Tuesday, February 28, 2017

Làm sao để bớt đau đầu?

Nhức đầu thường xảy ra khi bạn bị căng thẳng (stress). Stress là nguyên nhân thông thường nhất của chứng đau đầu vì căng thẳng và có thể gây ra các loại đau đầu khác hoặc làm cho chúng tồi tệ hơn.
Chuyện gì làm bạn đau đầu?

Do đó, tìm cách để giải quyết sự căng thẳng có thể giúp khỏi bị đau đầu.
Khi một sự kiện lớn trong cuộc đời - sự ra đời của một em bé, cái chết của một người thân yêu, một sự thay đổi nghề nghiệp, ly hôn - xảy ra, nó có thể gây căng thằng. Nhưng loại căng thẳng này thường không gây nhức đầu.

Thay vào đó, thường các chuyện gây khó chịu hàng ngày - tìm kiếm giấy tờ bị mất, kẹt xe, phiền toái nhỏ nhặt tại nơi làm việc - có thể làm xói mòn khả năng đối phó của bạn. Đối với một số người, những khó chịu này gây ra nhức đầu.

Đối phó với những căng thẳng hàng ngày này bằng cách căng cứng bắp thịt, nghiến răng hoặc làm căng cứng vai của bạn chỉ có thể làm bạn đau đầu nhiều hơn thôi.

Bạn không thể tránh căng thẳng hàng ngày. Nhưng bạn có thể làm giảm bớt tác dụng của sự căng thẳng, giúp ngăn ngừa đau đầu.
Cách làm bớt đau đầu
Kỹ thuật thư giãn có thể làm giảm các tác dụng của căng thẳng, trong đó có nhức đầu. Nên dành thời gian cho các hoạt động bạn thích, chẳng hạn như nghe nhạc, nhảy múa, chơi một môn thể thao, đọc sách hoặc chơi với thú cưng, bạn sẽ thấy dễ chịu hơn.
Ngoài ra, hãy dành thời gian, dù chỉ là 10 phút một ngày, để thực hành thư giãn. Các kỹ thuật gồm:
- Thiền
- Yoga
- Tai Chi
- Thở sâu
Ngoài ra, để giảm bớt căng thẳng hàng ngày, hãy xem xét những lời khuyên này:
- Đơn giản hóa cuộc sống. Thay vì tìm cách nhồi nhét thêm những hoạt động hoặc công việc vào một ngày, hãy hoãn lại số công việc ấy. Hãy tự hỏi mình những gì thực sự cần phải làm, những gì có thể chờ đợi và những gì bạn không cần phải làm. Nên nhớ rằng nói không là OK, không phải cái gì cũng cần làm ngay.
- Tập thể dục đều đặn. Tập thể dục là một cách đã được chứng minh để ngăn ngừa - và đôi khi điều trị - nhức đầu. Tập thể dục cho ta một giai đoạn nghỉ ngơi khỏi sự căng thẳng của cuộc sống hàng ngày. Nên warm up trước khi tập vì tập đột ngột với cường độ cao có thể gây ra đau đầu.

- Ăn uống lành mạnh. Ăn nhiều trái cây, rau và ngũ cốc nguyên hạt có thể cung cấp cho bạn nhiều năng lượng hơn và giúp bớt căng thẳng.

- Ngủ đủ. Căng thẳng có thể gây trở ngại cho giấc ngủ, và thiếu ngủ có thể cản trở khả năng đối phó với sự căng thẳng. Thiếu ngủ làm cho cơ thể bị căng thẳng và có thể gây ra việc tiết ra các hormone gây căng thẳng như adrenaline và cortisol.

- Tìm kiếm hỗ trợ. Nên nói chuyện với gia đình hoặc bạn bè hoặc cho phép họ giúp bạn vượt qua một thời gian khó khăn. Nói chuyện với một người trị liệu có thể giúp bạn.

- Quản lý thời gian một cách khôn ngoan. Cập nhật danh sách công việc phải làm mỗi ngày - cả trong công việc và ở nhà. Ủy nhiệm cho người khác những gì bạn có thể và chia các dự án lớn thành nhiều phần nhỏ quản lý được. Giải quyết từng phần, chỉ một vấn đề mỗi lần.

- Chuẩn bị. Lập chương trình hằng ngày. Lường trước những thách thức. Cố gắng giữ cho kế hoạch linh hoạt, trong trường hợp bị chứng đau đầu tấn công và bạn cần phải thay đổi hành trình.

- Buông bỏ. Cố gắng không lo lắng về những thứ bạn không thể kiểm soát.
- Điều chỉnh thái độ. Nếu bạn thấy mình suy nghĩ, "Điều này không thể thực hiện được,"hãy dừng lại. Thay vào đó, nghĩ, "Đây là khó khăn. Nhưng tôi có thể làm cho giải quyết được." Suy nghĩ tích cực có thể giúp bạn làm việc qua các tình huống căng thẳng. Nếu bạn cần giúp đỡ, hãy thử “liệu pháp nhận thức hành vi” (cognitive behavioral therapy).

- Nghỉ ngơi một lát. Nếu bạn cảm thấy quá tải, hãy ngừng lại một thời gian để tâm trí được nghỉ. Stretch chậm rãi hay đi bộ nhanh có thể làm mới năng lượng. Tưởng tượng mình đang nghỉ ngơi trong một nơi yên tĩnh, thư giãn.

- Cười. Hài hước là một cách tuyệt vời để giảm stress. Cười làm tiết ra endorphins, chất tự nhiên có thể giúp bạn khỏe hơn và duy trì một thái độ tích cực. Không biết cười gì? Hãy thử xem phim hài hước hoặc đọc một cuốn sách hài hước.

- Thay đổi tốc độ sống. Bỏ những thói quen hằng ngày và thử một cái gì đó mới. Một kỳ nghỉ cuối tuần có thể giúp bạn có một cái nhìn mới.

- Bỏ những thói quen xấu. Nếu bạn hút thuốc, bỏ thuốc lá. Cắt giảm caffeine và, nếu bạn uống rượu, đừng lạm dụng.

Hầu hết những cơn đau đầu không có gì đáng sợ. Nhưng nếu đau đầu làm gián đoạn các hoạt động hàng ngày, công việc của bạn hay cuộc sống cá nhân, hãy hỏi bác sĩ để được giúp đỡ. Có thể là bạn đang bị căng thẳng, nhưng có thể có một chuyện gì khác.
Tìm chăm sóc khẩn cấp nếu cơn đau đầu của bạn:
- Đột ngột và nặng
- Đi kèm với sốt, cứng cổ, phát ban, lú lẫn, co giật, nhìn thấy hai hình, cơ thể yếu, tê hoặc khó nói
- Sau một chấn thương đầu, té hay va chạm
- Càng lúc càng nặng hơn dù bạn đã nghỉ ngơi và uống thuốc giảm đau
Những triệu chứng trên có thể là dấu hiệu của một tình trạng y tế cần phải điều trị kịp thời.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Quyết định phẫu thuật cườm khô (mổ cataract)

