Friday, July 28, 2017

Đường hóa học

Các chất ngọt nhân tạo ngọt gấp nhiều lần đường ăn thường, cho nên chì cần một lượng nhỏ hơn nhiều lần để tạo ra vị ngọt tương đương, do đó đem lại ít calories hơn. Cơ quan thực phẩm và thuốc Hoa kỳ FDA đã chấp thuận cho một số thường dùng sau đây ở Mỹ:
Saccharine, ngọt gấp 300 lần đường ăn, được phát minh năm 1879 và giúp cho người ta nhịn đường thường khan hiếm trong 2 thế chiến nửa đầu thế kỷ thứ 20. Năm 1977, căn cứ trên những khảo cứu trên chuột gợi ý saccharine có thể gây ung thư bàng quang (bladder) trên chuột, FDA đề nghị cấm dùng chất này trong thực phẩm. Tuy nhiên quốc hội Hoa Kỳ cho trì hoãn lịnh này lại, và luật bắt buộc phải ghi trên bao bì các thực phẩm có chứa saccharine "Dùng sản phẩm này có thể nguy hại cho sức khoẻ của bạn. sản phẩm này chứa saccharine là một chất được chứng tỏ là gây ung thư trên thú vật trong phòng thí nghiệm". Đến năm 2001, Quốc hội Mỹ bãi bỏ nhãn cảnh báo này. Cho đến nay, các khảo cứu không cho thấy bất cứ cơ nguy nào gây ung thư vì dùng saccharine.
Aspartame (NutraSweet, Equal), ngọt hơn đường ăn 180 lần. Trong aspartame có chất phenylalanine, là một chất amino acid có mặt trong đủ loại thức ăn của chúng ta. Một số hiếm bịnh nhân mắc chứng bẩm sinh, di truyền phenylketonuria (PKU, nghĩa là trong nước tiểu có chứa chất phenyketone), họ không tiêu thụ phenylalanine được, do đó nồng độ chất này có thể lên cao trong máu nếu các em bé bị bịnh này mà không tránh thức ăn có chứa phenylalanine. Bịnh nhân PKU có mùi hôi như chuột, bị triệu chứng thần kinh như làm kinh, chậm phát triển, triệu chứng tâm thần, hành vi rối loạn. Ở Mỹ, các bé sơ sanh được thử máu và bịnh được phát hiện từ lúc mới sinh, được theo dõi thích hợp. Bịnh nhân phải tránh mọi thức ăn có chứa phenylalanine, cũng như aspartame.
Trước đây, có nghi ngờ rằng aspartame dính líu tới u bướu não (giao đoạn 1975-1992), cũng như nghi ngờ aspartame gây ung thư máu (leukemia, lymphoma) ở chuột được cho tiêu thụ một lượng rất lớn (tương đương với người ta uống 8-2000 lon diet coca/ngày); tuy nhiên FDA xét rằng những dữ kiện này không đủ giá trị và những nghiên cứu trên 1/2 triệu người về hưu dùng nước uống có chứa aspartame cho thấy không có việc gia tăng ung thư não hay máu.
Acesulfame potassium (Sunett); ngọt hơn đường 200 lần.
Sucralose (Splenda), ngọt hơn đường 600 lần, vị giống như đường, chế biến từ đường ăn, nhưng vì ruột không hấp thụ được nên không cung cấp calories cho cơ thể.
Có rất nhiều tranh cãi về vấn đề dùng chất ngọt thay thế đường. Tuy nhiên có thể nêu vài điểm chính:
FDA làm việc rất kỹ lưỡng và từ lâu từng xét đi xét lại nhiều lần các vấn đề vừa nêu trên. Hiện nay FDA vẫn chấp thuận các chất này được dùng cho thực phẩm tại Mỹ. Trừ trường hợp chúng ta nghi ngờ sự thanh liêm của FDA, hay những cơ quan kiểm soát thực phẩm tương tự khác (European Food Safety Authority của Châu Âu, UK Food Standard Agency, Canada Health, vv) người tiêu dùng có thể an tâm dùng các thực phẩm có chứa các chất này trong giới hạn hợp lý (nghĩa là không áp dụng cho các liều quá cao).
Có chuyên gia cho rằng dùng các chất thay thế đường làm cơ thể mất khả năng đếm lượng calories được thu nạp, do đó người uống chất thay thế đường lại ăn thứ khác nhiều hơn, và cuối cùng lại lên cân nhiều hơn. Ví dụ đi tiệm ăn fast food, uống diet coke, nhưng vì ngon miệng và tự tin (là mình kiêng đường), nên lại ăn một cái hamburger lớn cho...đã miệng. Nếu như vậy thì không xuống cân được, và hành vi "lành mạnh" là uống nước lạnh, hay nước trà không đường, và chỉ ăn nếu mình đói, hay chỉ ăn một nửa hay một phần tư cái hamburger thôi. Nói một cách khác, tránh nước ngọt, và ăn vừa đủ no, hay đủ bớt đói, nếu muốn sụt cân.
Riêng về bài viết được dịch ra tiếng Việt mà vị thính giả kèm theo câu hỏi, đây là một bài nói về aspartame gây bịnh đa xơ thần kinh (multiple sclerosis), bịnh lupus ở những người uống diet soda. Bài này được lưu truyền trên internet gần 20 năm nay, bản Việt ngữ dịch sai nhiều chỗ, có lẽ do người dịch không rành về y khoa lắm. Một chuyên gia của FDA, (David G. Hattan, Ph.D., Acting Director, Division of Health Effects Evaluation) đã trả lời từng điểm cho các cáo buộc nêu ra. Tóm tắt, là không có bằng chứng khoa học khả tín gắn liền aspartame với bịnh đa xơ và lupus. Bịnh đa xơ thần kinh lúc trồi lúc sụt (fluctuation), có thể có những trùng hợp xảy ra lúc uống diet soda thì thấy nặng hơn, lúc ngưng thì thấy bớt, nhưng thực tế không đơn giản như vậy. Về các chất methanol, formaldehyde và formic acid do biến dưỡng của aspartame, những chất này ở lượng rất nhỏ, và dù không dùng aspartame, cơ thể chúng ta cũng tiếp nhận các chất này từ các nguuồn thực phẩm thường gặp (lượng nhỏ methanol trong nước trái cây hay trong rượu ethanol). Ví dụ, một lon diet soda tạo nên 20 mg methanol, trong lúc một ly nước trái cây tương tự tạo ra 40mg methanol. Một lon diet soda cung cấp chừng 100mg phenylalanine so với 300 mg trong một cái trứng, 500mg trong 1 ly sữa và 900 mg trong 1 hamburger.
Trên đây là một số thông tin theo dòng chính của y tế Mỹ và thế giới. Kiến thức thay đổi nhanh trong lúc Internet tạo một môi trường mà hầu như ai cũng có thể tham gia tiếng nói của mình, dù là mình nói đúng hay sai. Cho nên chúng ta cẩn thận là tốt, nhưng đồng thời cũng không nên hốt hoảng và sợ đủ mọi thứ thức ăn uống. Có lẽ, điểm chính là ăn thức ăn tươi nếu có thể, chỉ ăn uống lượng vừa phải, uống nước tinh khiết hơn là nước ngọt, soda, rượu, bia... Xin nhớ, mặc dù hồi xưa, thức ăn uống chỉ dành cho một thiểu số, người xưa từng nói "Người ta đào mồ của mình bằng cái răng của mình". Bây giờ thức ăn thức uống lắm khi dư thừa, lại càng cần phải cảnh giác hơn nữa.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Chứng ngủ ngày và thức đêm

