 days), cho nên bịnh nhân, nhất là người già, dễ bị rơi vào tình trạng dinh dưỡng kém gây ra cơ năng vị giác giảm do niêm mạc lưỡi bị viêm và teo (atrophic glossitis), dẫn đến lơ là ăn uống, dẫn đần thiếu dinh dưỡng [kể cả vitamin] nặng thêm.
Nếu bác sĩ tai mũi họng khám không thấy gì, nên nhờ một bác sĩ nội thương xem mình có vấn đề gì liên hệ đến các lãnh vực dinh dưỡng, nhiễm trùng nói trên hay không, xem tình trạng tiêu hoá (ví dụ tràn dịch bao tử -thực quản (gastro-esophageal reflux] có thể làm rát lưỡi); khám bác sĩ nha khoa để xem lại vệ sinh miệng và răng.
Nếu bịnh rát lưỡi vẫn kéo dài mà bs không tìm thấy nguyên nhân, chúng ta có thể nghĩ đến hội chứng rát miệng.
Hội Chứng Rát Miệng (Burning Mouth Syndrome, BMS), hay còn gọi là Bịnh “đau lưỡi” (glossodynia, glossa=lưỡi, odyna=đau ).
Đại đa số bịnh nhân là đàn bà ( tỷ lệ 7/1 cho đến 31/1), đa số ở người phụ nữ đã tắt kinh, và có những triệu chứng khác của thời sau khi nghỉ kinh (postmenopausal). Phụ nữ gốc Á châu cũng như người Da Đỏ dễ mắc chứng này hơn.

Triệu chứng:
1) Vị trí: đau ở 2 bên lưỡi, ít gặp hơn: ở vòm miệng, môi hoặc nướu răng hàm dưới
2) Đau mạn tính (chronic pain), hiếm khi tự nhiên khỏi.
3) Đau theo lối rát, như bị phỏng (burning pain), hay tê tê, thấy rần như kiến bò (tingling). Nhiều khi chỉ mơ hồ là khó chịu, ê đau, không đau rõ rệt.
4) Triệu chứng đi kèm: cảm thấy khô miệng, khẩu vị, vị giác có thể thay đổi (dysgeusia); vd đắng lưỡi, vị kim loại (tanh tanh, metallic taste); nhạy cảm quá đáng với những vị khác nhau; đau lưng mạn tính; ruột quá nhạy cảm dễ đau bụng đi cầu xong lại khỏi (irritable bowel syndrome, IBS); bụng sình hơi; cảm giác nuốt nghẹn (globus pharyngeus); đau bụng lúc có kinh (dysmenorrhea); cảm giác lo lắng (anxiety); ăn không ngon; trầm cảm (depression); rối loạn cá tánh (personality disorders).
5) Thời điểm:
Ba loại đau:
a) loại 1: sáng dậy không đau, đau xuất hiện, xong từ từ tăng dần, đau nhất buổi tối lúc giờ đi ngủ nên rất khó ngủ, làm mệt mỏi, lo lắng.
b) loại 2: đau lúc mới thức dậy và đau suốt ngày (thường gặp nhất)
c) không theo thứ tự nhất định
6) Những tình huống làm bịnh nặng hơn:
Thần kinh căng thẳng, mệt, nói nhiều, thức ăn cay, nhiều gia vị.
Ít đau hơn lúc: ăn uống. Nên để ý, trong bịnh đau miệng do lỡ miệng, đau răng, đau hàm, người bịnh càng đau hơn lúc ăn uống; nếu đau rát miệng mà ăn uống lại bớt đau, thì đây là một dấu chỉ đặc biệt của “hội chứng rát miệng”.
Có thể bớt đau nhờ uống thuốc hoặc thoa thuốc tê vào chỗ đau.
7) Cường độ đau: cở trên trung bình (5-8/10), tương tự như đau răng.
8) Có thể làm mất ngủ, nhưng có thể không ảnh hưởng giấc ngủ.
9) Như trường hợp vị thính giả hỏi, đa số bịnh nhân từng được nhiều bác sĩ khám và chữa nhưng không có kết quả rõ rệt.

Nguyên nhân:
Theo định nghĩa của BMS, chúng ta chưa hiểu rõ nguyên nhân chứng này, và chỉ định bịnh BMS sau khi loại bỏ những nguyên nhân có cơ sở thể chất cụ thể hơn (như loét do ung thư, đau răng, đau khớp thái dương-hàm dưới (temporomandibular joint, TMJ), viêm dây thần kinh do thiếu vitamin B, folic acid, Fe, zinc; do siêu vi [herpesvirus]); suy cơ năng tuyến giáp (hypothyroidism); bịnh tiểu đường (diabetes type 2); dị ứng với thuốc, thức ăn, kim loại trong răng; bịnh do răng giả gây khó chịu.

Những giả thuyết giải thích BMS:
-Những khảo cứu gần đây cho rằng BMS do rối loạn cơ năng các dây thần kinh sọ V, VII, IX phụ trách về vị giác.
-Người mãn kinh thiếu hormone estrogen và progesterone
-Hiện tượng tự miễn nhiễm, do cơ thể sinh ra những kháng thể chống lại chính mình ( những kháng thể chống nhân (ANA, antinuclear antibodies) hay yếu tố phong thấp (RF, rheumatoid factor) có thể hiện diện trong máu trên 50% bịnh nhân, bịnh khô miệng do nước miếng bất bình thường)
-Bịnh trầm cảm, bịnh lo lắng có thể kèm theo. Bịnh BMS có thể là một biểu hiện của bịnh thần kinh tâm thể (psychosomatic manifestation, bịnh tâm lý biểu hiện bằng triệu chứng vật thể), chứng sợ ung thư, sợ bịnh phong tình, chứng "bịnh tưởng" (hypochondriasis).
-Một số bịnh nhân có thể có thói quen lấy lưỡi chạm vào răng, hay đẩy lên vòm miệng làm gây ra những chấn thương li ti cho lưỡi.
- Bịnh Parkinson có thể làm dây thần kinh nhạy với sự đau đớn hơn.
-Liên hệ tới một giai đoạn khó khăn, bị stress trong đời, thường là 3-12 năm sau khi tắt kinh.