Theo gốc Hy lạp và La tinh, cataract có nghĩa đổ xuống, giống như một cái thác nước, thủy tinh thể mắt (lens, cristallin (French)) đổi qua màu trắng như một màng trắng buông xuống, chặn ánh sáng vào mắt; khác với cườm nước, hay glaucoma, do nghĩa gốc glaucoma là màu xanh vert (xanh lá cây), cũng có nghĩa là đục, đờ đẫn (dull sheen, là cái nhìn không thần sắc của người mù mắt. Mấy ngàn năm trước thời La-Hy, người ta chưa phân biệt cataract và glaucoma. Bệnh glaucoma do áp suất các chất dịch trong tròng mắt quá cao. Cả hai loại cườm đều có thể hiện diện trong mắt; cataract to quá trong một số trường hợp có thể gây ra glaucoma, cũng như giải phẫu chữa glaucoma có thể gây biến chứng là cataract. Nên hỏi bác sĩ ngoài vấn đề cườm khô mình có bệnh cườm nước hay bệnh gì khác hay không.
Trong bệnh cataract, hoặc cườm khô, có một vết đục trong thủy tinh thể của mắt (lens). Trong một cái máy chụp hình, nhìn vào phía trước, chúng ta thấy một thấu kính (camera lens) để cho ánh sáng đi vào phía sau và ánh sáng in hình lên phim hoặc trên màng phim tiếp nhận. Mắt chúng ta cũng tương tự như một cái máy chụp hình, ánh sáng cũng đi qua một bộ phận như một cái thấu kính, bộ phận đó là thủy tinh thể (lens). Lúc cườm khô (cataract) mới xuất hiện, người bệnh thường không thấy thay đổi gì trong khả năng mình trông thấy, nhưng từ từ theo thời gian, vết đục càng ngày càng ảnh hưởng tới thủy tinh thể mắt, làm cho người bệnh biết mắt mờ đi (blurred vision), hình thể sự vật bị méo mó, người bệnh xốn mắt, khó chịu lúc nhiều ánh sáng và dễ bị chóa mắt lúc nhìn vào một ngọn đèn (glare). Cataract không chữa bằng thuốc uống được. Cách chữa duy nhất là giải phẫu (mổ), bằng cách lấy cái thủy tinh thể đã vẩn đục ra khỏi cái vỏ (capsule) chứa đựng nó và thay thế vào đó bằng một kính nhân tạo bằng plastic (silicone hay acrylic) (intraocular lens, IOL).
Về câu hỏi, lúc nào thì nên giải phẫu lấy cườm khô ra, sau đây tôi xin sơ lược một số điểm căn cứ trên thông tin của hội các bác sĩ chuyên khoa mắt của Hoa Kỳ (American Academy of Ophthalmology, AAO) (1):
1. Bác sĩ định bệnh cataract cho bạn không có nghĩa là phải giải phẫu ngay. Lúc đầu, bệnh nhẹ, đo mắt và mang kính (gương) để sửa lại một số rối loạn về khúc xạ (refraction) như cận thị, viễn thị, loạn thị, hay nhờ kính đặc biệt làm bớt lóa do đèn ban đêm, có thể làm thị giác khả quan hơn, thấy rõ hơn.
2. Tuy nhiên, với thời gian, cườm khô sẽ "chín mùi" hơn ("mature") và cuộc sống hàng ngày có thể bị ảnh hưởng, giới hạn. Mặc dù nhiều bệnh nhân sợ mổ, phẫu thuật lấy cườm khô là phẫu thuật phổ biến nhất được thực hiện trên người già trong chương trình Medicare (bảo hiểm cho người trên 65 tuổi tại Mỹ).
3. Phẩm chất cuộc sống gia tăng sau khi mổ, ít bị té hơn, ít bị tai nạn lưu thông hơn, cơ nguy chết về lâu dài cũng ít hơn.
4. American Academy of Ophthalmology (AAO) khuyên bệnh nhân tự hỏi:
a. Cườm khô có ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày hay nghề nghiệp hay không? Ví dụ bạn có thể thấy mờ hơn, chóa mắt/ loá hơn, màu vàng hơn, có thể thấy một thành hai trong cùng một mắt (double vision in one eye), nếu nghề nghiệp của mình bị trở ngại (ví dụ bác sĩ chuyên khoa da, hoạ sĩ, thợ sửa đồng hồ, tài xế), người thích chụp hình (thay đổi màu sắc, không trung thực), nấu ăn, may vá (cần phân biệt chi tiết).
b. Cườm khô có ảnh hưởng đến việc lái xe ban đêm một cách an toàn hay không (vd ánh đèn các xe ngược chiều làm loá mắt); lấy bằng lái xe có bị trở ngại vì thị giác kém không?
c. Những người sinh hoạt ngoài trời nhiều như đánh golf, trượt tuyết, bơi lội: cườm có ảnh hưởng gì không. Nên để ý, nếu mắt mờ một bên, có thể không ước tính được độ xa gần chính xác như người dùng 2 mắt phối hợp với nhau.
d. Những biện pháp giản dị có giúp bạn thoải mái vừa đủ hay không: dùng màu sắc sáng hơn, tươi hơn (ví dụ điện thoại màu đỏ trên quầy bếp màu trắng dễ tìm hơn là nếu cả hai cũng màu đen), thắp đèn sáng hơn, ví dụ đường vào phòng tắm, hay đèn tự động sáng lúc đi ngang qua. Mang kính mát dùng ánh sáng phân cực (polarized sun glasses), mang nón/mũ vành rộng lúc ra ngoài nắng, dùng kính lúp để đọc sách. Theo bác sĩ R. Goel, phát ngôn viên của hội AAO: "Nếu cườm không làm xáo trộn cuộc sống của bạn, có lẽ còn đợi thêm được, và lúc nào nó thật sự bắt đầu làm phiền bạn thì đi giải phẫu. Đối với những ai cảm thấy cườm làm sự vật nhìn thấy nhoà và kém tươi, thủ thuật lấy cườm có thể giúp ích đáng kể.”
5. Người ta chỉ dùng phẫu thuật cườm khô trong mục đích cải thiện, làm khả năng nhìn tốt hơn, rõ hơn mà thôi. Trừ trường hợp phần sau mắt có bệnh cần khám theo dõi, chữa trị (vd bệnh võng mạc) cần phải lấy cườm đục ra mới nhìn thấy được phía sau.
6. Một số trường hợp nếu chờ lâu quá mới giải phẫu, thủy tinh thể (lens) có thể đặc quá (dense, hard nuclei), cứng và nâu, có thể gây trở ngại cho bác sĩ giải phẫu lúc lấy thủy tinh thể ra. (2) Hiện nay bác sĩ thường dùng kỹ thuật phacoemulsification, nghĩa là "nhũ tương hoá thủy tinh thể" (bs dùng dụng cụ siêu âm để phá vỡ thủy tinh thể thành từng mảnh nhỏ và hút ra ngoài, trước khi để thấu kính nhân tạo vào trong vỏ của thủy tinh thể).
Nói tóm lại, giải phẫu lúc nào phần lớn do bệnh nhân cảm thấy mình có muốn và cần thị giác tốt hơn hiện có hay không, mình có khả năng tài chánh để đài thọ những gì mình muốn hay không (ví dụ các thấu kính nhân tạo (IOL) có nhiều loại khác nhau, khả năng khác nhau và giá tiền khác nhau) và bác sĩ có đồng ý với sự lựa chọn của mình hay không.
Xin nhắc lại là bệnh nhân cần bàn với bác sĩ chuyên khoa của mình cũng như với bác sĩ gia đình để tìm hiểu những lựa chọn khác nhau. Những điều nói ở trên không có mục đích thay thế ý kiến của bác sĩ của mỗi người.
Chúc bệnh nhân may mắn.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Chứng "nói nhiều " của người rất già