Ở đây chúng ta có hai vấn đề:
  1. 1) Bịnh nhân rất buồn ngủ ban ngày
  2. 2) Bịnh nhân không ngủ ban đêm được
(1) Liên hệ vấn đề rất buồn ngủ ban ngày, chúng ta sẽ bàn đến 2 bịnh gọi là
a) narcolepsy (‘cơn ngủ kịch phát")
b) bịnh ngưng thở ban đêm (sleep apnea)
A. Narcolepsy
Những triệu chứng chính của narcolepsy:
a) Rất buồn ngủ ban ngày,
  • thường thời gian ngắn, chừng 15 phút hoặc có khi dài hơn,
  • có thể xảy ra lúc sau khi ăn, đang lái xe, đang nói chuyện với người khác,
  • thường thì thức dậy, bịnh nhân thấy khoẻ ra.
b) Có những ảo giác như trong mơ (dream-like hallucinations) lúc mới vừa bắt đầu ngủ hoặc lúc đang thức giấc, ở giai đoạn chuyển tiếp giữa thức và ngủ.
c) Bại liệt lúc ngủ(sleep paralysis); bịnh nhân thấy mình không nhúc nhích cử động được,có thể kéo dài 15 phút, trong khoảng thời gian chuyển tiếp từ tình trạng thức và tình trạng ngủ.
d) Cataplexy: cơn liệt đột ngột (“chứng mất trương lực”). Bịnh nhân mất trương lực (tính cường cơ, muscular tone) một các đột ngột, nặng hay nhẹ. Những xúc động mạnh như cười, tức giận, có thể "châm ngòi" cho các cơn liệt này.
Cơn liệt kéo dài chừng vài chục giây và có thể người khác không nhận ra. Bịnh nhân có thể chỉ thộn mặt trong chốc lát, há hốc miệng (vì hàm dưới xệ xuống), hoặc đầu gối chùng xuống, muốn té. Nặng hơn, có thể bị té xuống, và cơn liệt kéo dài nhiều phút.
Bịnh nhân mất ngủ ban đêm. Mất ngủ có thể đi kèm theo narcolepsy, mặc dầu thường người bị narcolepsy không mất ngủ hẳn suốt đêm mà chỉ bị giấc ngủ rối loạn, hay thức giấc (fragmented sleep), nhiều ảo giác trong các giai đoạn chuyển tiếp. Bịnh nhân ngủ ngày nhiều cũng có thể làm khó ngủ ban đêm.
Nguyên nhân narcolepsy:
Narcolepsy có nguyên nhân trong hệ thần kinh trung ương, chứ không phải là một vấn đề tâm lý.
Não bộ chúng ta có một bộ phận tên hypothalamus. Hypothalamus tiết ra chất hypocretin điều hoà giấc ngủ. Do cơ chế tự miễn nhiễm (autoimmune process), các tế bào bị hư hại và lượng hypocretin bị giảm quá thấp, gây ra narcolepsy. Bịnh này còn do ảnh hưởng các gene, và trong một số gia đình, nhiều người bị narcolepsy hơn trung bình.
Trong giấc ngủ bình thường, trong một hai giờ sau khi thiếp đi, sóng điện của não bộ (EEG waves) chậm lại so với lúc còn thức (N-REM waves). Sau đó sóng đổi khác, nhanh hơn (alpha waves, 8-13/second), đồng thời tròng mắt chúng ta nhúc nhích lẹ lên (Rapid Eye Movements, REM), và lúc đó chúng ta nằm mơ (dream). Mỗi đêm có chừng 4-5 lần “REM sleep” (11/2-2 tiếng, chừng ¼ giờ ngủ). Tim đập nhanh, thở nhanh.Trong mơ chúng ta có thể chạy, đánh nhau, đá banh... nhưng chúng ta vẫn không thực hành những động tác đó, chúng ta vẫn nằm yên trên giường vì một cơ chế tự động ngăn chặn các cơ chúng ta, giữ cơ thể trong trạng thái mất tính trương cơ (loss of tonus, atonia), nghĩa là phần cơ thể còn lại như bị tê liệt.
Ở người bị narcolepsy, giấc ngủ bị rối loạn:
  1. 1) Thời kỳ REM xảy đến quá sớm, chừng 5 phút sau khi bắt đầu ngủ, các giấc mơ sống động, có khi đáng sợ xảy ra trong lúc đó
  2. 2) Nếu sự mất trương lực các cơ (muscular atonia) xảy ra quá sớm làm bịnh nhân bị liệt cataplexy; xảy ra lúc chúng ta còn khá tỉnh táo và cho ta cảm tưởng bị tê liệt (sleep paralysis).
Định bịnh narcolepsy:
Bác sĩ chuyên về giấc ngủ nghiên cứu về trạng thái bịnh nhân lúc ngủ (polysomnography), hoặc trong những cơn ngủ gật ban ngày của bịnh nhân (multiple sleep latency test). Người bịnh được gắn vào máy đo tim (EKG), đo não điện đồ (EEG), điện các cơ (electromyogram), mắt (electro-oculogram). Giai đoạn ngủ mắt co giật nhanh (REM sleep) đến quá sớm là dấu hiệu giúp chẩn đoán bịnh nhân bị narcolepsy.
Chữa bịnh narcolepsy:
Những thuốc kích thích thần kinh (stimulant) như dextroamphetamine, modafinil (Provigil) được dùng nhưng có thể không hiệu nghiệm lắm, có khó làm khó ngủ ban đêm.
Một số thuốc dùng chống trầm cảm (antidepressant) như imipramin, Effexor XR được dùng để trị cataplexy
Xyrem (sodium oxybate) là một thuốc uống được FDA chấp thuận cho dùng trị narcolepsy. Thuốc được chính phủ liên bang (FDA) kiểm soát (federally controlled substance)vì được giới ghiền thuốc dùng một cách bất hợp pháp. Có thể làm thở yếu đi (decreased breathing), ngưng thở (apnea) và những vấn đề tâm thần.Thuốc nước, tối uống chia làm hai lần.
Bịnh nhân có thể thử áp dụng những biện pháp như: ngủ những giấc ngắn 15 phút, đều đặn trong ngày cho bớt buồn ngủ, tập yoga, thiền, tĩnh tâm; một số người vì đồng hồ cơ thể (body clock), nhịp ngày đêm ( circadian rhythm) trong người bị đảo ngược, có thể chọn những công việc làm về đêm (làm việc gác ở nhà thương, trả lời điện thoại ban đêm..) và nghỉ ngơi ban ngày lúc mình bị buồn ngủ nhiều hơn.)
B.Bịnh ngáy lớn và cơn ngưng thở lúc ngủ (obstructive sleep apnea, OSA)là nguyên nhân thường gặp gây buồn ngủ quá nhiều ban ngày (excessive daytime sleepiness):
Người ta ngáy lúc đường không khí lưu thông qua miệng và mũi bị trở ngại lúc thở. Hai nơi này thường được gọi là đường hô hấp trên (upper airways).
Nguyên nhân:
Nghẹt mũi do dị ứng, cảm, thịt dư polyp trong mũi, nhiều nhớt trong mũi do viêm xoang, vách chia hốc mũi làm hai bên bị vẹo qua một bên (deviation of the nasal septum).
Nghẹt phía sau họng có thể do phần vòm miệng phía sau (soft palate), hay lưỡi gà (uvula) quá dài.
Ở trẻ em amidan (tonsils) quá lớn, các mô adenoid (adenoid tissues) phía sau hầu quá lớn.
Người mập, các mô mỡ chung quanh họng nhiều hơn bình thường.
Tính cường cơ (muscle tone) của các cơ bao quanh yết hầu bị giảm, làm cho cái ống chúng tạo nên (mà không khí đi qua) bị xẹp xuống, làm không khí đi xuống phổi khó khăn hơn, phần sau vòm miệng cũng như lưỡi gà rung (flutter of the soft palate and uvula) phát ra tiếng ngáy. Nghiên cứu về âm học cho thấy tiếng ngáy phát xuất từ phần vòm miệng mềm và lưỡi gà, trong âm vực thấp, khoảng tầng số dưới 500/giây.
Một số người hàm quá nhỏ so với khuôn mặt, lưỡi có khuynh hướng dồn, thụt về phía sau hầu (họng), nhất là lúc nằm ngữa.
Cần phân biệt ngáy và hiện tượng ngưng thở. Lúc đường khí lưu thông bị nghẽn hẳn, phổi người bịnh không kéo hơi vào được nữa thì gọi là cơn ngưng thở (apnea episode) nếu sự gián đoạn này kéo dài quá 10 giây. Sau đó, vì ngộp thở, người bịnh giãi giụa, ngủ ở mức nông, ít sâu hơn, và thở tiếp cho đến cơn apnea tiếp. Một người bị apnea có thể bị mấy chục cơn apnea trong một giờ.
Như đã giải thích, nguyên nhân chính là tắc nghẽn đường hô hấp trên. Những cơn apnea này gọi là obstructive sleep apnea (OSA). Ngưng thở do cơ năng trung ương (trên não bộ) điều khiển hô hấp hiếm hơn (central sleep apnea, CSA), thường xảy ra ở người bị cơn đau tim, tai biến mạch máu não, nhiễm trùng óc, bịnh Parkinson, người mập, hoặc không rõ lý do. Nói chung, trung tâm hô hấp nằm trong cuống não (respiratory control centers in the brainstem) không gởi tín hiệu đến kích thích các cơ làm phổi hít vào và đẩy khí ra.
Lúc ngủ say, tính cường cơ chúng ta vừa nhắc đến còn giảm nhiều hơn, chúng ta ít thay đổi vị trí nằm hơn (ngủ như chết), các chất tiết, nước miếng có thể ứ đọng nhiều hơn trong họng, trong miệng nên gây trở ngại nhiều hơn cho sự di chuyển của không khí lúc thở ra vào.
Đàn ông ngáy nhiều hơn đàn bà. Có thể do dây nói trong thanh quản (vocal cords) đàn ông lớn và dễ rung hơn, đàn ông mập mỡ đóng vùng quanh cổ nhiều hơn, đàn ông dùng rượu và thuốc lá nhiều hơn.
Trị liệu obstructive sleep apnea:
  • Một số dụng cụ gắn trong miệng để giữ cho hàm dưới đừng tuột ra sau phía họng lúc ngủ (mandibular advancement device, tốn chừng vài trăm đô la).
  • Soft palate implant được cấy vào phần vòm miệng mềm (phía sau). Có thể làm giảm ngáy và giúp ích giảm các hậu quả của ngưng thở do nghẽn (OSA) như buồn ngủ thái quá ban ngày, mệt mỏi trong những trường hợp OSA nhẹ.
  • Phương pháp giải phẩu uvulopalatopharyngoplasty (cắt và tái tạo lại vòm miệng mềm, lưỡi gà và hầu) với mục đích làm rộng không gian hầu lúc ngủ, không thành công lắm so với mandibular advancement device và CPAP.
  • CPAP (Continuous Positive Airway Pressure therapy), áp suất dương liên tục trong đường hô hấp. Về việc chữa OSA, chỉ có CPAP là được chứng minh rõ ràng có ích cho sức khoẻ và chất lượng cuộc sống. Máy bơm một luồng không khí dưới áp suất cao hơn áp suất khí quyển vào phổi bịnh nhân, làm nở đường hô hấp trên rộng ra, không cho nó xẹp xuồng (do những yếu tố mà chúng ta đã giải thích gây ra ngáy và ngưng thở).
  • Ở Mỹ, bịnh nhân ngáy nhiều quá cần khám bịnh bác sĩ chuyên về tai mũi họng hoặc chuyên về y khoa giấc ngũ, sau đó sẽ được quan sát trong một phòng ngủ trang bị đặc biệt để theo dõi oxy trong máu, nhịp thở, nhịp tim (ECG), cơ điện đồ (EMG), cử động các cơ điều khiển hai tròng mắt (EOG, theo dõi các cử động mắt trong từng giai đoạn của giấc ngủ). Test này gọi là polysomnography (poly: nhiều, somno: ngủ, gram: đồ). Có thể tốn đến vài ngàn đô la. Máy khá đắt tiền. Thường phải dùng suốt đời, trừ trường hợp OSA do một bịnh nhất định gì đó và bịnh đó được chữa khỏi (như quá mập, trẻ con được cắt a mi đan quá lớn). Bịnh nhân mang mặt nạ chụp trên mũi và miệng, hoặc ống hơi gắn vào mũi, có thể không chịu được và bỏ cuộc sau một thời gian. Máy không đắt lắm, chừng vài trăm đô la.
OSA làm tăng cơ nguy các bịnh cao huyết áp (hypertension), cao huyết áp trong phổi (pulmonary hypertension), bịnh đau tim, cơ nguy tai nạn do buồn ngủ ban ngày (daytime sleepiness), cơ nguy bị tiểu đường týp 2 (type 2 diabetes), trầm cảm. Nói chung, cơ nguy tử vong cao hơn người không bị OSA.
Người ta chữa ngáy phần lớn để cải thiện phẩm chất cuộc sống cho người ngáy (bớt buồn ngủ, bớt mệt mỏi, có thể giảm cao huyết áp) và người ngủ chung phòng.
  • Bịnh nhân mập cố gắng giảm cân nặng, bịnh nhân tránh dùng thuốc lá, rượu, các thuốc ngủ hoặc làm buồn ngủ như thuốc chữa dị ứng diphenhydramine (Benadryl), thuốc ho.
  • Tránh ăn trước giờ đi ngủ.
  • Tập thể dục để tăng tính cường cơ nói chung.
  • Nằm ngủ trên mặt phẳng không quá mềm, nhún, không dùng gối cao làm quặp cổ xuống.
  • Tránh nằm ngữa. Nằm nghiêng một bên.
  • Chữa bịnh mũi, viêm xoang.
  • Trị bịnh dị ứng.
(2) Liên hệ vấn đề thứ hai, bịnh nhân mất ngủ ban đêm.
Mất ngủ có thể đi kèm theo narcolepsy, mặc dầu thường người bị narcolepsy không mất ngủ hẳn suốt đêm mà chỉ bị giấc ngủ rối loạn, hay thức giấc (fragmented sleep), nhiều ảo giác trong các giai đoạn chuyển tiếp. Bịnh nhân ngủ ngày nhiều cũng có thể làm khó ngủ ban đêm.
Vị thính giả chỉ nói "đêm thì thức", không biết thức trắng đêm, sinh hoạt như thường như làm việc, đọc sách, xem ti vi, hay thao thức, chập chờn. Người bị sleep apnea có thể ngủ mơ mơ màng màng một chốc thì thức dậy, nhiều lần trong đêm nên sáng dậy có cảm tưởng mình không ngủ được, mệt mỏi; khác với người bình thường cảm thấy hồi phục, khoẻ khoắn, sảng khoái sau một giấc ngủ ngon.
Nếu thức trắng đêm, nhất là cảm thấy không muốn làm việc gì đã 10 năm nay, nên nghĩ đến những bịnh tâm thần hay tâm lý như trầm cảm (depression). Những thuốc chống trầm cảm dùng cho narcolepsy nói trên có thể có ích cho mục đích này.
Thuốc melatonin, được bán tự do ở Mỹ, uống vào buổi tối có thể giúp bịnh nhân đi vào chu kỳ thức ngày ngủ đêm (circadian rythm) dễ hơn (trong cơ thể chúng ta, bình thường đến tối thì sản xuất melatonin tăng).
Tóm lại, vị thính giả cần bác sĩ hỏi bịnh sử, khám kỹ về vấn đề này. Nên để ý những thức ăn, uống đang dùng. Nước ngọt, ở Mỹ gọi là soda có thể có nhiều caffein làm bịnh nhân kích thích nhiều quá, có thể bứt rứt khó ngủ ban đêm tuy thấy tỉnh táo hơn lúc ban ngày. Cafein làm đi tiểu nhiều, gián đoạn giấc ngủ. Đường nhiều trong nước ngọt có thể làm buồn ngủ ban ngày, tiểu ban đêm, và có hại cho sức khoẻ, tăng cơ nguy bịnh tiểu đường. Một lon Coca 12oz (355ml) có 39 gram đường (140 calories), ly lớn ở 7-Eleven (Big Gulp, 28 oz soda) có 91 gram đường (364 calories), ly Super Gulp (44 oz với soda+ đá) có 128 gram đường (585 calories).
Nên để ý đến cơ năng dinh dưỡng, hệ thần kinh, chuyên khoa tai mũi họng, khoa tâm thần, chuyên khoa về rối loạn giấc ngủ.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Máu cô đặc và đa hồng cầu