Chữa trị:
1) Loại bỏ các khả năng bịnh đã kể ở trên gây ra triệu chứng khô, rát, đau lưỡi miệng.
2) Nếu không có bịnh đi đôi: bác sĩ cần giải thích cho bịnh nhân yên tâm; giảm lo lắng bịnh nhân, nhất là lo ung thư (cancerophobia), lo bịnh tính dục (sexually transmitted diseases);
3) Nếu cần thuốc an thần, thuốc chống trầm cảm ba vòng ( tricyclic antidepressant), thuốc chữa trị co giật (anticonvulsivant, vd gabapentin [Neurontin], dùng với mục đích giảm cơn đau do dây thần kinh quá nhay cảm gây ra.)
4) Capsaicin là một chất lấy từ ớt, có tác dụng làm giảm đau. Có những nghiên cứu cho thấy chất này có thể có ích trong chừng 1/3 các trường hợp. Tuy nhiên ở Mỹ không có thuốc chứa capsaicin để thoa trong miệng.
Tránh thuốc súc miệng có chứa alcohol, kem đánh răng có chứa sodium lauryl sulfate
tránh uống rượu, nước pH thấp (acid) như cà phê, nước cam, chanh.
Uống những ngụm nước thường xuyên cho miệng khỏi khô, mút nước đá, nhai kẹo cao su không có đường.

5) Có thể cần tâm lý trị liệu (psychotherapy), hành vi trị liệu pháp (biobehavioral techniques).

6) Nếu một nguyên nhân vật thể giải thích được chứng đau miệng (ví dụ đi khám răng và thấy răng gần đó hay khớp TMJ gần đó có thể giải thích được cơn đau ở lưỡi) thì những chứng trầm cảm lo lắng có thể được giải toả sau khi giải quyết được bịnh đau miệng/lưỡi.
Trong 2/3 trường hợp, bịnh BMS tự nhiên từ từ thuyên giảm, các cơn đau thưa thớt đi và bịnh nhân cuối cùng hết đau.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Migraine mắt

1) Migraine gốc chữ Hy Lạp có nghĩa là đau nửa đầu (hemi= nửa, cranium=sọ, đầu, qua tiếng Pháp thành migraine). Migraine là một trong những nguyên nhân chính làm đau đầu kinh niên (mãn tính).
Migraine: thường cơn đau một bên đầu, nhưng có thể cả hai bên, đau bưng bưng (throbbing pain), nhưng có thể âm ỉ, có thể kèm theo buồn nôn, không ăn ngon, mắt mờ, sợ ánh sáng hoặc tiếng động. Một hay hai ngày trước, có một giai đoạn prodrome với những dấu hiệu báo trước như: bón,tiêu chảy trầm cảm, ngái ngủ, ham ăn, bứt rứt , khó chịu.
Trước một hai tiếng đồng hồ, 15-20% có những dấu hiệu báo trước gọi là aura. Nghĩa gốc aura là không khí (giống như 'air', hơi thở , cơn gió thoảng, chỉ một hiện tượng thoáng qua. Aura có thể là rối loạn về cảm xúc (sensory aura) như thấy tê (numbness) hay kiến bò (tingling) chạy lên xuống một cánh tay trong 10-20 phút, có thể lan qua một bên mặt, lưỡi. Có loại aura làm rối loạn lời nói, phát âm không được, gọi là dysphasic aura. Có khi bịnh nhân thấy bị liệt nửa người, gọi là hemoplegic aura.
Những dấu hiệu thị giác có thể đi cùng; và lúc đó người ta gọi là "visual migraine" hay migraine thị giác. Aura loại thị giác là aura thường gặp hơn cả: chừng một tiếng trước khi nhức đầu, bịnh nhân thấy một lổ sáng, lan rộng dần với những bờ hình dạng như các vách phòng thủ các lâu đài (fortification spectrum), lớn dần thành hình lưỡi liềm theo sau những đường chữ chi (Zigzag lines), những ánh chớp, kéo dài chừng 30 phút. Có lúc có những điểm đen, gọi là scotoma trong thị trường (visual field của bịnh nhân).
Những aura kể trên có thể xảy ra trước hay cùng một lúc với cơn đau đầu (migraine attack), kéo dài chừng 4 giờ cho đến vài ngày. Có lúc có những aura xuất hiện mà không có cơn đau đầu (acephalgic migraine). Những trường hợp aura này được giải thích bằng những rối loạn trong hoạt động điện hay hoá học của não bộ. Thuyết mới nhất, "Cortical Spreading Depression" hay CSD, cho rằng một "làn sóng im lặng" của hoạt động điện của một phần của não bộ trong đó các tế bào thần kinh im lặng, không phát ra bất cứ ra tín hiệu nào. CSD gây ra bởi sự đảo ngược của dòng điện (reversal of electric flow) qua các tế bào thần kinh, tạo nên tình trạng hoạt động bất bình thường của các tế bào này, đi đến sự kiệt sức (tạm thời) của chúng.(Theo Richard Kraig, CSD“is a spreading wave of electrical silence in which cortical neurons go quiet. There’s no firing at all.”). Trong aura thị giác, thuỳ chẩm của bộ óc (phía sau đầu) là nơi xảy ra hiện tượng này.

Biểu hiện của aura dễ bị nhầm lẫn stroke (là hiện tượng gây ra do một mạch máu nuôi một vùng não bộ bị tắt nghẽn) trên lâm sàng vì các dấu hiệu, triệu chứng hơi giống nhau.
Migraine mắt (hay ocular migraine, retinal migraine, ophthalmic migraine, monoocular migraine) khác với các aura thị giác (visual migraine) nêu trên, rối loạn thị giác xảy ra chừng 30 phút, có thể đau đầu hay không đau, và tự chấm dứt không cần chữa trị gì cả. Chừng 200 người bị migraine mới có một người bị loại này. Khác với các aura, các dấu hiệu xảy ra như ánh sáng chớp, vết đen (scotoma) , mù tạm thời chỉ trong một mắt, xảy ra trong cơn đau đầu và sau khi dứt cơn đau đầu. Người ta nghĩ rằng nguyên nhân nằm trong võng mạc (retina), hoặc các mạch máu nuôi võng mạc (retinal blood vessels) bị co thắt và tạm thời không đủ nuôi các tế bào [thần kinh] của võng mạc, hoặc có rối loạn cơ năng của các tế bào này. Để cho dễ hiểu, có thể ví "retinal migraine" như trường hợp máy thu hình video camera bị hư làm mất hình ảnh, và visual migraine lúc mất hình ảnh vì computer tiếp nhận tín hiệu từ camera bị hư.
2) Triệu chứng migraine (theo HIS [Headache International Society])):
-điểm chớp sáng (scintilallations)
-điểm đen, điểm mù (scotomas)
-bịnh nhân mù (blindness) một phần hay hoàn toàn một bên mắt (trái hay phải), thường thì thạm thời.
- cơn đau đầu migraine (migraine attack)
-triệu chứng khác: như chóng mặt, buồn nôn, nhạy cảm ánh sáng.
Bác sĩ khám mắt ngoài những cơn ocular migraine sẽ thấy mắt hoàn toàn bình thường. Bs cần loại bỏ các nguyên nhân khác gây rối loạn mắt,nhức đầu,... trước khi kết luận đây là migraine mắt.