Trong văn hoá Việt Nam, chúng ta vẫn thường cho càng già thì càng khôn. Ví dụ có câu "bảy mươi thua bảy mốt", vì người sống càng lâu thì kinh nghiệm đời càng nhiều, tích luỹ, và do đó người cao tuổi là một túi khôn cho tuổi trẻ khai thác. Người già cũng có cái nhìn xa hơn, họ dạy cho chúng ta sự khiêm tốn, nhìn theo viễn tượng của hàng năm, hàng chục năm chứ không phải chỉ căn cứ trên những điều quan sát trước mắt. Như câu nói: “Bảy mươi chưa què chớ khoe mình lành.”
Tuy nhiên, như vị cao niên ở Úc than ở đây, "tuổi già khổ lắm", hay "lão lai, tài tận", thực tế có mặt trái của nó. Cổ nhân có câu: “Đa nam đa cụ, đa phú đa ưu, đa thọ đa nhục".
Vậy chúng ta hãy bàn một cách khách quan về cơ sở sinh học của cái khổ đó là gì, riêng về vấn đề não bộ, là căn bản của đời sống tâm lý, tinh thần theo kiến thức y khoa hiện nay.
Càng lớn tuổi, từ 40 tuổi trở đi, lúc mà thể tích não bộ ở điểm cao nhất, não bộ con người càng nhỏ lại. Bình thường, bộ óc người lớn nặng chừng 3 pound (1,3-1,4 kilogram). Cứ một thập niên, 10 năm, cân nặng não bộ nhẹ đi 5%. Hệ thống mạch máu nuôi dưỡng não bộ cũng bị cũ đi và không cung cấp máu và oxy đầy đủ như trước nữa. Khả năng làm việc hay hiểu biết (cognition) cũng giảm theo.
Riêng trong não bộ, phần chất trắng (white matter) là nơi các tế bào thần kinh nối kết với nhau, những tổn thương xuất hiện càng ngày càng nhiều (WML: white matter lesions). Tế bào thần kinh (neuron) cũng nhỏ hơn trước, có lẽ là nguyên nhân chính của việc bộ óc giảm cân nặng.
Chúng ta biết càng lớn tuổi, nguy cơ đột quỵ (tai biến mạch máu não, stroke) càng cao. Tuy nhiên, dù bệnh nhân chưa bao giờ có triệu chứng lâm sàng của đột quỵ hay những "mini-strokes", “đột quỵ thì thầm" (whispering strokes) vẫn xảy ra, làm tổn hại những vùng nho nhỏ trong não bộ, nhưng một cách kín đáo, không biểu hiện rõ ràng, qua năm tháng tích lũy lại và làm giảm cơ năng chung của não bộ. Những đột quỵ "thì thầm" có thể xảy ra trong 17% những người trên 45 tuổi, gồm những triệu chứng nhẹ, thoáng qua, mà ngay bệnh nhân không để ý đến: một nửa người yếu đi trong chốc lát, không đau đớn; tê một bên; không thấy một mắt hay 2 mắt (loss of vision, unilateral or bilateral); nửa thị trường không thấy, mất thị giác (loss of vision in half of the visual field); nghe người khác nói đột nhiên không hiểu; đột nhiên không nói được, không viết được; tuy tất cả chỉ thoáng qua (G. Howard).
Các chất truyền dẫn thần kinh (neurotransmitters) như dopamine, serotonin, phụ trách chuyền tín hiệu từ tế bào thần kinh này qua tế bào kế tiếp cũng giảm đi nhiều. Nói chung, khả năng “máy điện toán” trong đầu chúng ta suy giảm theo năm tháng, tuy có người đến gần 100 tuổi vẫn được khen là minh mẫn.
Bệnh Alzheimer là dạng phổ biến của bệnh lẫn (dementia), do suy thoái các tế bào thần kinh, định bệnh bằng cách chứng minh trong mô não có những mảng amyloid và trong tế bào thần kinh có những sợi protein "tau" rối, bện với nhau (amyloid plaques and intracellular “tau” protein tangles). Bệnh lẫn có nhiều nguyên nhân khác chứ không phải chỉ bệnh Alzheimer. Thoái hoá vùng trán và thái dương (frontotemporal degeneration) não bộ là nguyên nhân thường gặp thứ hai. Trầm cảm (depression) là một yếu tố quan trọng. Thiếu vitamin B12 (thường do không hấp thụ được từ thịt, sữa và cần phải chích) và suy cơ năng tuyến giáp (hypothyroidism) là 2 nguyên nhân gây dementia có thể chữa trị được.
Ở người trên 60 tuổi, 5-7% bị chứng dementia và, tuổi càng lớn, tỷ số (prevalence) càng cao; đến 90 tuổi hết 40% người già đã mắc bệnh lẫn.
Bây giờ, bàn về “tật nói nhiều” của người già. Một số người lớn tuổi thích nói dông dài và thường là lạc đề. Thuật ngữ dùng trong tâm lý học là OTV: “off-target verbosity”, là nhiều lời, lắm lời, nói dài dòng và lạc đề. Hoa ngữ dịch verbosity là "chuế ngôn 贅言” (lời rườm rà, thường dùng trong thư từ ).

Một tật khác, là lời nói, hay cả hành động không thích hợp cho hoàn cảnh xã hội lúc đó (social inappropriateness). Ví dụ, chê người khác "Tại sao mập quá vậy", hay được tặng quà thì nhận xét: "Đồ này xấu quá, rẻ tiền, tôi không dùng đâu!", hay ở Mỹ hỏi một người mới gặp "Làm bao nhiêu một năm?", những điều mà theo thông lệ lịch sự ở Mỹ được xem như không thích hợp, bất lịch sự. Những hành động lời nói có thể có tính khiêu khích hơn, như chửi mắng vô cớ, hay tấn công tính dục, sờ mó, cởi áo cởi quần có thể là những biểu hiện rõ ràng hơn của bệnh lẫn.
Để giải thích hiện tượng này, chúng ta trở về với cách làm việc của não bộ.
1. Trí nhớ cũng như định phương hướng lúc di chuyển (navigation) được phụ trách phần lớn do 2 bộ phận hình con cá ngựa nằm phía dưới của não bộ tên là hippocampus (= con cá ngựa). Trong bệnh lẫn, người bệnh mất trí nhớ và mất phương hướng (đi lạc) một phần do hippocampus bị tổn thương, vì nhiều lý do khác nhau.
2. Trong phần trước của não bộ (phía sau trán, frontal lobe), có những vùng phụ trách điều hành gọi là executive centers giúp cho chúng ta hoàn thành, thực hiện một việc nào đó; ví dụ phát biểu một ý kiến, nói chuyện, quan sát một vật, hồi tưởng chi tiết một kỷ niệm, sắp xếp một công việc, thực hành một điều gì mình học được trước đó. Hai cơ năng của trung tâm điều hành: tổ chức và điều tiết (organization and regulation). Ví dụ một miếng bánh kem ngon và béo rất quyến rũ người ăn và anh ta muốn ăn liền. Trong trung tâm điều hành sẽ liên lạc với kho trí nhớ, cho biết là miếng bánh chứa rất nhiều calori và mỡ, đó là giai đoạn tổ chức (organization). Sau đó, người đó sẽ quyết định mình không ăn được vì mình đang ăn kiêng, đó là phần điều hoà, tiết chế (regulation, inhibition).
Khả năng ức chế (hay tự kiềm hãm; inhibition, inhibitory control, self-control) và trí nhớ là hai trong những yếu tố quan trọng của trung tâm điều hành của não bộ.
Những tổn thương trong não bộ ở người già mà chúng ta mô tả ở trên có thể ảnh hưởng đến trí nhớ (memory) (ví dụ quên không nhận ra người thân, hay tưởng người điều dưỡng là vợ của mình, không nhớ đến tình cảm người ta dành cho mình), cũng như khả năng ức chế hành vi của người đó (như chửi mắng, chê bai một món quà trước mặt người cho), tạo nên hành vi không thích hợp (inappropriate behavior), hay nói dông dài, lạc đề, không thích hợp với người nghe (verbosity).
Nói tóm lại, tuổi già có thể mang đến những thay đổi trong não bộ, nhất là về khả năng trí nhớ, khả năng tự kiềm chế, giải thích bệnh “đa ngôn, lạc đề" (OTV) và những hành vi không thích hợp của một số người già.
Có khảo cứu cho thấy, chứng "chuế ngôn" tăng khi khả năng tri thức (hiểu biết, cognition) của bệnh nhân bị giảm sút, xuống giốc. Tuy nhiên, cùng một mức khả năng tri thức bị suy giảm, người nói nhiều, "chuế ngôn" (OTV) thích ứng tốt hơn, chứng nói nhiều của họ là một cố gắng thoát ra khỏi sự cô đơn, cố gắng tiếp cận với xã hội muốn mình không bị cô lập.