Máu cô đặc và đa hồng cầu
Nếu nói thử nghiệm cho thấy "máu cô đặc" chúng ta có thể nghĩ đến:
a) Các nguyên nhân làm giảm lượng nước trong máu, do đó máu đặc hơn (hemoconcentration), ví dụ như thiếu nước do ói mửa, tiêu chảy.
b) Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn nói đến các trường hợp khác mà tỷ lệ thể tích tế bào trong máu so với huyết tương cao hơn bình thường, chúng ta cần bàn đến những trường hợp mà do số lượng tế bào máu tăng, máu trở nên đậm đặc hơn, là trường hợp "đa tế bào máu", "đa huyết cầu" (polycythemia; poly: nhiều, cyto: tế bào, hemia: máu) hay bịnh "đa hồng cầu" (erythocytosis; eythro: đỏ, cyto: tế bào).
Do số hồng cầu tăng, vì những lý do khác nhau:
Đa hồng cầu nguyên phát, mà chúng ta không hiểu rõ lý do. Tuy nhiên hiện nay, người ta cho rằng tuỷ xương, là nơi sản xuất hồng cầu (red blood cell), bạch cầu (white blood cell), tiểu bản (platelet) diễn giải một cách sai lạc các tín hiệu ra lịnh nó sản xuất các tế bào trên, và bịnh dính líu tới một đột biến của gene. Ngoài các hồng cầu, các tế bào máu khác như bạch cầu, tiểu bản cũng có thể tăng. Từ tiếng Anh gọi là polycythemia vera hay bịnh Vaquez-Osler Disease (vera: đúng, chân chính), tạm dịch là đa huyết bào chân chính. Cái gene đột biến này ảnh hưởng đến một phân tử protein phụ trách việc điều khiển tế bào, ra lịnh cho tế bào đó phát triển thêm (protein Janus kinase 2 (JAK2)). Đây là một loại ung thư máu thuộc nhóm bịnh làm cho tế bào tuỷ xương tăng sinh.
Định bịnh (theo WHO): Hemoglobin trên 16.5g/100ml nam (Hematocrit > 49.8%), >16g/100l nữ (Hct >48%), tuỷ xương có những dấu hiệu tăng hoạt động, chứng minh đột biến gene (Presence of JAK2V617F hoặc JAK2 exon 12 mutation).
Trị liệu: trích huyết (phlebotomy), aspirin, giảm tế bào tuỷ xương (cytoreductive therapy) bằng hydroxyurea, interferon alpha, cắt bỏ lá lách (splenectomy).
Đa hồng cầu thứ phát (secondary polycythemia):
Người bị bịnh tim làm da tím (cyanotic heart disease), máu giàu oxy (màu đỏ) cứ bị trộn lẫn với máu thấp oxy từ bên tim phải (máu xanh, chưa qua phổi) trộn lẫn vào, nên lượng oxy đến các mô bị thấp, cơ thể đều chỉnh lại bằng cách tăng lượng hồng cầu lên.
Người bị bịnh nghẽn ở phổi mạn tính (COPD) cũng ở tình trạng các mô thiếu oxy do phổi làm việc không đúng mức (không đem đủ oxy từ không khí vào máu), cơ thể cũng cố gắng bù lại bằng cách tăng số hồng cầu lên.
Một số trẻ sơ sinh có thể có lượng hồng cầu quá cao làm cho máu lưu thông khó khăn hơn: bé da đỏ, chung quanh môi lại tím, có vẻ nhừ, lừ đừ, trường hợp mạnh có thể khó thở làm kinh. Lý do có thể mẹ bị tiểu đường, máu từ một bé cùng song sinh truyền qua quá nhiều, máu từ cuốn rốn truyền qua quá nhiều vì cắt chậm. (Những bé bị nặng cần chuyền nước biển, đường glucose hoặc hiếm hơn rút bớt máu thay bằng dung dịch truyền tĩnh mạch.)
Những người ở vùng cao (cao độ 3000-4000 mét) có thể có lượng hồng cầu cao vì họ phải thích ứng với mức oxy thấp trong không khí thở (so với không khí vùng thấp, mức nước biển). Những người này có thể gặp khó khăn hơn lúc có thai, vì máu họ sệt hơn.
Cũng có thể do số bạch cầu tăng: ví dụ những người bị ung thư bạch cầu máu (leukemia) có thể có lượng bạch cầu lên đến hàng trăm ngàn, làm thể tích tế bào máu tăng nhiều. Một loại ung thư của thận có thể tiết vào máu chất kích thích tuỷ xương sản xuất hồng cầu nhiều hơn bình thường.
Hội chứng máu quá đặc (hyperviscosity syndrome, HVS):
Trong cơ thể chúng ta, phần lớn các tế bào máu được sản xuất từ tuỷ xương và mức độ sản xuất để thải vào dòng máu được giữ ở mức nhiều ít theo nhu cầu: hồng cầu để đem oxy tới các mô, bạch cầu để phòng thủ cơ thể (hệ miễn nhiễm), tiểu cầu hay tiểu bản để làm máu đông lúc cần thiết, bít những lổ hổng, chỗ rách trong các mạch máu. Trong máu còn có những kháng thể là immunoglobulin được gởi đến những nơi cần chống lại các xâm nhập từ bên ngoài.
Có thể ví như 4 loại tàu trên sông : một để chuyên chở oxy/năng lượng đến các thành phố (các mô), một để chở lính đi đánh giặc (vi trùng), và một để sửa chữa các bờ sông, đê điều bị hư hại làm nước thoát ra ngoài (chảy máu). Ngoài ra có những phao chở các võ khí thả nổi trên sông (các kháng thể immunoglobulin trong dòng máu). Nếu có ít nước quá trong lòng con sông, hay có nhiều thuyền bè trên sông quá mức, giao thông trên sông sẽ ùn tắc, tàu không di chuyển nhanh được, các thành phố sẽ thiếu năng lượng dùng và một số cơ sở sẽ bị hư hại.
Cũng như vậy, nếu có quá ít huyết tương, hay quá nhiều tế bào, tuần hoàn máu sẽ bị chậm lại (hypoperfusion) (quá chật chội), máu sẽ dễ bị đóng cục (huyết khối, thrombosis), và các nơi nhận dinh dưỡng và oxy từ máu sẽ bị thiệt hại (như mắt). Trường hợp như vậy gọi là hội chứng máu quá đặc (hyperviscosity syndrome, HVS).
Hội chứng này thường xảy ra lúc các kháng thể globulin bất bình thường được sản xuất quá nhiều (ví dụWaldenström macroglobulinemia, thường người già chừng 70 tuổi), nhưng cũng có thể do các tế bào được sản xuất quá nhiều.
Định bịnh hyperviscosity:
  1. Bằng cách đo độ nhờn của máu (viscosity). Độ nhớt là một đặc tính của chất lỏng và được mô tả là sức chống trở mà một vật lỏng gặp phải khi một lớp chất lỏng chảy trên một lớp khác. Khi protein huyết thanh hoặc các thành phần của tế bào tăng, máu trở nên nhớt hơn. Mức bình thường, dưới 4 (Normal blood viscosity : 1.4-1.8 Centipoise. Hyperviscosity >4).
  2. Thử máu để đo lượng tế bào trong máu, v.v.
Triệu chứng chính:
  • Chảy máu các niêm mạc: nướu răng, chảy máu mũi, hậu môn, tử cung.
  • Triệu chứng thần kinh: nhức đầu, chóng mặt, lãng tai, điếc tai, lú lẫn, mê man.
  • Thị giác: thị giác giảm/mờ mắt, khám võng mạc thấy tĩnh mạch sưng vù như khúc xúc xích, chảy máu võng mạc.
Trị liệu: Plasmapheresis (lọc huyết tương) để giải quyết các kháng thể globulin quá nhiều, trích huyết nếu có quá nhiều hồng cầu, sau đó trị nguyên nhân bịnh gây ra triệu chứng này (ví dụ như xạ trị, hoá trị).
Tóm lại, đây là một câu hỏi khó, hỏi về những bịnh rất phức tạp về định bịnh cũng như trị liệu. Những nhận xét trên hoàn toàn có tính cách thông tin, mục đích chính là để chúng ta cùng học hỏi về một khía cạnh thú vị của y khoa.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