3) Migraine nhẹ chữa bằng những thuốc thông thường như acetaminophen, NSAIDS như Motrin, Aleve. Bn nằm nghỉ ngơi ở trong phòng yên tĩnh, tối. Nặng hơn , bs có thể d ùng những thuốc làm co mạch máu như ergotamine (Cafergot, trong đó có thêm caffeine) hoặc thuốc tryptan ( như Sumatriptan, Imitrex) mới hơn, làm giảm viêm và co lại các động mạch dưới sọ (cranial arteries). Nếu bị đau migraine trên 3 lần mỗi tháng, bs có thể cho thuốc uống hàng ngày để chặn các cơn đau đầu (ví dụ aspirine, propanolol (thuốc hạ áp huyết), cyproheptadine –là một thuốc chống dị ứng (allergy medicine), thường dùng cho trẻ em ăn ngon miệng hơn).
Giảm stress, ăn uống điều độ,ngủ đủ giờ, tránh thuốc lá, tránh những hoàn cảnh, yếu tố khơi dậy cơn migraine (migraine triggers). Ví dụ uống cà phê, trà chứa nhiều caffeine quá, hay ngưng cà phê đột ngột; uống rượu đỏ hay ăn chocolate, fromage loại để lâu (aged cheese), miso soup, mắm, cá mắm nói chung thịt cá để lâu (những thức này chứa tyramine). Nên ghi chép nhật ký những thức ăn có vẻ gây nhức đầu và tránh những món đó. Ngủ quá ít; thức quá khuya; nhịn đói có thể khởi động migraine..
4) Riêng về bịnh nghẽn động mạch cổ (carotid artery stenosis ) do xơ vữa động mạch (mỡ đóng trong lòng động mạch),thường người ta nghĩ đến can thiệp bằng phẫu thuật hay bằng thông động mạch (Carotid Endarterectomy [CEA]), Carotid Angioplasty and Stenting [CAS] sau khi bịnh nhân đã bị stroke rồi và động mạch cổ hẹp đáng kể (70% trở lên, d bằng phương pháp không xâm phạm [non-invasive imaging], trong những đều kiện tốt về sức khoẻ bịnh nhân cũng như khả năng của bác sĩ phẫu thuật (theo AHA/ASA 2014).
5) Về câu hỏi liên hệ đến sự hiện diện các tế bào hồng cầu (RBC, red blood cells) trong nước tiểu , bịnh nhân đã được là MRI (Cọng hưởng từ trường, magnetic resonnance tomography), có lẽ bác sĩ đã lục soát mọi ngõ ngách của vấn đề. Hồng cầu trong nước tiểu ở mức kính hiễn vi có nhiều nguyên nhân gây ra. Nếu bịnh nhân còn ngại,tốt hơn hết nên đi thử nước tiểu lại sau vài tháng , hoặc nếu xuất hiện một triệu chứng gì mới như tiểu ra máu, tiểu khó, đau, đi tiểu nhiều lần trong đêm, tiểu són, nước tiểu hôi thối, vân vân.
Tất cả các nhận xét trên chỉ có tính cách thông tin tổng quát.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Sẹo lồi và keloid

Bình thường, lúc da bị một vết thương, mô xơ sẽ thành hình và lấp đầy chỗ trống bằng mô xơ, gồm những sợi collagen giống như collagen trong da bình thường, chỉ khác ở trong sẹo các sợi collagen xếp song song cùng một hướng, trong lúc bình thường các sợi này đan với nhau như các sợi lạt của một cái giỏ tre, cho nên chất collagen trong sẹo không co giãn, không chịu đựng tia cực tím, và không chứa các chân lông hay hạch mồ hôi như da thường. Mô xơ mọc đến mức vừa phải rồi ngưng. Nếu không đủ collagen, thẹo sẽ lõm xuống (atrophic scarring).
Lúc mô xơ bằng collagen này được sản xuất nhiều quá, sẽ gây ra sẹo phì đại (chỉ lồi lên, không lan ra; raised scar, hypertrophic scar), và nếu mô sẹo lan ra chung quanh, lan rộng ra khỏi ranh giới vết thương, gây ra sẹo keloid (gốc Hy Lạp: khele=càn cua; thẹo lồi lên, giống như càn cua). Da người da đen có nhiều tế bào fibroblast (sinh ra collagen để sẹo thành hình) và fibroblast to hơn là ở người da trắng nên họ dễ bị sẹo lồi hơn. Người da màu bị sẹo lồi hơn người da trắng. Người gốc Trung Hoa ở Á Châu, đây là bịnh ngoài da thường gặp hơn cả. Có yếu tố gia đình, 1/3 có người trong gia đình cùng bịnh; tuổi 20-30 dễ bị sẹo lồi hơn trẻ em và người già.
Có những chất làm vết thương khó chịu, lâu lành và dễ tạo nên sẹo lồi. Cách đây mấy chục năm, chúng ta dùng "teinture d'iode", thuốc bôi có chất i-ốt (tincture of iodine) để sát trùng vết thương, nhưng nay không dùng nữa cho các vết thương nhỏ vì nó gia tăng khả năng gây thẹo. Trong một số trường hợp, ví dụ một số bộ lạc Châu Phi, hay trong một loại nghệ thuật da dùng sẹo như là một biểu hiện nghệ thuật (scarification), người ta cố tình tạo nên các thẹo lồi, cố tình kéo dài thời gian lành vết thương và kích thích sẹo thành hình bằng những chất như nhế đất sét, tro vào vết thương, chà chanh, kem đánh răng, tincture of iodine.
Những nơi thường gặp sẹo phì đại, keloid nhất là: tai (vd sau khi xỏ lổ tai), ngực, lưng, cổ (sau khi bị mụn). Không xảy ra trên mặt, trừ vùng quai hàm. Hiếm khi thấy ở bộ phận sinh dục, lòng bàn tay bàn chân. Đặc biệt các sẹo lồi ở ngực dễ trở thành keloid, nghĩa là lan rộng ra khỏi ranh giới vết thương. Thẹo lồi xuất hiện hàng tháng sau khi vết thương lành, và tiếp tục lớn thêm từ từ trong vài tuần vài tháng, có khi kéo dài tăng trưởng năm này qua năm khác. Có lúc thì tăng thể tích nhanh chóng, lớn gấp ba chỉ trong vài tháng. Càng ngày, màu càng đậm thêm,đậm hơn da bình thường. Kích thước có thể chừng vài cm cho đến chừng 20 cm (vùng lưng, vai).
Triệu chứng chính là ngứa, và đau. Ở vùng khớp thẹo lồi có thể làm co rút đoạn quanh khớp.
Trị liệu: mục đích chính là vấn đề thẩm mỹ.
1)Chích thuốc vào sẹo: thường là chất corticoid; chích 3-4 tuần một lần, chừng 4 lần. Lúc đầu thẹo sẽ mềm ra, sau đó teo lại (50-80%). Tuy nhiên nhiều người tái lại sau chừng 5 năm.
2) Phẫu thuật: cắt bỏ thẹo keloid. Tuy nhiên gần như chắc chắn là sẽ sẽ trở lại. Có người cho đây là một nghịch lý (“counter-intuitive”) vì giải phẫu sẽ gây ra một vết thương mới lớn hơn nữa, và có khả năng gây ra keloid mới, có người phải mổ đi mổ lại nhiều lần và cuối cùng bỏ cuộc. Cho nên bs có thể kết hợp với những phương pháp khác sau khi mổ: như chích thuốc, dùng xạ trị (radiation), đè nén (compression) sẹo, ví dụ dùng bông tai đặc biệt kẹp trái tai lại sau khi bị sẹo lồi; áo, quần siết vào hay băng chặt vùng sẹo phải mang 16 giờ/ngày trong 6-12 tháng [pressure garnment], khó thực hiện); xạ trị (radiation)(bắt đầu trong vòng 7 ngày sau khi mổ).
3) Silicone gel để làm sẹo teo lại, hay ngăn ngừa tái lại sau khi mổ.(vd: “Kelo-cote scar gel”). Băng chặt lại sau khi thoa thuốc chế từ chất silicone (Occlusive therapy with silicone-derived materials).
4) "Đốt" bằng sức lạnh cực thấp (cryosurgery),cho những thẹo nhỏ; có thể kết hợp với chích thuóc vào sẹo.
5) Xạ trị (radiation); tốt hơn là áp dụng sau khi giải phẫu.
6) Cột (ligature): bs dùng sợi chỉ may cột chung quanh eo của sẹo lồi; cột thắt thêm mỗi 2-3 tuần, cho đến lúc “cục thịt” rụng.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Phẫu thuật cườm mắt