Có thể để ý những khía cạnh sau:
1. Cơ quan Y tế Quốc tế WHO định nghĩa sức khoẻ (health) về 3 mặt thể chất, tâm thần (mental) và xã hội.
Người lãng tai có thể cần được giúp để họ có thể trao đổi dễ dàng hơn (ví dụ máy nghe, nói chuyện gần hơn, chậm hơn; một số người già ráy tai quá nhiều làm nghẽn lỗ tai (impacted cerumen).
Một người già không có triệu chứng gì về thể chất có thể cần thêm những hỗ trợ về tinh thần hay xã hội. Cần có người thông cảm và đến gần, hỏi han xem các cụ cần gì, muốn gì. Những người khó chịu ("grumpy old men") thường dễ bị xa lánh, ngay cả trong gia đình, làm họ lại “chướng”, khó chịu hơn vì bực mình.
Một số hành vi "chướng", hay tấn công người khác (aggression) có thể có căn bản thực tế: người gây gổ, chửi mắng có thể chính họ bị ăn hiếp bởi nhân viên săn sóc cho họ mà gia đình không hay biết. Thường người bệnh trở nên khó chịu, chướng đột ngột là do sức khoẻ họ có vấn đề như đau đớn, bệnh, ví dụ họ từ chối ăn vì lở miệng, đau răng, mất ngủ, không ngủ vì đi tiểu ban đêm, v.v... Người hay thọc tay vào quần có thể vì họ bị ngứa ở chỗ kín, hay bị trĩ, bón mà gia đình không hay biết.
2. Dù ở nơi hẻo lánh, không có bác sĩ, thiết tưởng cũng có thể nhờ y tá địa phương khám bệnh, đo áp huyết,xem có đau đớn ở đau không, răng có bị hư, nhiễm trùng không, xem xét tình trạng dinh dưỡng, chế độ ăn uống có quân bình không (như không ăn thịt, uống sữa có thể thiếu vitamin B 12, xem có cần uống thêm vitamin hay không. Một số biện pháp giản dị như massage, thoa bóp, đắp khăn nóng lên chỗ đau, có thể giúp cho người già thư giản.
3. Thuốc men có thể tác dụng trên tinh thần người bệnh: thuốc an thần, thuốc ho có các chất codeine, kháng histamine có thể làm họ bớt tỉnh táo, nhiều khi nguy hiểm.
4. Tránh những hoàn cảnh mà người bệnh không thích, làm họ bực dọc. Nhất là trong hoàn cảnh xã hội thay đổi nhanh hiện nay, thái độ người trẻ có thể vô tình hay cố ý khiêu khích những người già quen với tôn ti trật tự hay các giá trị củ, xưa hơn; ngôn ngữ bất đồng, người trẻ không biết thưa gởi theo kiểu xưa.
5. Người bệnh nói nhiều, khó chịu, chướng vì họ buồn chán, thấy cô đơn nên muốn lôi kéo sự chú ý của người khác. Chúng ta cần thử tự đặt mình vào trong vị trí của họ (vd ở nhà một mình, không đi ra ngoài được, bất cứ việc gì cũng cần xin phép...)
6. Những biện pháp sau có thể có ích:
- Có một thời biểu đều đặn trong ngày (ăn, đi bộ, ngủ...) (routine).
- Có người thân hiện diện chung quanh.
- Tạo cơ hội cho họ có một việc làm gì đó để tiêu khiển (làm vườn, dắt đi chơi, nghe nhạc, nghe radio/đài).
- Tránh chỗ chật chội, dọn dẹp bớt những món lỉnh kỉnh không cần thiết.
- Giữ lại những món đồ dùng, sách vở, vật kỷ niệm mà người già gắn bó, trân quý, mà người trẻ có thể muốn vứt đi cho gọn.
- Dành cho các cụ một nơi êm ấm, yên tĩnh để ngủ. Chỗ ngủ ồn quá hay sáng quá có thể làm các cụ ngủ không được. Melatonin là một chất hormone do tuyến tùng (pineal gland) trong não bộ tiết ra để cơ thể kiểm soát chu kỳ thức ban ngày trời sáng và ngủ ban đêm lúc trời tối (circadian rhythm). Đến chiều tối thì lượng melatonin trong máu tăng, lên cao nhất trong đêm và giảm xuống lúc sáng sớm. Người già có thể sản xuất rất ít melatonin. Có thể nghĩ đến dùng melatonin trước khi đi ngủ để điều hoà giấc ngủ. Thuốc bán tự do trên thị trường các "phụ trợ dinh dưỡng"(nutritional supplements) ở Mỹ. Viên melatonin 3mg, 5mg. Có viên kẹo mềm 1,5mg, nếu nuốt thuốc viên không được. Phản ứng phụ đáng kể nhất là làm buồn ngủ và mơ những giấc mơ rất sống động (vivid dreams).

7. Nói chung, người nhà hay người săn sóc cần thông cảm với nhu cầu người bệnh, cần kiên nhẫn xem các cụ muốn gì, cần gì và nhất là tránh khuynh hướng trừng phạt vì xem các cụ đã phạm lỗi và cần cho các cụ "một bài học".
8. Về phương diện phòng ngừa bệnh lẫn, hiện nay người ta cho vấn đề kiểm soát áp huyết cao (hypertension) có kết quả rõ ràng nhất, sau đó là kiểm soát các chất mỡ cholesterol trong máu, kiểm soát bệnh tiểu đường (diabetes), giảm lượng calori tiêu thụ, ăn uống lành mạnh, ít thịt, ít mỡ động vật (mỡ "no", saturated fats), nhiều cá, dầu thực vật (vegetable oil), nhiều trái cây, rau cải, chút ít rượu và vận động cơ thể. Ngoài ra những người tiếp tục hoạt động trí óc, giao tiếp xã hội (bạn bè, nghề nghiệp) giúp bệnh lẫn xuất hiện chậm hơn.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Tuesday, February 14, 2017