‘Yếu sinh lý’ ở người bịnh tiểu đường

Theo định nghĩa của Viện Quốc gia về Sức khoẻ của Mỹ, bất lực (impotence) là "rối loạn về cương cứng của nam giới (ED), nghĩa là khả năng giữ một mức cương cứng đủ để thực hiện động tác tính dục một cách thoả đáng."
Nói một cách đơn giản, bộ phận sinh dục đàn ông tựa như một cái túi trong đó có 2 ống dài chứa một thể xốp ("thể hang", corpus cavernosum, cavernous bodies of the penis). Lúc bơm máu vào cái túi đó sẽ cứng lên, và đồng thời nó sẽ phình lên và đè lên các tĩnh mạch (đem máu về tim), nên máu không thoát ra được, tạo nên một tình trạng tắc nghẽn tạm thời, dương vật có thể được dùng như một vật cứng, xong thì máu thoát ra tĩnh mạch, trở về trạng thái mềm, nhỏ hơn. Những yếu tố sau đây có thể làm cơ chế trên bị trục trặc và kết quả không như ý muốn:
  1. Mạch máu không lành mạnh, bị các plaque xơ vữa làm máu lưu thông kém.
  2. "Thể hang" (corpus cavernosum) có thể bị xơ hoá, không còn co giãn dễ dàng như trước, không chứa được nhiều máu.
  3. Các dây thần kinh điều khiển bộ phận các động mạch đem máu đến. Nitric oxide (NO) do các dây thần kinh tiết ra đóng vai trò quan trọng: làm giãn các cơ trơn của các động mạch và thể hang của dương vật, do đó máu đến nhiều hơn và dung tích tăng lên.
Bịnh tiểu đường làm cho người đàn ông dễ bị bất lực sớm hơn vì bịnh tác dụng lên sức khoẻ của các động mạch và các dây thần kinh nói trên.
Ở đây chúng ta không bàn đến ED do nguyên nhân tâm lý. Chữa trị ED nhắm vào các mục đích sau đây:
1) Người bị ED dù là không có triệu chứng tim (ví dụ như đau tim) phải được coi là có bịnh về tim mạch cho đến khi có bằng chứng ngược lại. (The Princeton Consensus Panel: A man with ED and no cardiac symptoms should be considered to have cardiac or vascular disease until proven otherwise). Có nghĩa ED là một dấu hiệu bịnh tim mạch.
Cải thiện sức khoẻ các động mạch: tập thể thao, giảm cân nếu quá mập, hạ các chất mỡ như cholesterol trong máu (uống thuốc hạ cholesterol), ăn uống lành mạnh (nhiều trái cây, chất tươi, ít mỡ động vật, ít thịt đỏ. Ngưng thuốc lá (tai hại đối với các động mạch). Ngưng uống rượu (có thể dùng ít để thư giãn). Chữa bịnh cao huyết áp nếu có. Chọn những thuốc chữa huyết áp nhưng không gây ED. Một số thuốc chữa bịnh tâm thần (antipsychotic) có thể gây ED (ví dụ như Risperidone)
2) Kiểm soát bịnh tiểu đường. Đo và theo dõi mức Hemoglobin A1C (normal 4.8-5.9%, giữ dưới 7 cho người tiểu đường ) có thể cho biết tình trạng mức đường trong máu trong một khoảng thời gian dài (3 tháng), có thể phản ảnh kết quả kiểm soát bịnh tiểu đường hơn là mức đường trong máu mà chúng ta đo mỗi buổi sáng hay trước bữa ăn.
3)Có những thuốc làm mức NO (nitric oxide) trong máu tăng, gọi là PDE5 inhibitors, do đó giúp cho vấn đề cương cứng lúc cần (chứ không làm cho hết bịnh). Ví dụ sildenafil (Viagra), vardenafil (Levitra), tadalafil (Cialis) là những thuốc uống.
Theo Hội Niệu Khoa Mỹ (UAU), các thuốc loại này là tuyến đầu chữa trị ED, nếu bịnh nhân không dùng các thuốc nitrate (để làm nở mạch máu tim) hay hay thuốc alpha blocking agent là thuốc là nở mạch máu để hạ áp huyết.
4) Thuốc làm giãn nở động mạch: Prostaglandin E1 (alprostadil) dưới dạng suppository (viên nhét vào niệu đạo (urethra): "Muse" [Medicated Urethral System for Erections]); kem (bơm vào niệu đạo,"Vitaros"); hay chích vào dương vật (phần thể hang, dưới gốc, bên phải hay trái)
5) Các thuốc chích khác làm giãn mạch máu: papaverine, phentolamine (vào dương vật, phần thể hang, dưới gốc, bên phải hay trái). Các thuốc chích trực tiếp này sẽ luôn luôn hiệu nghiệm nếu thể hang còn lành mạnh (không bị xơ hoá, bị thẹo quá nhiều)
Các phương pháp trị liệu khác:
1) Máy bơm, hay đúng ra là máy hút, tạo nên chân không, áp suất âm (negative pressure) để kéo máu vào dương vật, cần toa bác sĩ (vacuum erection device)
2) Phẫu thuật: Penile prosthesis (tương tự như phụ nữ bơm ngực), một cái túi được nhét vào dương vật. Có 2 loại:
-Semi-rigid, malleable prosthesis: luôn ở mức nửa cứng nửa mềm, “xếp” lại được.
- Inflatable Penile Prosthesis (IPP) loại bơm lên lúc dùng và xẹp xuống lúc không cần, điều khiển bằng một quả lê bơm dấu trong bìu dái, bơm nước muối từ trong một bể chứa dấu trong bụng bịnh nhân. Có thể mặc quần tắm, quần jeans. Có thể dùng cả chục năm.
3) Một số trường hợp, mức androgen (hormone nam giới quá thấp), bác sĩ có thể dùng testosterone (thuốc dán, thoa hay chích 2 tuần một lần) để cải thiện libido và chữa ED lúc các phương pháp khác thất bại. Tuy nhiên kết quả không rõ rệt và có cơ nguy kích thích tuyến tiền liệt và gây ung thư hay phì đại tiền liệt, ngoài ra có thể anh hướng không tốt lên trên hệ tim mạch.
4) Ngoài những biện pháp y khoa trên, cũng nên để ý đến khía cạnh tinh thần tình cảm, như giảm stress, tạo một khung cảnh thuận tiện, “romantic” cho những hoạt động riêng tư như đi nghỉ mát, sống riêng rẻ, nếu có điều kiện.
Đương nhiên, mỗi bịnh nhân cần tham khảo với bác sĩ riêng của mình để chữa và được gởi đến những chuyên khoa cần thiết như bác sĩ niệu khoa (urologist), bác sĩ tim (cardiologist) nếu cần.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bệnh sốt mầu đỏ (Scarlet Fever)

Tên “sốt mầu đỏ” là tiếng tôi tạm dùng để dịch chữ “Scarlet Fever.” Bệnh này sở dĩ có tên như vậy là vì khi bị bệnh, các em nhỏ sẽ bị nổi mẩn đỏ khắp người, lưỡi các em cũng sưng lên mầu đỏ và các em sẽ bị sốt cao. Nguyên nhân của chứng sốt này thường là một bệnh nhiễm trùng khá thông thường: bệnh nhiễm vi trùng Strep ở cổ họng.