Trong bịnh cataract, hoặc cườm khô, có một vết đục trong thủy tinh thể của mắt (lens). Trong một cái máy chụp hình, nhìn vào phía trước, chúng ta thấy một thấu kính (camera lens) để cho ánh sáng đi vào phía sau và ánh sáng in hình lên phim hoặc trên màng phim tiếp nhận. Mắt chúng ta cũng tương tự như một cái máy chụp hình, ánh sáng cũng đi qua một bộ phận như một cái thấu kính, bộ phận đó là thủy tinh thể (lens). Lúc cườm khô (cataract) mới xuất hiện, người bịnh thường không thấy thay đổi gì trong khả năng mình trông thấy, nhưng từ từ theo thời gian, vết đục càng ngày càng ảnh hưởng tới thủy tinh thể mắt, làm cho người bịnh biết mắt mờ đi (blurred vision), hình thể sự vật bị méo mó, người bịnh xốn mắt, khó chịu lúc nhiều ánh sáng và dễ bị chóa mắt lúc nhìn vào một ngọn đèn (glare). Cataract không chữa bằng thuốc uống được. Các chữa duy nhất là giải phẫu (mổ), bằng cách lấy cái thuỷ tinh thể đã vẫn đục ra khỏi cái vỏ (capsule) chứa đựng nó và thay thế vào đó bằng một kính nhân tạo bằng plastic (silicone hay acrylic) (intraocular lens, IOL). IOL này đồng thời cho phép bịnh nhân trước đó bị cận thị nhìn xa rõ mà không cần mang thêm kính.
Báo y khoa BMJ có đăng một bài bình luận về vấn đề này (2012)(1). Đây cũng là một vấn đề thực tế cho nền y tế công cọng vì ở Anh, trên 300.000 phẫu thuật cườm khô được thực hiện, và trong đó 30-40% là phẫu thuật trên con mắt còn lại, nghĩa là không phải lúc nào người ta cũng mổ luôn 2 mắt. (Ở Mỹ, 3,6 triệu cuộc giải phẫu/năm). Đây là một chi phí lớn cho nền y tế của một xứ (ở đây là Anh quốc), cho nên câu hỏi đặt ra là mổ mắt thứ 2 có lợi gì và lúc nào thì có lợi. Và có lẽ, đối với bịnh nhân cũng còn quan trọng hơn nữa.
Theo Bác sĩ Tan và cọng sự (2), sau khi nghiên cứu 3225 người (người Mã Lai ở Singapore) từng được mổ cườm khô mắt, chỉ những trường hợp có cườm khô đáng kể trong mắt còn lại, hay thị lực trong mắt còn lại kém cỏi thì việc mổ cả hai bên mới có lợi đứng về phương diện cơ năng thị giác nói chung được cải thiện (bilateral cataract surgery is associated with greater visual functioning over unilateral cataract surgery only when the fellow eye has significant cataract or poor presenting visual acuity.). Có nghĩa là người ta chỉ cần mổ bên mắt còn lại lúc mắt bên đó "yếu" đáng kể; nhưng thế nào là đáng kể cũng tuỳ theo nhu cầu bịnh nhân cũng như cách đánh giá của bác sĩ mắt. Ví dụ hiện nay, người bịnh nhân ở Mỹ hay ở Anh đòi hỏi một thị giác hoàn hảo hơn trước đây, hay so với những xứ như Ấn độ hay Mã Lai. Một trong những yếu tố xã hội quan trọng là người già lái xe nhiều hơn; ở Anh gần 80% người 60-70 tuổi có bằng lái xe không hạn chế, và trên 50% người trên 70 tuổi còn có bằng lái xe; trong 2 thập kỷ vừa qua, số các phụ nữ lớn tuổi lái xe tăng gấp đôi ở Anh. Ngoài ra chúng ta cũng nên nhắc đến những nhu cầu như dùng máy điện thoại thông minh có khung hình nhỏ, máy truyền hình màu sinh động cần có thị lực tốt thì mới thưởng thức đúng mức. Cườm khô cũng có thể che phần phía sau của mắt (vd võng mô) làm bác sĩ khó theo dõi một số bịnh lý của mắt.
Sau khi mổ một mắt rồi, hai mắt sẽ không có thị lực đồng đều như trước (anisometropia), một bên có thể thấy xa (viễn thị) hay cận thị hơn, làm cho bịnh nhân khó ước tính chiều sâu (nhìn 3 chiều, 3D vision), sự vật bên này nhỏ hơn bên kia, thấy một thành hai (double vision), đi có thể dễ vấp té lúc lên xuống cầu thang (problem with depth vision), thấy chóng mặt. Cần nhờ bs chuyên về mắt khám và điều chỉnh contact lens hay kính đeo nếu không mổ mắt bên kia.
Vì thấu kính nhân tạo không thích ứng xa gần được, bác sĩ phẫu thuật cũng có thể chọn thấu kính IOL khác nhau một chút cho mỗi mắt, một bên nhìn gần, xem TV, computer, mắt kia để nhìn xa.
Tóm lại, nếu muốn, bịnh nhân nên hỏi lại bác sĩ chuyên khoa của mình về tình trạng mắt chưa mổ và xin bs cho biết lợi hại như thế nào của việc giải phẫu trên mắt đó.


Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bột Nghệ, Curcumin và Nano-curcumin

Nghệ, tiếng Anh là turmeric, xuất phát từ Án độ, từng được dùng nhiều ngàn năm nay trong y học cổ truyền Án độ (Ayurvedic medicine) và là thực phẩm, gia vị phổ biến cũng như phương thuốc cổ truyền mà ở Việt Nam ai cũng biết. Tuy nhiên không riêng Việt Nam, giới khoa học thế giới đang nghiên cứu nhiều về các đặc tính dược học của nghệ và các trích tinh từ nghệ, nhất là chất curcumin mà chúng ta sẽ bàn sau. Tuy nhiên, đối với Mỹ, nghệ hay curcumin chỉ được cơ quan phụ trách thực phẩm và thuốc FDA coi như là “health food”, thực phẩm có tác dụng trên sức khoẻ, có thể dùng như một phụ trợ dinh dưỡng, chứ không công nhận như là một thuốc men dùng với mục đích chữa bịnh. Những nhận xét sau đây chỉ có tính cách thông tin và không có mục đích hướng dẫn trị bịnh.
Khi nói đến nghệ, chúng ta nói đến bột nghệ màu vàng (turmeric) lấy từ củ của cây Curcuma longa, có hoa, lá to dùng để gói bánh, xuất phát ở Án độ. Nghệ được phát hiện trong những dụng cụ nấu ăn từ 4000 năm trước . Cà-ry (curry) làm bằng bột nghệ, và chất có hoạt tính trong nghệ là curcumin, có tác dụng chống oxy hoá (antioxidant) và chống viêm. Tuy nhiên, có rất ít curcumin trong bột nghệ (chừng 3% hoặc ít hơn), và trong bột cà ry lại càng ít curcumin hơn nữa. Cho nên nếu chúng ta ăn cà ry và hy vọng nhờ vào tác dụng của curcumin trong bột nghệ thì tác dụng ích lợi, nếu có sẽ không bao nhiêu.
Về dược học của nghệ, vấn đề lớn là curcumin tan trong mỡ (fat soluble), không tan trong nước, rất khó hấp thụ từ đường ruột để vào máu chúng ta và từ đó tác dụng đến các bộ phận cơ thể. Phần lớn curcumin được uống hay ăn (40-85%) bị thải ra ngoài phân vì cơ thể không hấp thụ được. Ví dụ ăn nghệ nấu trong mỡ (dầu đậu phụng, dầu mè, nước dừa, bơ), nấu chung với tiêu, nhờ chất piperine trong tiêu có thể tăng hấp thụ của chất curcumin đến 20 lần. Nấu nghệ trong nước sôi như pha trà cũng tăng hấp thụ chất curcumin. Đấy là những điều kiện thường thấy trong cách nấu nướng cà ry và tiêu thụ nghệ của vùng Nam Á hay Đông Nam Á chúng ta.
Công nghệ nano là công nghệ làm việc ở mức rất nhỏ của các vật thể, biến đổi vật thể ở mức nguyên tử hoặc phân tử, ở mức dưới 100 nanometer. Nanometer (nm) là đơn vị chiều dài bằng một phần tỷ (1/1000.000.000) của một mét. Ví dụ nếu so sánh một nanometer bằng cỡ một hòn bi thì một mét là một trái cầu to bằng trái đất của chúng ta.
Nói chung, áp dụng kỹ thuật nano cho chất curcumin nghệ bằng cách liên kết phân tử curcumin với một chất nào khác (nanocarriers, vd polymeric micellar nanoparticles) có mục đích là curcumin bền vững hơn khi đi qua hệ tiêu hoá, làm curcumin tan trong nước, gia tăng khả năng hấp thụ của curcumin để đi vào máu và các mô của cơ thể (increased bioavailability). Tuy nhiên, kỹ thuật nano áp dụng vào y khoa nói chung là một lãnh vực rất phức tạp, bao gồm nhiều cách tiếp cận, chiến lược khác nhau. Áp dụng quan trọng nhất là trong hoá trị liệu cho ung thư, các carrier nano đem thuốc đến mục tiêu là những tế bào ung thư và tránh tác dụng trên các tế bào bình thường. Cách chọn mục tiêu (targeting, targeted delivery) này có nhiều phương cách khác nhau, tuỳ thuốc, tuỳ loại ung thư. Ngược lại các carrier cũng có thể gây trở ngại hay phản ứng phụ.
Đối với người dùng, có lẽ chúng ta chỉ biết là có thể dùng viên nghệ nano thì hấp thụ được nhiều hơn curcumin, ngoài ra, cần hấp thụ đến lượng bao nhiêu mới tốt, thuốc đi về bộ phận nào, mục đích chữa bịnh gì hay ngăn ngừa bịnh gì, có tác dụng phụ gì không so với thuốc nghệ thường, cần hỏi nhà sản xuất thuốc hay các y bác sĩ, dược sĩ bán thuốc liên hệ.
Curcumin chỉ là một chất trong mấy chục chất có tác dụng kháng oxy hoá, kháng sinh, chống ung thư, hay giảm viêm có thể tìm thấy trong nghệ. Cho nên chỉ dùng curcumin thôi chưa chắc đã gặt hái hết các lợi thế của nghệ thiên nhiên.
Trên trang web bán hàng Amazon, một chai 120 viên (250 mg) nano curcumin Mỹ bán giá 50 đô la (dùng cho 120 ngày). Theo thông tin trên chai thì kích thước của thuốc họ là 45nm để có thể đi lọt qua các kênh sinh học trong cơ thể rộng 200 nm (“biological channels), so với 250 nm của curminin trong viên nghệ thường, mà giá chừng 15-30 đô la /chai. (Để so sánh một loại nano curcumin làm tại VN bán 4 hộp dùng cho 30 ngày giá 1.120.000 đồng VN.)
Nghệ hay curcumin đang được nghiên cứu và trong ngành “y khoa lề trái”, gọi là “complementary and alternative medicine hay CAM “ ở Mỹ được một số người dùng như là một biện pháp bổ túc (supplement, adjuvant therapy) trong các lãnh vực sau (xin nhắc lại là FDA không công nhận việc dùng nghệ như là thuốc chữa bịnh):
-cùng chung với hoá trị liệu (chemotherapy) trong các bịnh ung thư; đặc biệt là kết hợp curcumin với thuốc hoá trị liệu trong những trường hợp ung thư kháng thuốc hoá trị liệu (đang nghiên cứu trong phòng thí nghiệm; reversal of multi-drug resistance)
-bịnh tiểu đường (diabetes)
-bịnh trầm cảm (depression) bịnh Alzheimer. Có người dùng chung với thuốc trị trầm cảm như Prozac.
-bịnh da vẩy nến (psoriasis)
-giúp lành vết thương
-giảm đau khớp do tác dụng giảm viêm
Về việc dùng bột/viên nghệ nói chung, nên hỏi bác sĩ của mình trước khi dùng liều cao, nên để ý đến các tác dụng phụ sau đây có thể xảy ra:
-Người có thai. Curcumin kích thích tử cung co bóp, có thể sinh non.
-Curcumin có thể là thụ thai khó khăn hơn.
-Người bịnh gan, sạn mật. Curcumin kích thích túi, ống mật
-Curcumin có thể làm những ngừoi đang dùng thuốc "loãng máu" như aspirin, clopidogrel (Plavix) dễ chảy máu hơn. Người uống thuốc NSAIDS như ibuprofen, aspirin để trị sưng khớp, giảm viêm có thể còn dễ bị chảy máu nhiều hơn với curcumin.
-người bịnh tiểu đường đang dùng thuốc hạ đường máu: curcumin có thể làm đường máu quá thấp (hypoglycemia) làm ngất xìu.
-người đang uống thuốc làm giảm acid bao tử (vd proton pump inhibitor: omeprazole [Prilosec]), curcumin có thể làm acid dạ dày được sản xuất nhiều hơn.
-ngoài ra nhiều thuốc có tương tác với curcumin, cũng như chất piperine của tiêu được kèm theo nghệ cho dễ hấp thụ có thể tương tác với một số thuốc như phenytoin (chống co giật), theophylline, propanolol (hạ huyết áp).
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Ung thư vú