Trường hợp đau lưỡi

Có nhiều bệnh có thể gây đau lưỡi, những nguyên nhân dễ phát hiện nhất như loét lưỡi (ulcer), bệnh nấm ở lưỡi (fungal infection), ung thư ở lưỡi có lẽ đã được bác sĩ chuyên khoa nghĩ tới. Bác sĩ khám bệnh một bệnh nhân đau lưỡi và miệng sẽ cần biết bệnh nhân bao nhiêu tuổi, nam hay nữ (trường hợp đây là nam); có hút thuốc lá hay không, có nhai thuốc lá hay ăn trầu không (ở Việt Nam); trước đây có bệnh herpes lở miệng không; có bị "dời ăn" (zona, shingles, herpes zoster) trên mặt hay không; có những thực hành khẩu dâm (oral sex) hay không (ví dụ gần đây một số người trung niên mắc bệnh ung thư đầu và mặt nhiều hơn trước do nhiễm virus HPV); bệnh nhân có thuộc về thành phần nghề nghiệp dùng lưỡi nhiều như nói nhiều hay không (tuy nhiên lưỡi là một cơ mạnh nhất của cơ thể nếu tính theo tỷ lệ cân nặng của bộ phận này); có bị ợ chua hay không; và có khám nha sĩ chưa (đau khớp hàm mặt [TMJ pain], xem có răng đau hay không; đau lưỡi ở phần nào, phía sau mà ở giữa hay về một bên (unilateral), hay hai bên (bilateral); đau lúc nói chuyện, từ lúc bắt đầu hay nói bao nhiêu lâu thì đau; đau thế nào, rát, phỏng hay buốt; có chạy lan ra vùng nào không (irradiation of pain), ví dụ trên mặt, má, bên phải hay trái; đau cường độ thế nào (intensity), làm gì thì bớt đau (ví dụ xịt thuốc tê bán phổ biến có benzocaine [vd Chloraseptic Sore Throat Relief Spray] có bớt đau không, bác sĩ có cho dùng thuốc xylocain súc miệng cho đỡ đau không..).Trước khi đi bác sĩ gia đình khám, nên chuẩn bị những câu trả lời như trên.
Lưỡi bình thường nhìn về phía sau có những vallate papillae (papilles caliciformes) thành hình chữ V mở ra trước, sau đó có những a-mi-đan lưỡi (lingual tonsils/amygdales linguales) là những tuyến lymphatique của lưỡi, nổi cộm lên, có thể đấy là những "mụt" bệnh nhân mô tả chăng? A-mi-đan lưỡi có thể bị lở loét và đây có thể là dấu hiệu của một loại ung thư (Squamous Cell Carcinoma of the Tonsil). Loại ung thư họng này được gặp nhiều hơn ở người hút thuốc lá và nghiện rượu, tỷ số sao nhất vùng phía Tây của Châu Âu. (Tuy nhiên ở đây chúng ta yên tâm vì bác sĩ tai mũi họng đã khám mà không tìm thấy gì bất thường).
Sau đây tôi xin bàn về Hội chứng Rát Miệng (Burning Mouth Syndrome, BMS), hay còn gọi là Bệnh “đau lưỡi” (glossodynia, glossa=lưỡi, odyna=đau). Nếu bác sĩ đã thăm dò tất cả các câu hỏi trên mà vẫn không có yếu tố nào giúp cho định bệnh một nguyên nhân chính xác, đây là định bệnh mà bác sĩ sẽ nghĩ đến.
Đại đa số bệnh nhân là đàn bà ( tỷ lệ 7/1 cho đến 31/1), đa số ở người phụ nữ đã tắt kinh, và có những triệu chứng khác của thời sau khi nghỉ kinh (postmenopausal). Phụ nữ gốc Á châu cũng như người Da Đỏ dễ mắc chứng này hơn.
Triệu chứng BMS:
1. Vị trí: đau ở 2 bên lưỡi, ít gặp hơn: ở vòm miệng, môi hoặc nướu răng hàm dưới
2. Đau mạn tính (chronic pain), hiếm khi tự nhiên khỏi.
3. Đau theo lối rát, như bị phỏng (burning pain), hay tê tê, thấy rần như kiến bò (tingling). Nhiều khi chỉ mơ hồ là khó chịu, ê đau, không đau rõ rệt.
4. Triệu chứng đi kèm: cảm thấy khô miệng, khẩu vị, vị giác có thể thay đổi (dysgeusia; vd đắng lưỡi, vị kim loại (metallic taste, “tanh”); nhạy cảm quá đáng với những vị khác nhau); đau lưng mạn tính; ruột quá nhạy cảm, dễ đau bụng đi cầu xong lại khỏi (irritable bowel syndrome, IBS); bụng sình hơi; cảm giác nuốt nghẹn (globus pharyngeus); đau bụng lúc có kinh (dysmenorrhea); cảm giác lo lắng (anxiety); ăn không ngon; trầm cảm (depression), rối loạn cá tánh (personality disorders).
5. Thời điểm:

Ba loại đau:
a. Loại 1: sáng dậy không đau, đau xuất hiện, xong từ từ tăng dần, đau nhất buổi tối lúc giờ đi ngủ nên rất khó ngủ, làm mệt mỏi, lo lắng.
b. Loại 2: đau lúc mới thức dậy và đau suốt ngày (thường gặp nhất).
c. Không theo thứ tự nhất định.

6. Những tình huống làm bệnh nặng hơn:
a. Thần kinh căng thẳng, mệt, nói nhiều, thức ăn cay, nhiều gia vị.
b. Ít đau hơn lúc: ăn uống. Nên để ý, trong bệnh đau miệng do lỡ miệng, đau răng, đau hàm, người bệnh càng đau hơn lúc ăn uống; nếu đau rát miệng mà ăn uống lại bớt đau, thì đây là một dấu chỉ đặc biệt của “hội chứng rát miệng”.

Có thể bớt đau nhờ uống thuốc hoặc thoa thuốc tê vào chỗ đau.
7. Cường độ đau: cỡ trên trung bình (5-8/10), tương tự như đau răng.
8. Có thể làm mất ngủ, nhưng có thể không ảnh hưởng giấc ngủ.
9. Như trường hợp vị thính giả hỏi, đa số bệnh nhân từng được bác sĩ khám và chữa nhưng không có kế quả rõ rệt.

Nguyên nhân:
Theo định nghĩa của BMS, chúng ta chưa hiểu rõ nguyên nhân chứng này, và chỉ định bệnh BMS sau khi loại bỏ những nguyên nhân có cơ sở thể chất cụ thể hơn (như loét do ung thư, đau răng, đau khớp thái dương-hàm dưới (temporomandibular joint, TMJ), viêm dây thần kinh do thiếu vitamin B, folic acid, Fe, zinc; do siêu vi [herpesvirus]); suy cơ năng tuyến giáp (hypothyroidism); bệnh tiểu đường (diabetes type 2); dị ứng với thuốc, thức ăn, kim loại trong răng; bệnh do răng giả gây khó chịu (poorly constructed denture).
Những giả thuyết giải thích BMS:
- Những khảo cứu gần đây cho rằng BMS do rối loạn cơ năng các dây thần kinh sọ phụ trách về vị giác (dysfunction of cranial nerves associated with taste sensation, cranial nerves V [trigeminal neuralgia], VII, IX [glossopharyngeal nerve).
- Người mãn kinh thiếu hormone estrogen và progesterone.
- Hiện tượng tự miễn nhiễm, do cơ thể sinh ra những kháng thể chống lại chính mình (những kháng thể chống nhân (ANA) hay yếu tố phong thấp (RF) có thể hiện diện trong máu trên 50% bệnh nhân, bệnh khô miệng do nước miếng bất bình thường).
- Bệnh trầm cảm, bệnh lo lắng có thể kèm theo. Bệnh BMS có thể là một biểu hiện của bệnh thần kinh tâm thể (psychosomatic manifestation, bệnh tâm lý biểu hiện bằng triệu chứng vật thể), chứng sợ ung thư, sợ bệnh phong tình, chứng "bệnh tưởng" (hypochondriasis).
- Một số bệnh nhân có thể có thói quen lấy lưỡi chạm vào răng, hay đẩy lên vòm miệng làm gây ra những chấn thương li ti cho lưỡi.
- Bệnh Parkinson có thể làm dây thần kinh nhạy với sự đau đớn hơn.
- Liên hệ tới một giai đoạn khó khăn, bị stress trong đời, thường là 3-12 năm sau khi tắt kinh.