Bệnh sốt mầu đỏ thường xẩy ra ở trẻ em từ 5 tới 15 tuổi. Trước thời kỳ thuốc trụ sinh được khám phá ra, bệnh scarlet fever là một bệnh rất đáng sợ nhưng từ khi có trụ sinh, bệnh này có thể được chữa dễ dàng. Tuy nhiên nếu không được định bệnh và chữa trị, chứng này có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm cho tim, thận và những cơ quan khác.
Triệu chứng
Các em mắc bệnh scarlet fever thường có những triệu chứng sau:
- Da nổi mẩn đỏ giống như bị cháy nắng và sờ thấy nhám.
- Những đường mầu đỏ nơi nếp gấp của da chung quanh háng, nách, khuỷu tay, đầu gối và cổ.
- Lưỡi đỏ chót như quả dâu và có những mụn nổi gồ lên, trên phủ một lớp trắng. Triệu chứng này xẩy ra rất sớm.
- Mặt đỏ lên nhưng chung quanh miệng thì tái.
- Sốt cao, ớn lạnh
- Cổ họng đau và đỏ, có thể có mụt trắng hay vàng trên mặt
- Khó nuốt
- Sưng hạch ở cổ
- Buồn nôn và ói
- Nhức đầu
Bệnh nhân thường bị đau cổ họng, sưng hạch và sốt trước, sau đó mới có những triệu chứng “đỏ”. Mẩn đỏ thường nổi ở mặt hay cổ rồi lan xuống ngực, thân mình, tay và chân nhưng không mọc ở lòng bàn tay hay lòng bàn chân. Những mẩn đỏ trên da và lưỡi này thường kéo dài khoảng 1 tuần lễ. Sau khi hết bệnh, da sẽ tróc ra.
Nguyên nhân
Đây là bệnh nhiễm vi trùng tên Streptococcus pyogenes. Vi trùng này thường gây ra bệnh sưng cổ họng nhưng đặc biệt là nếu em nhỏ bị nhằm loại có tiết ra chất độc tố thì chất này sẽ gây ra những triệu chứng mẩn đỏ, lưỡi đỏ… như kể trên.

Vi trùng này lây lan khi bệnh nhân ho hay hắt hơi làm bắn ra những giọt nước nhỏ li ti trong có chứa vi trùng. Nếu bệnh chân che miệng khi ho, giọt nước có vi trùng này đọng lại trên tay họ và dính vào những vật họ chạm vào như điện thoại, nắm cửa… Chúng ta bị lây bệnh khi hít phải những giọt nước có vi trùng trong không khí hoặc chạm vào những vật dụng có dính vi trùng của bệnh nhân rồi đưa lên mũi, miệng mình.

Từ lúc nhiễm vi trùng đến lúc phát bệnh thường là hai tới bốn ngày. Nếu bệnh không được chữa, bệnh nhân có thể vẫn còn lây được cho người khác trong vài tuần lễ cho dù đã hết bệnh. Một số người không bị bệnh nhưng có mang vi trùng trong mũi và có thể lây cho người khác. Vi trùng này cũng có thể lây lan qua đường thức ăn và sữa nhưng không thường xẩy ra lắm.

Hiếm xẩy ra hơn là lọai vi trùng Strep gây ra nhiễm trùng các vết thương hoặc nhiễm trùng tử cung khi sanh nở. Các trường hợp này cũng gây ra các triệu chứng “đỏ” kể trên nhưng không có sưng cổ họng.
Biến chứng
Bệnh sốt đỏ ít khi gây ra biến chứng nặng nếu được chữa trị kịp thời và đầy đủ nhưng biến chứng vẫn có thể xấy ra. Đó là:

- Sốt phong thấp (rheumatic fever): Gây ra những triệuchứng ở khớp xương, tim, da và hệ thần kinh. Lưu chứng kinh niên là hư hoại van tim, bệnh tim và một bệnh thần kinh tên Sydenhams chorea khiến bệnh nhân cảm xúc bất thường, yếu bắp thịt và tay chân mặt bị co giật. Nếu bệnh scarlet fever được chữa trị đúng mức, sẽ ít khi gây ra biến chứng nguy hiểm này.

- Viêm thận (poststreptococcal glomerulonephritis): Thận bị viêm sau bệnh scarlet fever, có thể đưa đến suy thận kinh niên. 

- Tăng triệu chứng bệnh tâm thần: Nhiễm vi trùng strep có thể gây ra một phản ứng làm tăng triệu chứng bệnh của các em đã bị các bệnh tâm thần như obsessive compulsive, Tourette syndrome, hay ADHD. 
- Những biến chứng khác gồm có: Vi trùng trong máu, viêm tai giữa, viêm màng não, viêm xương chẩm sau tai, viêm màng tim, sưng phổi, viêm xoang mũi, viêm khớp xương, mụn nhọt trong cổ họng, nhiễm trùng da.

Định bệnh và chữa trị
Bác sĩ có thể sẽ làm những thử nghiệm sau để định bệnh sau khi khám bệnh: dùng que bông gòn quẹt cổ họng rồi đem cấy để định xem loại vi trùng nào gây bệnh. Thử nghiệm này mất 2 tới 3 ngày mới có kết quả. Bác sĩ cũng có thể dùng những thử nghiệm định bệnh mới hơn, có kết quả ngay nhưng lại không chính xác bằng.

Sau khi định bệnh scarlet fever, bác sĩ có thể sẽ cho bệnh nhân một trong những trụ sinh sau đây:
· Penicillin, uống hay chích
· Amoxicillin (Amoxil, Trimox)
· Azithromycin (Zithromax)
· Clarithromycin (Biaxin)
· Clindamycin (Cleocin)
· Một loại cephalosporin như cephalexin (Keflex) 
Bệnh nhân nên uống hết số thuốc bác sĩ đã cho dù đã cảm thấy khỏe vì nếu không chữa đầy đủ, bệnh nhân có thể bị những biến chứng kể trên. Nếu uống thuốc 24 tới 48 tiếng mà không thấy đỡ, nên gọi bác sĩ.
Sau 24 giờ uống trụ sinh bệnh nhân thường cảm thấy dễ chịu và không còn lây bệnh cho người khác và có thể đi học lại nếu đã hết sốt được 24 giờ.
Ngừa bệnh
Chúng ta nên theo những cách sau đây đề ngừa bệnh Scarlet fever cũng như các bệnh nhiễm trùng khác:
- Rửa tay: Nên rửa cẩn thận đầy đủ bằng nước và xà bông.
- Không dùng chung vật dụng cá nhân như ly nước,muỗng nĩa..
- Che miệng khi ho và hắt hơi bằng tờ giấy và vứt nó vào thùng rác.
- Rửa kỹ đồ dùng của người bệnh bằng nước nóng và xà bông.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Tuesday, July 18, 2017

Nhức đầu trong giấc ngủ (Hypnic headache)