Ung thư vú là ung thư thường gặp nhất của phụ nữ Mỹ. Trên 250.000 cas mới xảy ra mỗi năm (incidence), đó là chưa kể trên 50.000 ca ung thư in situ, có nghĩa là giới hạn tại chỗ, không lan ra ngoài. Đàn ông cũng có thể bị ung thư vú, nhưng một ngàn lần ít hơn. Ung thư vú ở Mỹ đang giảm từ hơn mười năm nay do người ta ngưng dùng hormon estrogen để thay thế cho hormon tự nhiên của phụ nữ sau khi họ qua thời kỳ bế kinh (hormone replacement therapy).
So với phụ nữ các nước tây phương như Mỹ và Úc, tỷ lệ ung thư vú của phụ nữ Việt Nam thấp hơn nhiều (23/100.000 VN so với 120/100.000 của tây phương). Tuy nhiên trong hai thập kỷ gần đây, tỷ số của Việt Nam gia tăng gấp đôi, trong lúc tỷ số này giảm tại các nước phương tây, và ung thư vú có chiều hướng gia tăng tại các nước đang phát triển và sẽ trở thành nguyên nhân giết người hàng đầu trên khắp thê giới.(1)
Một ngã quan trọng để các tế bào ung thư ở vú đi lan ra chỗ khác là ngã các mạch bạch huyết (hay lâm ba ; lymphatic channels) nối liền vú với những vùng khác lân cận, nhất là ở nách.
Nách là nơi nơi đến quan trọng của bạch huyết thoát ra từ vú, cho nên các tế bào ung thư sẽ bị chặn lại tại các hạch ở nách. Nếu tế bào ung thư hiện diện trong hạch ở nách, có nghĩa là tuyến phòng thủ đầu tiên đã bị phá vỡ.
Hạch bạch huyết (lymph nodes) là những bộ phận nhỏ, chừng 0,5cm cho đến 2 cm trên đường đi các kênh dịch bạch huyết. Bạch huyết là một loại dịch trong, tương tự như máu nhưng không có tế bào hồng cầu (màu đỏ) nhưng lại có nhiều tế bào bạch cầu. Các hạch bạch huyết chứa đầy tế bào lâm ba (lymphocytes) là những bạch cầu chuyên về công việc phòng thủ, chủ yếu tiêu diệt những vật lạ, vi khuẩn, tế bào ung thư do dịch bạch huyết mang về từ các nơi. Hạch có một cái vỏ (capsule) bao bọc, hình hạt đậu, ở lưng hạt đậu nhiều ống đem bạch huyết vào trung tâm (afferent lymph vessels) , và bạch huyết đã được lọc thoát ra ở những mạch đi từ vùng lõm của hạt đậu (efferent lymph vessels). Sau khi được lọc ở các hạch, bạch huyết được quy tụ về chung với máu [đỏ] qua các mạch máu.

Trước hoặc trong lúc phẫu thuật để cắt bỏ u bướu vú, bác sĩ sẽ lấy ra một hoặc một số hạch bạch huyết dưới nách để kiểm tra dưới kính hiển vi xem các hạch này có chứa tế bào ung thư hay không. Sự có mặt của các tế bào ung thư trong các hạch chứng tỏ là hệ bạch huyết đã bị các tế bào ung thư xâm lấn vào. Để giảm tầm mức phẫu thuật trên các hạch ở mức tối thiểu cần thiết, bác sĩ có thể tìm cách xác định hạch bạch huyết nào là nơi đến đầu tiên của các tế bào ung thư xuất phát từ vú, gọi là hạch "gác cổng" (sentinel lymph node). Người ta bơm vào chung quanh u ung thư một chất màu hoặc chất phóng xạ. “Hạch gác cổng” là hạch đầu tiên có nhuộm màu (lúc giải phẫu), hoặc là hạch phát ra phóng xạ (dưới da). Cắt hạch 'gác cổng' mà thôi, thử hạch này có thể biết ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết hay chưa, giúp xếp hạng ung thư (staging) và tính toán trị liệu cần thiết, tránh những thủ thuật không cần thiết, lan rộng có thể gây nhiều biến chứng hơn (sentinel node biopsy).
Báo cáo bệnh lý học sẽ cho biết có bao nhiêu hạch bạch huyết (lymphatic gland) đã được cắt ra đề thử nghiệm, và trong số đó, bao nhiêu hạch có chứa tế bào ung thư (lymph node ratio). Ví dụ, 0/3 có nghĩa là 3 hạch đã được lấy ra thử và không có hạch nào chứa tế bào ung thư, trong khi 2/5 có nghĩa là 5 hạch đã được lấy ra thử và 2 hạch có tế bào ung thư.
Kết quả cũng sẽ cho biết có bao nhiêu tế bào ung thư trong mỗi hạch, từ một vài tế bào nhỏ đến nhiều tế bào nhận diện dễ dàng. Càng nhiều tế bào ung thư thì bịnh càng nặng:
1) Microscopic: Mức tối thiểu: Chỉ có một vài tế bào ung thư nằm trong hạch. Cần có kính hiển vi để tìm chúng.
2)Macroscopic: Có rất nhiều khối u ở hạch có thể nhìn thấy, sờ thấy ung thư mà không cần kính hiển vi.
3) Extracapsular extension: Ung thư đã lan ra ngoài vỏ bọc của hạch (2)