Chữa trị:
1. Loại bỏ các khả năng bệnh đã kể ở trên gây ra triệu chứng khô, rát, đau lưỡi miệng.
2. Nếu không có bệnh đi đôi: bác sĩ cần giải thích cho bệnh nhân yên tâm; giảm lo lắng bệnh nhân, nhất là lo ung thư (cancerophobia), lo bệnh tính dục (sexually transmitted diseases);
3. Nếu cần thuốc an thần (benzodiazepine, vd clonazepam [Klonopin], chlordiazepoxide [Librium]), thuốc chống trầm cảm ba vòng (tricyclic antidepressant), thuốc chữa trị co giật (anticonvulsivant, vd gabapentin [Neurontin], dùng với mục đích giảm cơn đau do dây thần kinh quá nhạy cảm gây ra.)
4. Capsaicin là một chất lấy từ ớt, có tác dụng làm giảm đau. Có những nghiên cứu cho thấy chất này có thể có ích trong chừng 1/3 các trường hợp. Tuy nhiên ở Mỹ không có thuốc chứa capsaicin để thoa trong miệng.
Tránh thuốc súc miệng có chứa alcohol, kem đánh răng có chứa sodium lauryl sulfate, tránh uống rượu, nước pH thấp (acid) như cà phê, nước cam, chanh.
Uống những ngụm nước thường xuyên cho miệng khỏi khô, mút nước đá, nhai kẹo cao su không có đường.
5. Có thể cần tâm lý trị liệu (psychotherapy), hành vi trị liệu pháp (biobehavioral techniques).
6. Nếu một nguyên nhân vật thể giải thích được chứng đau miệng (ví dụ đi khám răng và thấy răng gần đó hay khớp TMJ gần đó có thể giải thích được cơn đau ở lưỡi) thì những chứng trầm cảm lo lắng có thể được giải toả sau khi giải quyết được bệnh đau miệng/lưỡi.
Trong 2/3 trường hợp, bệnh BMS tự nhiên từ từ thuyên giảm, các cơn đau thưa thớt đi và bệnh nhân cuối cùng hết đau.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền


Viêm thực quản, ruột khó chịu (IBS) và tiền liệt phì đại

I. Bệnh trào ngược từ bao tử lên thực quản (gastroesophageal reflux disease, GERD) là do chất dịch tiết trong bao tử, có tánh acid, đi ngược lên trên thực quản, gây ra triệu chứng như rát, đau, buốt trong lồng ngực (heartburn), ợ chua do thức ăn chạy ngược đến miệng (regurgitation). Do acid rất mạnh tấn công lên trên niêm mạc lót trong thực quản, thực quản có thể bị viêm mãn tính (reflux esophagitis), làm thẹo, làm thay đổi các tế bào thực quản (dị sản, metaplasia) và có thể về lâu dài gây ra ung thư (esophageal adenocarcinoma). Acid đi ngược đến thanh quản, khí quản, cuống phổi, cũng có thể gây ra những triệu chứng như ho mãn tính, khan tiếng, viêm thanh quản, đau họng mãn tính (chronic laryngitis), suyễn; những triệu chứng này có thể làm bác sĩ định bệnh sai lạc và chữa trị không hiệu quả. Tuy nhiên, bệnh trào dịch không tỷ lệ thuận với triệu chứng, có nghĩa là có thể trào dịch nhẹ mà triệu chứng nặng, và ngược lại.
Bệnh GERD tùy theo nhiều yếu tố như tình trạng co thắt của cơ tròn giữa thực quản và bao tử (gastroesophageal sphincter), khả năng thực quản dùng nhu động để đẩy dịch bao tử xuống, khả năng tiết nước miếng để trung hoà acid trong thực quản, khả năng bao tử sản xuất ra acid, khả năng đẩy thức ăn qua ruột nhanh hay chậm, cho nên chữa thuốc có thể thành công nhiều hoặc ít, tái lại hay không.
Thường bs khuyên thay đổi nếp sống như:

1. Tránh đồ ăn chua (chanh, thơm/dứa), ăn lượng thức ăn ít hơn (để bao tử đừng quá căng), những thức gây trào dịch: mỡ, chocolate, peppermint, rượu, hút thuốc lá.
2. Không ăn uống 3 giờ trước khi đi ngủ.
3. Kê đầu giường lên cao 15 cm để thức ăn trong bao tử khó đi ngược lại.
4. Cố gắng sụt cân nếu quá mập.
5. Uống thuốc chống axit như Maalox, Calcium carbonate (Tums).

Esomeprazole (Nexium), thuốc mà vị thính giả uống, phần chính là có tác dụng giảm chất axit trong bao tử bằng cách ức chế các tế bào sản xuất axít HCl (proton pump inhibitor), do đó làm giảm các triệu chứng khó chịu do axit gây ra.
Chỉ định chính:

- Ngắn hạn (4-8 tuần)
1. Để chữa bệnh tràn dịch bao tử-thực quản.
2. Viêm loét thực quản.
3. Và chữa bệnh loét bao tử hay loét đầu ruột non do H. pylori, kết hợp với 2 - 3 thuốc khác như amoxicillin, clarithromycin, Pepto Bismol.
- Dài hạn: Trong những trường hợp đặc biệt, hiếm do một điều kiện được định bệnh rõ rệt: như hội chứng Zollinger-Ellison trong đó bướu gastrinoma trong tuỳ tạng (pancreas) hay trong bao tử, ruột sản xuất chất gastrin kích thích các tế bào sản xuất quá nhiều acid trong bao tử, làm loét bao tử, thực quản, ruột non.

II. Hội chứng ruột dễ bị khó chịu (Irritable Bowel Syndrome, IBS; Irritable=làm cho khó chịu, bực dọc) là một bệnh gồm những triệu chứng chính sau đây:
- Đau bụng, đau quặn (cramps), tức hơi.

- Sình hơi.
- Đi tiêu không đều, lúc bón , lúc tiêu chảy, cảm giác cần phải đi cầu gấp rút, đi nhiều lần trong ngày, đi cầu xong mà vẫn có cảm giác chưa hết.
- Ăn không ngon.
- Đi cầu phân có nhớt (mucus).