Hội chứng đau đầu trong giấc ngủ, tiếng Anh gọi là Hypnic Headache (HH), trong đó "hypnic" có nghĩa là giấc ngủ, tương đối hiếm khi gặp, thường xảy ra ở bịnh nhân trên 50 tuổi, tuy có thể có ở người trẻ hơn. Vì bịnh hiếm, nên kiến thức về bịnh này không nhiều. Bịnh được mô tả lần đầu gần đây (1988). Tác giả NH Raskin nghiên cứu trên các bịnh nhân 67-84 tuổi. Trước đây, các nghiên cứu gợi ý HH liên hệ với giai đoạn REM sleep (giai đoạn thứ 4 của mỗi chu kỳ giấc ngủ) lúc mắt nhúc nhích rất nhanh (Rapid Eye Movements), tuy nhiên, các khảo cứu mới hơn, cho thấy HH xảy ra ở gia đoạn thứ 2 của giấc ngủ (N2), lúc mắt không nhúc nhích, sóng não bộ chậm lại. Ngoài ra MRI cho thấy chất xám trong vùng sau của hypothalamus có giảm đi ở bịnh nhân bị HH. (Theo Cutrer, UpToDate).
Lúc ngủ qua một đêm, chúng ta đi qua chừng 5 chu kỳ (cycle). Mỗi chu kỳ dài chừng 90 phút và gồm 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn có những hoạt động não bộ khác nhau, biểu hiện bằng những sóng (brain waves) khác nhau trên não điện đồ (EEG, electroencephalogram).
Triệu chứng:
  • HH chỉ xảy ra ban đêm, lúc ngủ, thường đúng khoảng thời gian chừng 1-3 giờ sáng, cho nên còn được gọi là "đau đầu đồng hồ báo thức" (alarm clock headache),
  • đau một bên đầu hay có khi 2 bên,
  • đau loại bưng bưng (throbbing pain) thường gặp,
  •  điển hình kéo dài 30-60 phút; tuy có thể ngắn chừng 15 phút, có thể kéo dài 6 giờ,
  • phụ nữ bị nhiều hơn nam giới,
  • có thể có những triệu chứng đi kèm do rối loạn thần kinh tự dưỡng (autonomic nervous system) loại đối giao cảm (parasympathetic) như chảy nước mắt, nghẹt mũi, khó chịu với ánh sáng (photophobia), khó chịu, nhạy cảm với âm thanh (sonophobia),
  • người bịnh có thể đi ngủ lại sau khi bớt đau, tuy nhiên có thể có cơn đau khác,
  • bị 15 hay nhiều hơn cơn đau/tháng,
  • tuy có bịnh nhân (hiếm) bị HH lúc ngủ ngày.
Định bịnh:
Tiêu chuẩn định bịnh của Phân Loại Quốc tế Về Rối Loạn Đau Đầu (International Classification of Headache Disorders):
  1. Đau âm ỉ, ê ẩm (không phải đau nhói)(dull headache).
  2. Chỉ lúc đang ngủ, làm bịnh nhân thức dậy.
  3. Có 2/3 chỉ tiêu sau đây: xảy ra 15 lần trở lên/ tháng, kéo dài trên 15 phút sau khi thức, và xảy đến lúc hoặc sau 50 tuổi.
  4. không có triệu chứng thần kinh tự dưỡng, hay chỉ một triệu chứng thôi (ói, sợ ánh sáng, sợ tiếng động).
  5. Không giải thích được bằng một rối loạn (bịnh) khác.
Các yếu tố chính là cơn đau đầu và xảy ra trong giấc ngủ, xuất hiện đều đặn, và vắng mặt những bịnh khác có thể gây đau dầu.
Do đó bác sĩ cần loại bỏ những trường hợp sau:
Đau đầu do một bịnh khác gây ra; đang dùng thuốc thì ngưng (withdrawal headache); giấc ngủ bị gián đoạn bởi những cơn nghẹt thở (sleep apnea); u bướu trong đầu (intracranial tumors); viêm động mạch thái dương (temporal arteritis).
Một lý do có thể làm nhức đầu một bên mà không đau bên kia là những bịnh như viêm khớp giữa xương hàm với xương thái dương (TMJ), đau răng hay viêm xoang, viêm thần kinh số 5 (trigeminal neuralgia), bịnh glaucoma trong đó áp suất trong tròng mắt quá cao và có thể làm hư hại thị giác, cluster headache.
Đau đầu thuộc loại khác, tuy có thể liên hệ với HH
Đa số nhức đầu mãn tính là do migraine, do căng thẳng (tension headache) hoặc do trầm cảm (depression). Nếu chẩn đoán hình ảnh như CT scan, MRI không thấy u bướu, chảy máu trong xương sọ, hoặc không thấy xương cổ có gì bất bình thường, thì chúng ta bớt phải lo về những vấn đề trên.
a) Tension headache thường gặp nhất, đàn bà nhiều 3 lần hơn đàn ông: (“nhức đầu do căng thẳng”, một phần do co thắt các bắp thịt, một phần do cách não bộ đối phó với stress). Bịnh nhân nhức đầu suốt ngày, như đầu bị bóp lại, kẹp lại (vise-like), bịnh nhân mệt mõi một cách mơ hồ, khó tập trung (poor concentration), những lúc bị stress, mệt, chói mắt hoặc ồn ào lại càng nhức đầu hơn.
b) Nhức đầu do trầm cảm (depression): nhức đầu nhiều nhất lúc sáng mới ngủ dậy, kèm theo những triệu chứng trầm cảm như chán đời, không thích làm việc, thấy mình không làm gì ra trò, không đáng gì. Có thể cần bs tâm lý (psychologist) hoặc thần kinh (psychiatrist) giúp đỡ.
c) Migraine: thường cơn đau một bên đầu, nhưng có thể cả hai bên, đau bưng bưng (throbbing pain), nhưng có thể âm ỉ, có thể kèm theo buồn nôn, không ăn ngon, mắt mờ, sợ ánh sáng hoặc tiếng động
Chữa trị:
  1. Uống một hai tách cà phê trước khi đi ngủ. Có thể uống viên cà phê (caffeine tablets 200 mg/viên).
  2. Indomethacin, thuốc chống viêm, giảm đau nhức; không an toàn cho bịnh nhân loét bao tử hay ruột.
  3. Lithium carbonate, cần toa bác sĩ, cần bác sĩ theo dõi mức thuốc trong máu. Lithium thường dùng chữa các triệu chứng kích thích quá độ của bịnh tâm thần lưỡng cực (manic episodes of bipolar dísorder).
  4. Flunarizine (Sibelium), cần toa bác sĩ, thuốc loại calcium antagonist, tác dụng trên kênh calcium (calcium channel) của tế bào, thường dùng chữa migraine.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Thursday, July 13, 2017

Chữa ung thư tiền liệt

Vị thính giả hỏi về một thuốc được dùng để chữa ung thư tiền liệt và một số bịnh khác. Những nhận xét sau đây không có ý gán cho người hỏi bất cứ định bịnh cá biệt nào và chỉ có tính cách thông tin tổng quát, không có mục đích định bịnh hay ảnh hưởng đến trị liệu của người hỏi.
Tuyến tiền liệt (prostate) (TL) là một tuyến ngoại tiết của bộ phận sinh dục nam, tuy nhiên gần đây người ta cũng đặt tên lại cho một số tuyến tương tự ở phái nữ là tuyến tiền liệt nữ (homologous female prostate, Skene’s gland).
Ở phái nam, tuyến TL nằm dưới và nằm ngay trước ngõ nước tiểu đi ra của bàng quang (bọng đái, bladder), từ đó được đặt tên khoa học là prostate, có nghĩa là “đứng [pro] trước [stat], cửa”, từ tiếng Việt tiền liệt cũng theo nghĩa đó. Trước đây, chúng ta còn gọi là “nhiếp hộ tuyến”. Tuyến TL tiết vào tinh dịch một số thành phần giúp nuôi dưỡng các tinh trùng.
Tuyến TL bao quanh, ôm lấy niệu đạo (urethra) là ống dẫn nước tiểu thoát ra từ bọng đá. Nếu tuyến lớn quá (phì đại, hypertrophy), hoặc có ung bướu, tuyến có thể bóp nghẽn đường đi ra của nước tiểu và làm khó tiểu hoặc bí tiểu.
Ung thư tuyến tiền liệt là một đề tài gây nhiều tranh luận hiện nay trong giới y khoa.
Thường người ta sàn lọc (screen) bịnh nhân bằng 2 phương pháp đơn giản:
  1. khám bằng ngón tay qua ngã hậu môn, tuyến tiền liệt nằm phía trước trực tràng, bác sĩ sờ vào bằng ngón trỏ, cảm giác như lúc sờ vào chóp mũ, và bề mặt (phía sau) tuyến đều đặn đối xứng. Nếu sờ cứng,nổi cộm, to lên không đều thì bác sĩ nghi có bướu (DRE: digital rectal exam, ở đây digital là "dùng ngón tay", không phải kỹ thuật số)
  2. Đo PSA (prostate specific antigen), là một kháng nguyên từ tuyến tiền liệt tiết vào máu, đo dùng đơn vị nanogram/ml.
Nói chung, PSA cao ở bịnh nhân ung thư tuyến tiền liệt, tuy nhiên không phải ai có PSA cao cũng bị ung thư, ví dụ người bị viêm tuyến tiền liệt, tuyến phì đại lành tính cũng có thể PSA lên cao. Thường bác sĩ sẽ nghi ung thư nếu PSA>4 nanogram/ml, tuy nhiên có người bị ung thư nhưng PSA lại thấp hơn 4 nanogram/ml.
Hiện nay, một số cơ quan y tế, như: USPSTF [US Preventive Services Task Force], khuyên không nên thử PSA hàng năm cho đàn ông trên 50 nữa vì người ta rút tỉa từ các nghiên cứu rằng một số đáng kể bịnh nhân vì PSA cao, phải chịu đựng thử thịt (biopsy, sinh thiết), phẫu thuật không cần thiết. Mổi năm ở Mỹ, có 160,000 trường hợp ung thư TL mới được định bịnh, và chừng 27,000 người chết vì bịnh này. Có chừng 2,9 triệu người Mỹ đang mang bịnh này ( American Cancer Society). Tuy nhiên, nói chung dự hậu sống sót khá tốt, 99% người bịnh còn sống sau 5 năm. Ngoài ra, người ta ước tính là 50-70% các ung thư tiền liệt được chẩn đoán sẽ phát triển rất chậm và cho đến khi bịnh nhân chết vì nguyên nhân khác, các ung thư này vẫn còn nằm yên trong tuyến tiền liệt và không ảnh hưởng hay làm ngắn hơn cuộc sống của người mang nó.
Những điểm trên cho thấy rằng không phải lúc nào chúng ta cũng cần chữa dứt (cure) bịnh ung thư tiền liệt. Lựa chọn trị liệu cho thích hợp với mỗi trường hợp tuỳ theo tuổi bịnh nhân, triệu chứng, mức ác tính của u bướu, ví dụ: có lan ra ngoài tuyến TL hay chưa (TNM system staging T2-T3), tuyến có tuỳ thuộc vào các hormone nam (androgen) hay không, cũng như ý thích lựa chọn của bịnh nhân sau khi bịnh nhân đã hiểu rõ về những hậu quả, biến chứng của trị liệu có thể gây ra. Ví dụ, són tiểu, mất kiểm soát tiểu tiện (urinary incontinence) và bịnh bất lực (impotence, erectile dysfunction).
Chữa trị ung thư tuyến tiền liệt bao gồm nhiều lựa chọn khác nhau. Đi từ cắt bỏ tuyến tiền liệt bằng giải phẫu (prostatectomy, qua vết cắt mở, hay nội soi) cho những trường hợp người khá trẻ, ung thư còn giới hạn và bịnh nhân chấp nhận các biến chứng có thể xảy ra. Thứ hai là hoá trị liệu (chemotherapy) hay xạ trị (irradiation). Những trị liệu khác có tính cách giúp người bịnh sống thoải mái trong lúc vẫn mang bướu ung thư trong người. Trị liệu ít can thiệp nhất là "chờ đợi theo dõi" (watchful waiting), thử PSA khám định kỳ bằng ngón tay (DRE), hoặc "giám sát chủ động" hay "active surveillance", chủ động hơn vì gồm cả sinh thiết định kỳ mỗi năm, nếu có thay đổi đáng nghi thì can thiệp nhiều hơn.
Một trong những cách chữa ung thư tuyến tiền liệt là ngăn cản tác dụng của hormone nam (androgen) trên u bướu. Đa số tế bào ung thư tuyến tiền liệt cần tác dụng của androgen DHT (dihydrotestosterone, do dịch hoàn sản xuất) thì chúng mới tăng trưởng và lan ra được.
Sự sản xuất DHT chịu ảnh hưởng của não bộ qua 3 nấc khác nhau:
(a) Vùng hypothalamus (đáy não bộ) tiết ra hormone GnRH (gonadotropin releasing hormone).
(b) Chất này kích thích tuyến yên (hypophysis) tiết ra chất LH (luteinizing hormone) vào máu.
(c) LH kích thích các tế bào Leydig trong dịch hoàn tiết ra testosterone.
Đến phiên dịch hoàn dùng testosterone sản xuất ra DHT. Các loại chữa trị căn cứ trên hormone làm gián đoạn các bước trên trong quy trình sản xuất DHT.
Trong các biện pháp chữa trị dùng "chiến thuật" cắt đường tiếp liệu kích thích tố nam (DHT) cho tuyến tiền liệt, biện pháp "khuôn vàng thước ngọc" (gold standard) là cắt bỏ dịch hoàn, hay thiến (castration, orchiectomy).
Biện pháp khác mà không cần đến dao kéo là block tác dụng của testosterone bằng thuốc. Trong trường hợp chúng ta đang bàn thuốc goserelin (Zoladex) là một loại thuốc có tác dụng cùng chiều hướng với hormon GnRH của hypothalamus nói trên, nên gọi là "GnRH agonist", tuy nhiên nó chỉ kích thích tuyến hypophysis một thời gian ngắn ban đầu, nhưng vì bị kích thích liên tục, sau đó vài tuần thì thuốc lại "down-regulate" (làm giảm, ngưng hoạt động) sản xuất LH của tuyến hypophysis lại, do đó dịch hoàn không bị "ra lệnh" sản xuất testosterone nữa, lượng DHT giảm, tuyến ung thư TL thiếu DHT và không phát triển nhanh thêm được. Sau một thời gian, tác dụng của thuốc trên sản xuất hormon testosterone có thể bị suy giảm.
Chỉ định của goserelin (Zoladex):
  1. Dùng chung với flutamide (một chất antagonist của testosterone), trước khi và trong khi xạ trị cho ung thư tiền liệt còn giới hạn tại chỗ (locally confined prostate cancers).
  2. Chữa cầm chừng cho ung thư tiền liệt đã tiến xa (palliative care of advanced prostate cancers).
  3. Ở phụ nữ, thuốc ngăn chặn sản xuất hormone estrogen, nên cũng được dùng để chữa bịnh endometriosis (nội mạc tử cung hiện diện ngoài lòng tử cung, ví dụ trong phúc mạc là đau bụng, hiếm muộn, vô sinh) và ung thư vú đã tiến xa.
Tóm lại, thay vì cắt bỏ dịch hoàn, loại thuốc như goserelin (Zoladex) 10.8 mg chích vào da 3 tháng 1 lần là biện pháp tốt nhất, tuy đắt tiền hơn, (chừng 1000 đô la Úc/mỗi liều) để ức chế sự sản xuất DHT và testosterone từ dịch hoàn. Nếu ở tuổi 80, vị thính giả vẫn "sức khoẻ tốt" và vui mạnh, có lẽ bác sĩ của ông đã thực hiện mục tiêu lý tưởng mà bác sĩ nào cũng mong muốn đạt được cho bịnh nhân của mình, và tôi xin mừng cho ông. Còn bịnh tiền liệt của mình có còn ở đó hay không, chỉ có bác sĩ của ông mới biết rõ, tuy nhiên theo tôi nghĩ, có lẽ nó để mình yên thì cũng đã tốt lắm rồi.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Thuốc trị trầm cảm Venlafaxin