U bướu ung thư vú loại gì,u lớn bao nhiêu, hạch bạch huyết có tế bào ung thư hay không, nhiều hay ít, tỷ lệ có ung thư (LNR: lymph node ratio) là những yếu tố quyết định quan trọng cách trị liệu, cũng như của dự hậu, nghĩa là tương lai người bịnh như thế nào (prognosis).
Staging system (I-V):
Stage IA:
U nhỏ hơn hay bằng 2cm, chưa lan ra ngoài vú , không có ung thư trong hạch bạch huyết
Stage IB:
Không có u hay u nhỏ hơn 2 cm trong vú, nhưng hạch bạch huyết có nhóm tế bào ung thư từ 0,2-2 mm
Stage II:
2A : không có u trong vú ,nhưng ung thư trong hạch lớn hơn 2mm trong 1-3 hạch.
-hay u nhỏ hơn hay bằng 2cm nhưng lan ra hạch ở nách
-u từ 2cm-5cm nhưng chưa lan qua hạch ở nách.
2B: u trong vú 2cm-5 cm, đã lan qua hạch (0.2mm-2mm hay 1/3 hạch)
-hay u trong vú trên 5cm
Stage III, u to hơn 5cm, hay hạch bị tế bào ung thư xâm chiếm nhiều hơn
Stage IV: bịnh nặng hơn (advanced cancer), di căn đi các bộ phận , các hạch ở xa (phổi, gan,xương, óc) (metastatic cancer).

Người ta thường tính dự hậu bằng tỷ lệ sống sót sau 5 năm tính từ khi định bịnh ung thư, hay 10 năm,hay một khoảng thời gian nào đó ngắn hơn.
Theo breastcancer.org, tỷ lệ sống sót sau 5 năm những bịnh nhân ung thư vú thuộc stage I và II là 100%-93% (theo thứ tự).
Theo cancer.net, tỷ lệ sống sót sau 5 năm (year-survival rate) trung bình cho ung thư vú là 89%; 10 năm ("10-year survival rate") 83%; 15 năm (15-year survival rate) 78%. Nếu ung thư giới hạn ở vú, 99% còn sống sau 5 năm, nếu đã vào hạch 85%, nếu đã di căn 26%. (2)