Thường được chẩn đoán sau khi đã loại hết các nguyên nhân có thể gây ra những triệu chứng đó (diagnosis by exclusion). Ví dụ người lớn tuổi, bác sĩ cần loại bỏ khả năng họ có bị ung thư ruột già hay không, người trẻ hơn, cần xem họ có mắc chứng viêm ruột mãn tính (IBD) hay không (như bệnh Crohn làm loét đoạn cuối ruột non và đầu ruột già,nhưng có thể liên hệ bất cứ nơi nào của ống tiêu hoá; bệnh viêm loét ruột già gây đi cầu ra nhớt máu và chỉ làm tổn thương ruột già). Do đó có thể bác sĩ tìm bệnh nhân có nhiễm vi trùng Helicobacter pylori làm viêm dạ dày, làm đau bụng, khó tiêu. Có thể dùng đến nội soi ruột già (colonoscopy) hay dạ dày (gastroscopy) cũng trong mục đích trên. Bác sĩ cũng có thể xem các triệu chứng như đau bụng có phải do các bộ phận khác như nhiễm trùng ruột, nhiễm trùng các bộ phận lân cận gây ra hay không, như đau ở gan hay túi mật, ống dẫn mật, tuỳ tạng. Do đó có thể thử máu tìm cơ năng gan (liver function) có gì rối loạn không, làm siêu âm soi các bộ phận trong bụng.
Khi đã loại khả năng các bệnh kia, nếu không có gì đáng kể để giải thích những cơn đau bụng, tức bụng, rối loạn đại tiện, người ta mới dùng chẩn đoán: “hội chứng ruột dễ khó chịu, hay bị kích thích”, còn gọi là "ruột già hay co thắt", theo tiếng Pháp: "hội chứng ruột già khó chịu" (syndrome du colon irritable), có nghĩa thủ phạm chính bị nghi ngờ là ruột già.
Chừng 58 triệu người Mỹ được định bệnh chứng này, có nghĩa là nói chung chừng 100 người thì 7-10 người mắc bệnh. Tỷ lệ này còn cao hơn nữa ở một số nước tây phương, nhất là ở phụ nữ. Tuy nhiên, có người bệnh chỉ một vài tuần, có người tái đi tái lại suốt đời. Đại đa số bị triệu chứng nhẹ thôi, quá nữa không thấy cần phải đi bác sĩ để khám bệnh. Một khi đi bác sĩ khám, thì như chúng ta giải thích ở trên, bác sĩ có nhiệm vụ phải "làm cho ra lẽ" trước khi quyết định là bệnh nhân chỉ có khúc ruột già dễ bực dọc, khó chịu (irritable colon), không cần chữa trị gì nhiều. Và chính những thử nghiệm hàng loạt này, thế nào cũng sản xuất ra những kết quả đi ra ngoài các mức "chuẩn", nhưng thật ra cần được bác sĩ giải thích cặn kẽ cho bệnh nhân. Người bị IBS bản chất là người hay lo, nhạy cảm với sự đau đớn, cho nên những kết quả được đánh dấu là "không bình thường” (“H”=high, cao) rất dễ làm họ lo lắng thêm.
III. Trong các kết quả thử nghiệm của vị thính giả:
- MCV (Mean Corpuscular Volume) có nghĩa là thể tích trung bình của hồng cầu (vd 99.2 [normal 75-96]. Thiếu vitamin B12 là một trong những nguyên nhân.

- Triglycerides là chất mỡ được chuyên chở trong máu; sau một bữa ăn chất này lên cao. Ví dụ: 3.8 millimole [normal <2.3]. GGT (gamma-glutamyl transferase) là một men (enzyme) của gan; 72, trên mức bình thường (<50) là hơi cao. GGT tăng cao trong bệnh gan (viêm gan, thiếu máu vào gan, xơ gan), bệnh suy tim, bệnh tùy tạng (pancreas), bệnh phổi, bệnh nhân từng dùng thuốc ảnh hưởng tới gan.
- Hai men kia là SGOT (AST), SGPT (ALT) cũng phản ảnh cơ năng gan.
- Gan nhiễm mỡ (“fatty liver”, fatty infiltration of the liver) có nghĩa là tế bào gan chứa nhiều mỡ hơn bình thường, có thể kèm theo bệnh nghiện rượu hoặc không phải do rượu, nhưng do bệnh mập, ít vận động, ăn uống quá nhiều đường mỡ. Hết 25-50% người lớn làm siêu âm gan sẽ được cho là có gan nhiễm mỡ ở mức độ nào đó. Tuy nhiên nếu nhẹ thì không có gì nguy hiểm. Áp dụng những biện pháp cần thiết như không uống rượu (kể cả rượu thuốc, bia), ăn ít đường, mỡ, dùng dầu thực vật như dầu olive, ăn ít thịt đỏ, ăn cá, trứng. Ăn theo giờ đều đặn; đừng ăn nhiều rồi kiêng nhảy bữa ăn sau; tránh ăn trước giờ đi ngủ. Nếu bị IBS, giữ một trang nhật ký, xem món ăn nào không chịu, gây triệu chứng thì tránh. Có thể lên mạng tìm hiểu các thức ăn ở VN thích hợp.
- Tập thể dục, đi bộ đều đặn trong mức sức khoẻ cho phép chừng 20-30 phút mỗi ngày. Những biện pháp giản dị như vậy không những tốt cho sức khỏe gan mà còn tốt cho sức khỏe tổng quát. Nếu cần biết chi tiết hơn về chuyện men gan đi đôi với gan nhiễm mỡ, nên khám bác sĩ nội khoa nay bác sĩ chuyên về gan và đường tiêu hoá.
- Phì đại tuyến tiền liệt (prostate enlargement, benign prostate hyperplasia): thường trên siêu âm thể tích trên 30ml thì cho là quá lớn; cần được bác sĩ khám, xét về các triệu chứng có kèm theo hay không (tiểu khó, vòi nước tiểu chậm, nhiễm trùng hay không vv).
- Về các polyp nhỏ ở trực tràng, cần bác sĩ ruột theo dõi, từng trường hợp. Bệnh polyp thường gặp: 30-40% người lớn có polyp trong ruột già. Thường thì bác sĩ cắt bỏ những polyp lớn hơn 5mm (1/2cm) và sau đó làm sinh thiết để phân loại. Loại polyp do tăng sản (hyperplastic polyp) thường nằm cuối ruột già, không biến thành ung thư. Loại polyp loại u tuyến (adenomatous polyp, adenoma) có khả năng biến thành ung thư, nhưng trung bình mất chừng 10 năm để một polyp nhỏ biến thành ung thư.
- Rất ít polyp hay ung thư ruột già được tìm thấy trên người dưới 40 tuổi, trừ trường hợp ảnh hưởng di truyền. 90% xuất hiện sau tuổi 50, do đó ở Mỹ người ta sàng lọc (screen) bệnh nhân từ 50 tuổi để truy tầm ung thư ruột già, một trong những biện pháp là soi ruột già (colonoscopy). Tuỳ theo loại polyp, hoàn cảnh bệnh nhân, bác sĩ có thể nội soi từ 2 năm đến 10 năm một lần. Ví dụ, 3 năm sau khi cắt adenoma, soi lại khả năng adenoma xuất hiện lại là 30%. Cần hỏi bác sĩ rõ ràng về vấn đề theo dõi này. Hút thuốc lá, ăn thịt đỏ, thịt nướng, thịt chế biến (xúc xích, hamburger, thịt hộp), uống nhiều alcohol (rượu, bia), ít ăn trái cây, rau cải, quá mập có thể tăng cơ nguy u bướu ruột già.
- Các thuốc men của vị thính giả bao gồm nhiều mặt của hoàn cảnh bệnh lý. Có thuốc chữa về vật thể; vd esomeprazole (Nexium) giảm acid trong dạ dày. Có thuốc chữa về tâm lý bệnh nhân (ví dụ Devodil chữa trầm cảm cũng như giúp tiêu hoá), cho nên bệnh nhân cần theo dõi với bác sĩ của mình là tốt hơn hết.


Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bệnh gout

Ai có bị bệnh gout (người Việt thường đọc là gút) mới thấu hiểu được các triệu chứng đau đớn của căn bệnh này: cơn đau khủng khiếp bất ngờ, gốc ngón cái sưng tấy và đỏ, các khớp khác cũng có thể bị.
Gout - một hình thức phức tạp của bệnh viêm khớp - có thể ảnh hưởng đến bất cứ ai. Đàn ông dễ bị bệnh gút hơn, đàn bà thì dễ bị bệnh gút sau khi mãn kinh.
Bệnh gút thường tấn công đột ngột, đánh thức bệnh nhân vào giữa đêm với cảm giác rằng ngón chân cái của bạn đang bị cháy. Các khớp bị nóng, sưng và đau thật đau đến nỗi bạn không chịu được trọng lượng của tấm ga trải giường phủ lên chân bạn.
Sau khi cơn đau nhất lắng xuống, các khớp vẫn bị khó chịu dài dài từ vài ngày đến vài tuần. Những cơn đau sau đó có thể sẽ kéo dài hơn và ảnh hưởng đến nhiều khớp hơn.
Mời quý vị đọc bài viết sau đây của BS Đỗ Hồng Ngọc về một cơn đau gút.

Chân mạng đế vương
BS Đỗ Hồng Ngọc
Ai mắc bệnh Gút thì hình như ít nhiều đều có “chân mạng đế vương” cả! Bằng cớ là bệnh thường luôn bắt đầu từ dướichân, ở ngón chân cái trước rồi mới lan đi các nơi, và mặt khác, từ xa xưa, người ta cũng đã gọi Gút là bệnh của vua (maladie des rois). Lịch sử y học cũng đã ghi nhận Alexandre le Grand, Charlemagne, Louis XIV… đều bị bệnh này.
Vua chúa hay đi săn bắn, ăn thịt rừng, uống nhiều rượu nên dễ bị Gút. Về sau, những người giàu có cũng hay mắc phải bệnh này do những bữa ăn “đạm bạc” đầy rượu thịt của họ (theo cách giải thích bây giờ thì đó là những bữa ăn nhiềuđạmvà tốnbạc!) nên Gút cũng là bệnh của nhà giàu (maladie des riches). Đau khủng khiếp. À không, nhức nữa, nhức khủng khiếp. À mà không đúng, buốt nữa, buốt khủng khiếp. Đau. Nhức. Buốt. Nhích qua nhích lại nhích tới nhích lui gì cũng đau cả. Chân sưng một cục, nóng đỏ. Mất ngủ. Mất ăn. Vua cũng phải kêu Trời!

Tôi vừa bị một vố. Đau sưng ngón chân cái của bàn chân phải. Đúng truyền thống: “chân” của “mạng đế vương” rồi còn gì! Nhưng oan quá, lâu nay ăn uống cẩn thận mà, có săn bắn có nội tạng động vật gì đâu… Từ lâu đã bỏ thịt, chỉ còn rau, cá, củ quả! Chắc tại già. Già, thận yếu, thải không kịp độc chất chăng?
Độc chất ở đây là acid uric, sinh ra từ chuyển hóa protein có chứa nhiều purin trong thức ăn. Acid uric lắng đọng tạo thành muối Urat, quyện quanh và chèn vào giữa các khớp, đại khái như cho cát vào các khớp xe rồi nổ máy, rồ ga cho nó chạy vậy!
Các thức ăn chứa nhiều purin là thịt rừng, hải sản, kèm với bia rượu, dzô dzô 100% thì dễ có “chân mạng đế vương” lắm vậy. Lúc còn trẻ, còn khỏe thì thận tốt, thải độc chất nhanh, nhưng vẫn tích tụ đó, chờ có tuổi, sinh sự. Gút có thể dẫn tới biến dạng bàn chân bàn tay với những u, những cục, những hòn, đúng là “lục cục lòn hòn”… lổn nhổn làm hạn chế cử động và đau nhức kinh niên!

Thuốc trị Gút thì đã có, nhưng nhiều thứ có hại, thứ thì gây loét bao tử (dạ dày), làm mục xương, hội chứng cổ trâu, tăng huyết áp (Cushing), thứ thì gây nhiều tác dụng phụ, tương tác thuốc tùm lum nên cần có hướng dẫn của bác sĩ.



Ngón chân cái sưng tấy và đau khủng khiếp
Nghe tôi bị Gút, các bạn đồng nghiệp, học trò… hỏi thử máu chưa, uống thuốc chưa, rồi đem cho mấy thứ! Ông bạn nhà thơ từ bên Mỹ cũng gởi mấy bài thơ bảo đọc đi cho mau khỏi bệnh. **“Tiếng còi xe lửa ôi ồn quá, anh giụivào em mái tóc thề, Huế của em đây, trong mái tóc, em thơm lừng ôi em hương quê!Em của anh à, em của anh…nắng hình như làm lá thêm xanh, nắng hình như làm môi em đỏ, nắng hình như mắt em long lanh…” (TVL)**. Có bạn còn kêu đọc thần chú, niệm Nam mô… Có bạn bên trời Tây viết “…ở thế kỷ 21 này mà không có cái gì làm cho người ta không bị “đau nhức kinh khủng” sao?Ở bên Mỹ họ có cái thuốc “painkiller” (tức “giết cái đau”, sát sanh kiểu này thì chắc không có tội!), có hữu hiệu không?” Dĩ nhiên là hữu hiệu, nhưng tạm thôi, không dứt hẳn được, lại cũng sinh lắm biến chứng, side-effects. Còn cái “painkiller” này có sát sanh không ư? Thì… có! Bởi cái “pain” này hẳn phải do nhiều yếu tố hợp thành, do duyên sanh cả đó thôi, nên chắc chắn cũng là một thứ “chúng sanh”! Tốt nhất là làm sao cho nó “vô sanh” thay vì “kill” nó!
Nghĩ lại, đúng là có chuyện “duyên sanh” thiệt. Mấy ngày trước ăn nhiều cá thu quá! Cá thu chiên, cá thu xốt cà, cá thu kho, cá thu “muối sư”… (do mấy bà chị ở quê thương tình, mang cho). Mình lại quên cá thu có rất nhiều purin! Vậy là đáng đời! Tôi nhất định không uống thuốc, “để xem con Tạo xoay vần đến đâu!”. Tôi hiểu cơ thể phải có một cơ chế “sưng nóng đỏ đau” (viêm) nào đó để chống bệnh, nếu dùng thuốc kháng viêm chẳng hóa ra triệt tiêu mất cái cơ chế tự nhiên rất quý này của cơ thể sao?

Vậy, chuyển hẳn qua ăn rau củ quả xem sao. Có hiệu nghiệm. Thế nhưng nghe có bạn chỉ ăn toàn đậu với đậu mà cũng bị Gút cấp tính. Thì ra các thứ đậu cũng có nhiều purin, đậu nành, đậu xanh, đậu phộng, đậu Hà Lan… kể cả hạt điều! Ăn vừa vừa thôi thì không sao! Các loại thịt rừng, nội tạng động vật (thận, tim, gan, pâté gan, xúc xích…) và các loại hải sản như cá thu, cá hồi, tôm hùm… đều chứa rất nhiều purin cần tránh.
Qua ngày thứ ba thì bớt đau, bớt sưng, nhưng mất cả tuần mới bình phục hẳn. Dĩ nhiên đây chỉ là một cơn Gút cấp tính, không cẩn thận thì tái phát như chơi và trở thành kinh niên!
May quá, rau, trái, sữa, yaourt, fromage, kem… trà, cà phê đều rất ít purin!
Tóm lại, nếu ai có cái “chân mạng đế vương” thì nên từ bỏ sớm.