Chứng trầm cảm có hai dạng chính:
  1. Cơn rối loạn trầm cảm lớn (major depressive disorder): bịnh nhân không thấy thích thú, thú vị trong bất cứ chuyện gì, không thích làm việc, hoạt động, mang mặc cảm tội lỗi, không tập trung được, lo lắng mất ngủ, ăn không thấy ngon.
  2. Dysthymia: buồn bã không thấy lạc thú, hững hờ với công việc, kéo dài trên 2 năm; triệu chứng nhẹ hơn, nhưng mãn tính (kinh niên) hơn loại trầm cảm trên.
Thuốc trị trầm cảm chủ yếu tác dụng tăng mức các chất dẫn truyền thần kinh [neurotransmitters] trong não bộ. Norepinephrine và serotonin là 2 chất truyền dẫn thần kinh (neurotransmitter) được tiết ra trong khớp thần kinh (synapse), tạo liên lạc, đưa tín hiệu từ tế bào thần kinh này qua tế bào thần kinh kế tiếp.
Thuốc trị trầm cảm thế hệ thứ nhất làm tăng chất norepinephrine trong các khớp thần kinh (synapses). Ví dụ: loại tricyclic antidepressant [thuốc chống trầm cảm 3 vòng], như amitriptylin [“Elavil”].
Hiện nay, các thuốc trị trầm cảm mới (thế hệ thứ hai, second generation antidepressants), tuy không hiệu nghiệm hơn, được ưa chuộng hơn và rất thịnh hành. Thuốc ít phản ứng phụ hơn các thuốc trị trầm cảm thế hệ trước, nhất là ít tác động lên tim mạch và bịnh nhân khó chết vì thuốc hơn nhiều nếu chẳng may hoặc cố tình uống quá liều. Tuy nhiên, cũng nên nhắc ở đây là FDA cảnh báo các bác sĩ cần chú ý đến hiện tượng gia tăng tự sát ở các trẻ em, thanh thiếu niên dùng thuốc chống trầm cảm, nhất là cần theo dõi chặt chẽ bịnh nhân trong tháng đầu tiên.
Những thuốc này được gọi là SSRI (Selective Serotonin Reuptake Inhibitors, “thuốc ức chế tái hấp thu có chọn lọc serotonin”. Serotonin là một chất truyền dẫn thần kinh (neurotransmitter) được tiết ra trong khớp thần kinh (synapse). Thuốc loại SSRI ngăn chặn không cho serotonin bị thu hồi (reuptake) trở ngược lại vào tế bào thần kinh phía trước (presynaptic cell), do đó tăng serotonin ở khe khớp thần kinh (synaptic cleft). Những thuốc thường gặp là fluoxetin (Prozac, Sarafem), sertralin (Zoloft), paroxetin (Paxil), fluvoxamin (Luvox).
Venlafaxin (Effexor XR) là một thuốc chống trầm cảm. Khác với các thuốc kể trên, nó có tác dụng vừa tăng chất dẫn truyền (neurotransmitter) serotonin vừa tăng chất norepinephrine ở những synapse, là những khớp thần kinh, nơi tế bào thần kinh này "nói chuyện" với tế bào thần kinh kia, nhờ sự trao đổi các chất dẫn truyền. Nhóm thuốc chống trầm cảm này gọi là SNRI: serotonin and norepinephrine Reuptake Inhibitor. Thuốc ức chế việc thu hồi các chất dẫn truyền serotonin và norepinephrin sau khi chúng được tiết ra, do đó chúng tác dụng mạnh hơn và lâu hơn. Các thuốc trong nhóm này: venlafaxine, desvenlafaxine and levomilnacipran có thể làm áp huyết cao hơn; duloxetine (Cymbalta) có thể làm bịnh gan nặng hơn.
Chỉ định dùng thuốc venlafaxin :
  1. Rối loạn trầm cảm lớn (MDD, Major Depressive Disorder)
  2. Rối loạn lo âu lan tỏa (GAD, Generalized Anxiety Disorder)
  3. Panic disorder (cơn sợ nhanh, cao độ, đột ngột, vô cớ), (Từ panic gốc là "Pan"tên của vị thần thôn dã trong thần thoại Hy Lạp; Pan gây ra những âm thanh làm dân quê và thú vật hoảng sợ. )
  4. Khủng hoảng, lo sợ trong hoàn cảnh xã hội, phải tiếp xúc với người khác (social phobia).
Thuốc hiệu nghiệm hơn những loại SSRI trước đó như fluoxetine, paroxetine, fluvoxamine nhưng tỷ lệ tự sát chết người cao hơn (tuy tỷ lệ cao hơn này một phần vì người ta dùng thuốc này cho những bịnh nhân có chứng trầm cảm nặng hơn)
Phản ứng phụ:
Tuy là thuốc chữa bịnh trầm cảm, FDA bắt buộc tất cả các thuốc loại này phải để một "black box" (hộp đen, khung đen) cảnh báo bác sĩ là dùng thuốc chống trầm cảm có thể gây ra những tư tưởng muốn tự tử hay hành động, hành vi tự sát (suicidal thoughts or suicidal behavior) ở một số bịnh nhân, nhất là người dưới 25 tuổi. FDA cảnh báo là an toàn và hiệu nghiệm của việc dùng Venlafaxine cho trẻ em hoặc thanh thiếu niên (pediatric use) chưa được chứng minh (thiết lập). Bác sĩ phải cân nhắc những mối nguy có thể xảy ra so với nhu cầu dùng thuốc của bịnh nhân.
Người già:đôi khi nồng độ muối trong máu có thể giảm quá thấp (hyponatremia).
Các biến chứng có thể làm bịnh nhân ngưng thuốc: Buồn ngủ, mất ngủ, chóng mặt, bức rức, khô miệng, lo âu, buồn nôn (có thể ít hơn nếu uống thuốc sau khi ăn), xuất tinh bất bình thường, bất lực, nhức đầu, mệt mỏi, toát mồ hôi.
Cần cho bác sĩ biết những thuốc mình đang dùng đồng thời, ví dụ:
  • các thuốc thảo dược, (herbal medicines),
  • các thuốc đau nhức, thuốc chống trầm cảm khác,
Ở Mỹ có herbal medicine St John wort ( Hypericum perforatum) dùng trị trầm cảm. Nếu dùng chung với SNRI có thể làm tim đập mạnh, huyết áp lên cao trong hội chứng serotonin gồm bứt rứt, bớt tỉnh táo, tim đập nhanh, toát mồ hôi, do trong máu có quá nhiều serotonin (serotonin syndrome)
  • thuốc làm mình dễ chảy máu hơn (như Coumadin).
Có thai, cho con bú sữa mẹ: bác sĩ cần cân nhắc lợi hại.
Không nên ngưng thuốc đột ngột, cần hỏi bác sĩ trước, có thể bs cho giảm liều từ từ.
Nói tóm lại, thuốc Venlafaxin mới hơn, chống trầm cảm, có thể hiệu nghiệm hơn các thuốc SSRI như Prozac, và làm tăng serotonin cũng như norepinephrine giữa các neuron trong não bộ thay vì chỉ tác dụng trên serotonin như SSRI. Tuy nhiên có thể phản ứng phụ nhiều hơn và cơ nguy làm người bịnh tự sát hay nghĩ đến tự sát cao hơn, và không dùng cho trẻ em.
Những nhận xét trên đây hoàn toàn có tính cách thông tin tổng quát. Bịnh nhân cần bác sĩ theo dõi.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bệnh thương hàn

Bệnh thương hàn là một bệnh rất hiếm thấy ở Mỹ, mỗi năm chỉ có chừng 400 ca bệnh, đa số là do đi du lịch đem về. Tuy nhiên, đối với người Việt Nam, bệnh thương hàn nghe vẫn rất quen thuộc và ai cũng nhớ lời căn dặn là không cho người bệnh thương hàn ăn quá sớm, có thể bị lủng ruột chết. 