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Triệu chứng ho đêm mãn tính

Đa số người ho mãn tính nằm trong những nhóm sau đây:
1) Suyễn (asthma): Bịnh nhân có thể ho về đêm nhiều hơn ban ngày, hoặc chỉ ho ban đêm. Người bị suyễn có phế quản nhạy cảm hơn bình thường, có thể co thắt lại (bronchoconstriction) và có nhiều đàm trong phế quản gây ra phản xạ ho. Đêm ngủ, do trạng thái hệ thần kinh thực vật thiên về hệ đối giao cảm (parasympathetic nervous system, vagal tone)), hai hiện tượng kể trên có thể dễ xảy ra hơn ban ngày, lúc mình tỉnh táo và hệ giao cảm tác dụng mạnh hơn. Bịnh nhân có thể có bịnh sử từng bị suyển lúc còn nhỏ, có nhiều biểu hiện của dị ứng (như dị ứng mũi, ngứa do viêm da cơ địa, mề đay), cũng như bịnh sử về suyễn và dị ứng trong gia đình. Nếu cần bác sĩ chuyên về phổi có thể cho làm spirometry để đo cơ năng phổi, đo thể tích không khí mà phổi có thể hít vào và thở ra, vận tốc khí đi ra khỏi phổi nhanh tới mức nào, thử xem dùng thuốc làm nở cuống phổi (vd albuterol) có giúp cho cơ năng phổi tốt hơn hay không. Nếu khám bịnh không tìm thấy dấu hiệu rõ rệt trên lâm sàn, và nếu sức khoẻ bịnh nhân cho phép, Bs có thể thử xem cuống phổi nhạy cảm đến mức nào lúc bị "khiêu khích" bằng cách cho bịnh nhân chạy bộ mệt nhọc (stress, làm thở nhanh), hít hơi lạnh, hay hít vào chất có khả năng làm co cuống phổi (vd histamine, methacholine)(bronchoprovocation challenge test). Bs có thể cho bịnh nhân dùng thử những thuốc làm nở cuống phổi, giảm viêm cuống phổi hay giảm dị ứng.
2) Bịnh ở mũi và xoang; nhất là dị ứng mũi (allergic rhinitis) hay viêm xoang (sinusitis), có thể là nhớt hay chất tiết, mủ chảy về phía sau họng (postnasal drip), làm khó chịu và làm viêm phần phía sau họng cũng như vùng thanh quản (larynx), làm bịnh nhân ho, nhất là lúc nằm xuống, vì ở tư thế này đàm nhớt nhỏ xuống phía sau họng, và bịnh nhân không nuốt kịp vì mê ngủ. Bình thường, mũi sản xuất chừng 1 lít nhớt (mucus) và thả xuống họng để giữ cho mũi và họng đừng khô quá, cũng như giúp chống lại nhiễm trùng. Chúng ta không ý thức về chuyện này vì nhớt mũi trộn với nước miếng được nuốt xuống dạ dày liên tục, một cách vô ý thức. Bất cứ nguyên nhân gì gia tăng sản xuất chất tiết của mũi (như dị ứng, viêm, nhiễm trùng, ăn cay, khói bụi do ô nhiểm môi trường, có bầu, mũi không bình thường do vách ngăn hai lổ mũi bị lệch qua một bên), làm trở ngại việc nuốt nhớt xuống dạ dày đều có thể cho cảm giác đàm ứ trong họng, vướng đàm, phải tằng hắng để thanh giọng nói, và ho ban đêm.
  • Guaifenesin (Mucinex) , uống, bán tự do làm lỏng đàm nhớt (expectorant).
  • Tuy nhiên, hữu hiệu nhất là uống nước đầy đủ, nhỏ nước muối pha ở mức tương đương với huyết thanh (normal saline nose drops) hay súc mũi (nasal irrigation, neti pot) bằng dung dịch nước muối; ăn cháo gà nóng ("chicken soup") làm mũi thông, dễ thở, lỏng đàm, thông họng và cung cấp thêm nước cho cơ thể.
  • Có thể hút bụi kỹ nơi ngủ, dùng máy lọc không khí, giữ độ ẩm vừa phải không khô quá. Bác sĩ gia đình, hay nếu cần bác sĩ tai mũi họng có thể khám và xem có bịnh mủi, xoang hay không và điều trị thích ứng. Những biện pháp giản dị như dùng các loại kháng histamin loại mới như loratadine (Claritin, Alavert), fexofenadine (Allegra), cetirizine (Zyrtec), levocetirizine (Xyzal), and desloratadine (Clarinex) không làm buồn ngủ, và không làm nhớt mũi đậm đặc lại như những thuốc kháng histamin cũ , vd diphenhydramine (Benadryl), chlorpheniramine (Chlor-Trimeton) có thể làm nghẽn những đường lưu thông của nhớt mũi.
  • Những thuốc nhõ mũi làm thông mũi bằng cách co các mạch máu trong mũi (nasal decongestant) chỉ được dùng ngắn hạn vài ngày mà thôi, dùng lâu có thể lờn thuốc, lại càng nghẹt mũi thêm. Những thuốc corticoid bơm vào mũi hàng ngày, hay thuốc chống dị ứng loại montelukast (viên hay cốm) có thể dùng dài hạn để chữa dị ứng mũi.
3) Một số người ho đêm do tràn dịch dạ dày-thực quản, chất đàm nhớt từ mũi đi xuống dạ dày bị gặp khó khăn. Bịnh trào ngược từ bao tử lên thực quản (gastro-esophageal reflux disease, GERD) là do chất dịch tiết trong bao tử, có tánh acid, đi ngược lên trên thực quản, gây ra triệu chứng như rát, đau , buốt trong lồng ngực (heartburn), ợ chua do thức ăn chạy ngược đến miệng (regurgitation). Do acid rất mạnh tấn công lên trên niêm mạc lót trong thực quản, thực quản có thể bị viêm mãn tính (reflux esophagitis), làm thẹo, làm thay đổi các tế bào thực quản (dị sản, metaplasia) và có thể về lâu dài gây ra ung thư (esophageal adenocarcinoma). Acid đi ngược đến thanh quản, khí quản, cuống phổi, cũng có thể gây ra những triệu chứng như ho mãn tính, khan tiếng (viêm thanh quản, đau họng mãn tính ( chronic laryngitis), suyễn; những triệu chứng này có thể làm bs định bịnh sai lạc và chữa trị không hiệu quả. Tuy nhiên, bịnh trào dịch không tỷ lệ thuận với triệu chứng, có nghĩa là có thể trào dịch nhẹ mà triêụ chứng nặng, và ngược lại.
Bịnh GERD tùy theo nhiều yếu tố như tình trạng co thắt của cơ tròn giữa thực quản và bao tử (gastroesophageal sphincter), khả năng thực quản dùng nhu động để đẩy dịch bao tử xuống, khả năng tiết nước miếng để trung hoà acid trong thực quản, khả năng bao tử sản xuất ra acid, khả năng đẩy thức ăn qua ruột nhanh hay chậm, cho nên chữa thuốc có thể thành công nhiều hoặc ít, tái lại hay không.
Thường bs khuyên thay đổi nếp sống như:
  • Tránh đồ ăn chua (chanh, thơm/dứa), ăn lượng thức ăn ít hơn (để bao tử đừng quá căng), những thức gây trào dịch: mỡ, chocolate, peppermint, rượu, hút thuốc lá
  • Không ăn uống 3 giờ trước khi đi ngủ
  • Kê đầu giường lên cao 15 cm để thức ăn trong bao tử khó đi ngược lại
  • Cố gắng sụt cân nếu quá mập
  • Uống thuốc chống axit như Maalox, Calcium carbonate (Tums)
Omeprazole phần chính là có tác dụng giảm chất axit trong bao tử bằng cách ức chế các tế bào sản xuất axít HCl (proton pump inhibitor), do đó làm giảm các triệu chứng khó chịu do axit gây ra.
Tràn dịch bao tử lên thực quản (GERD): Với liều thấp trong 2-4 tuần (ví dụ omeprazole [Prilosec] có bán tự do không cần toa, 20mg/ ngày 30 phút trước bửa ăn), chừng 80% bịnh nhân sẽ giảm triệu chứng nhiều hoặc hết hẳn. Tuy nhiên, 20% còn lại cần liều cao hơn (ví dụ omeprazole 20mg x 2 lần/ ngày), một số ít cần uống thuốc giảm axit liên tục hoặc từng đợt 2-4 tuần rồi nghỉ và uống lại khi cần. Một số trường hợp không đáp ứng với thuốc uống cần được bs đường ruột theo dõi, nội soi nếu cần. Triêu chứng có thể do một chứng bịnh khác nhưng không phải do tràn dịch , hoặc do cơn đau trở thành một biểu hiệu của bịnh tâm lý (nội soi không thấy dấu hiệu trào dịch, đo axít liên tục (ambulatory pH monitoring) trong thực quản >bình thường).
Gần đây, một khảo sát trên hồ sơ bịnh của trên 3 triệu người cho thấy việc dùng proton inhibitor liên hệ với việc tỷ số chết vì bịnh tim mạch gia tăng gấp đôi . Những loại thuốc chống axit bao tử như Zantac, Tagamet (H2 inhibitors) không thấy có hiện tượng này.(Nigam H. Shah)
4) Đương nhiên, chúng ta không thể kể hết mọi nguyên nhân gây ho kéo dài. Những bịnh khác:
-hút thuốc lá là một nguyên nhân có thể dứt bỏ được
-ở Mỹ, bịnh ho gà (pertussis, whooping cough) ở người lớn có thể là nguyên nhân làm ho dai dẵng 3-10 tuần hoặc lâu hơn. Bịnh bắt đầu ho, sổ mũi, nóng hẹ, mệt mõi, nhưng ho kéo dài, tuy không điển hình như ở trẻ con (tiếng "whoop" hay "ót"lúc hít mạnh hơi vào sau cơn ho dữ dội) nên có thể bác sĩ không nghĩ đến bịnh ho gà. Bịnh nhân có thể chích ngừa bịnh ho gà lần cuối cùng lúc 4 tuổi và sau đ1o sức đề khám giảm đi. Cho nên hiện nay ở Mỹ, lúc 11 tuổi phải chích ngừa Tdap (uốn ván, bạch hầu, ho gà) trước khi vào lớp 6) và các thai phụ được khuyên chích Tdap mổi lần có bầu để bảo đảm trẻ sinh ra có kháng thể chống ho gà từ người mẹ truyền qua.
-vật lạ trong cuống phổi
-viêm cuống phổi mãn tính
-bịnh nhiễm trùng như lao, nấm ở phổi
-bịnh suy tim
-bịnh ung thư phổi
-người dùng thuốc hạ áp huyết hoại ACE inhibitors (angitensin converting enzyme inhibitor) như lisinopril, captopril, ramipril
Bác sĩ Hồ Văn Hiền