Có thực như vậy không? Và bệnh thương hàn là gì? Tại sao chỉ có ở những quốc gia chậm tiến như Việt Nam và hầu hết những xứ Đông Nam Á khác? Rất dễ hiểu. Vì bệnh thương hàn lây do nước uống và thức ăn không sạch, chứa vi trùng thương hàn mà ở những nước này thì tình trạng nước uống được kiểm soát rất sơ sài hay đúng hơn là không được kiểm soát. Do đó, bệnh lây lan dễ dàng hơn. 

Khi có tai nạn sóng thần làm chết rất nhiều người ở các nước Indonesia, Sri Lanka, Thái Lan, Ấn Độ... khiến cho tất cả hệ thống cầu cống đường xá bị tiêu hủy, bệnh thương hàn cũng như nhiều bệnh truyền nhiễm khác có cơ hội lan rộng.

Ngoài bệnh thương hàn, ta cũng nên biết đến bệnh phó thương hàn (paratyphoid) là một bệnh tương tự nhưng thường nhẹ hơn.
Triệu chứng
Triệu chứng bệnh thương hàn xuất hiện dần dần và có thể từ 1 tới 3 tuần sau khi tiếp xúc với vi trùng, người bệnh mới có triệu chứng. Đôi khi có những trường hợp thời gian ủ bệnh tới 2 tháng. Thời gian ủ bệnh của phó thương hàn thường ngắn hơn, chỉ 1 tới 10 ngày. Triệu chứng gồm có:
1. Sốt tới 103, 104 độ F
2. Nhức đầu
3. Yếu ớt, mệt
4. Đau cổ họng
5. Đau bụng
6. Đi tiêu chẩy hoặc táo bón. Trẻ em thường bị tiêu chẩy trong khi người lớn lại bị táo bón nặng.
Vào tuần lễ thứ hai, bệnh nhân có thể bị nổi mẩn đỏ ở bụng trên. Mẩn đỏ này chỉ xuất hiện ngắn hạn và biến mất trong vòng 3, 4 ngày.

Nếu không được chữa trị, bệnh nhân sẽ bước vào thời kỳ thứ hai rất nặng. Bệnh nhân tiếp tục bị sốt cao và có thể bị tiêu chẩy hay táo bón nặng. Bệnh nhân cũng bị mất cân rất nhiều và bụng phình to lên.
Vào tuần lễ thứ ba, bệnh nhân trở nên mê sảng, nằm bất động và rất mệt mỏi đến độ không mở mắt lên được. Tình trạng này được đặt tên là tình trạng thương hàn. Những biến chứng chết người thường xẩy ra vào thời gian này.

Nếu không chết, vào tuần thứ tư, bệnh nhân bắt đầu bình phục. Nhiệt độ sẽ giảm dần và trở lại bình thường trong vòng 1 tuần tới 10 ngày. Nhưng những triệu chứng bệnh có thể tái phát nhiều khi cả tới 2 tuần sau khi đã hết sốt. Người ta không hiểu tại sao bệnh lại thường tái phát nếu bệnh nhân được chữa bằng trụ sinh vào thời kỳ đầu tiên của bệnh.

Bệnh phó thương hàn có triệu chứng tương tự nhưng nhẹ hơn, ít biến chứng nặng và bệnh nhân mau bình phục hơn.
Nguyên nhân
Bệnh thương hàn là một bệnh rất lâu đời, từng giết người cả ngàn năm nay. Nhưng nguyên nhân của bệnh chỉ mới được khám phá ra từ cuối thế kỷ thứ 19. Đó là vi trùng Salmonella typhi gây bệnh thương hàn và Salmonella paratyphi gây bệnh phó thương hàn.

Bệnh thường lây do ăn uống phải chất có dính vi trùng hoặc do tiếp xúc với người mắc bệnh. Ở những nước chậm tiến, người ta thường bị lây do nước uống bị nhiễm vi trùng và điều kiện vệ sinh tồi tệ. Nơi các nước tiền tiến, người ta thường bị lây khi đi du lịch hoặc lây từ đường phân-miệng. Vi trùng thường có ở phân và đôi khi ở nước tiểu của người bị bệnh. Nếu người này không rử a tay kỹ sau khi đi vệ sinh rồi làm thức ăn, họ có thể làm dính vi trùng vào thức ăn và lây cho người ăn.

Một số người bệnh dù đã được chữa bằng thuốc trụ sinh, vẫn còn chứa vi trùng trong ruột hay túi mật của họ dù họ đã lành bệnh. Trong trường hợp này, họ có thể lây bệnh cho người khác trong lúc họ vẫn khỏe mạnh. Những người này được gọi là người mang mầm bệnh kinh niên.
Biến chứng
Khoảng 1/3 số người mắc bệnh sẽ bị biến chứng.
1. Nguy hiểm nhất là chẩy máu ruột và lủng ruột. Khi bị chẩy máu ruột, bệnh nhân thình lình bị giảm huyết áp và bị shốc, sau đó là có máu trong phân. Lủng ruột có thể xảy ra ở ruột non hay ruột già, làm đồ ăn thoát khỏi ruột vào trong bụng. Trường hợp này bệnh nhân phải được chữa khẩn cấp. Lủng ruột gây ra 1/ 4 số tử vong vì bệnh thương hàn.
2. Viêm cơ tim
3. Sưng phổi
4. Viêm tụy tạng
5. Nhiễm trùng thận hay bọng đái
6. Viêm màng não
7. Triệu chứng tâm thần như mê sảng, ảo giác, hay mê hoảng
Chữa bệnh
1. Bệnh thương hàn được chữa bằng thuốc trụ sinh. Trước kia, người ta thường dùng thuốc chloramphenicol nhưng hiện nay không còn dùng vì thuốc gây ra nhiều phản ứng phụ rất nặng. Hiện nay, có nhiều trường hợp vi trùng S. typhi chống lại thuốc trụ sinh khiến người ta phải đổi thuốc mới luôn, nhiều khi không kịp tìm ra thuốc mới.
Vi trùng S. typhi hiện nay có thể chống lại thuốc Bactrim, Ampicillin và Tetracycline. Tại Việt Nam, 90% vi trùng thương hàn chống lại tất cả những thuốc trên. Hiện nay, bác sĩ dùng thuốc Cipro. Phụ nữ có thai hay trẻ em thì dùng Rocephin. Tuy nhiên, lâu ngày, vi trùng S. typhi cũng có thể chống lại những trụ sinh này.
2. Nên uống nước nhiều để tránh bị khô nước trong người do sốt lâu và tiêu chảy. Bệnh nhân có thể phải được truyền nước biển nếu mất nước nhiều.
3. Nên ăn thức ăn nhiều chất protein và không quá đặc
Phòng bệnh
1. Thuốc ngừa: Nơi những nước chậm tiến, có được hệ thống nước sạch, điều kiện vệ sinh tốt và hệ thống y khoa hữu hiệu, là điều không dễ thực hiện. Do đó, có thể phải nghĩ đế chuyện thuốc ngừa bệnh hco một số lớn dân chúng. Hiện nay có hai loại thuốc ngừa: thuốc chích 1 liều duy nhất và thuốc uống trong vòng nhiều ngày. Cả hai loại đều không hiệu quả 100% và có thể phải ngừa lại nhiều lần.
2. Rửa tay kỹ: Dù đã chích ngừa, bạn cũng nên rử atay kỹ thường xuyên, nhất là trước khi ăn, trước khi nấu ăn và sau khi dùng nhà vệ sinh. Nên mang theo thuốc rửa tay có cồn (alcohol based), không cần nước.
3. Không uống nước sống: Chỉ nên uống nước trong chai, nước có hơi càng tốt. Lau phía ngoài chai nước trước khi mở. Không dùng nước đá. Dùng nước chai để đánh răng xúc miệng.
4. Không ăn rau và trái cây sống
5. Ăn thức ăn nóng, tránh thức ăn để bên ngoài, đã nguội. Nên tránh ăn ngoài đường.
Nếu bạn đang trong thời kỳ phục hồi, nên theo những cách sau để tránh lây bệnh cho người khác:
1. Rửa tay kỹ và thường xuyên, giống như trên
2. Thường xuyên chùi bàn cầu, nắm cửa, điện thoại, vòi nước bằng khăn giấy xài một lần và thuốc tẩy giết vi trùng.
3. Không nấu ăn hay đưa thức ăn cho người khác
4. Chỉ dùng vật dụng cá nhân của mình, không dùng chung.

BS Nguyễn Thị Nhuận