Friday, January 6, 2017

Khi sữa không phải là thức ăn tuyệt hảo

Người Việt Nam nào mới qua định cư ở Mỹ, xứ bơ sữa, đều từng chịu hành hạ bởi các triệu chứng của sự không dung nạp chất lactose: đau bụng, tiêu chảy, ói... Lactose là một chất đường (carbohydrate) chính trong các sản phẩm từ sữa. Người bị chứng không dung nạp lactose (lactose intolerance) không thể tiêu hóa hoàn toàn chất đường lactose trong sữa. Hậu quả là họ bị tiêu chảy, có hơi trong bụng và đầy hơi sau khi ăn hoặc uống các sản phẩm có sữa. Tình trạng này còn được gọi là rối loạn hấp thu lactose, thường là vô hại, nhưng các triệu chứng có thể gây khó chịu.

Nguyên nhân có thể là do thiếu phân hóa tố lactase trong ruột non. Nhiều người chỉ có ít lactase nhưng vẫn có thể tiêu hóa các sản phẩm sữa mà không có vấn đề. Người thực sự không dung nạp lactose sẽ bị các triệu chứng sau khi ăn thực phẩm có sữa. Hầu hết những người không dung nạp lactose có thể chịu đựng tình trạng này mà không cần phải bỏ tất cả các thực phẩm từ sữa.

Triệu chứng không dung nạp lactose thường bắt đầu từ 30 phút đến hai giờ sau khi ăn hoặc uống thực phẩm có chứa lactose. Các triệu chứng thường gặp bao gồm: tiêu chảy, buồn nôn, đôi khi nôn, đau bụng, đầy hơi, có hơi trong bụng.


Nên gọi lấy hẹn nếu bạn thường xuyên có những triệu chứng không dung nạp lactose sau khi ăn thực phẩm có sữa, đặc biệt là nếu bạn đang lo lắng về việc có lấy đủ cancium vào người không.
Giải thích triệu chứng không dung nạp lactose
Chứng không dung nạp lactose xảy ra khi ruột non không sản xuất đủ loại phân hóa tố là lactase để tiêu hóa chất đường lactose.
Thông thường, lactase sẽ phân hóa lactose trong sữa thành hai loại đường đơn giản - glucose và galactose - và rồi chúng được hấp thu vào máu qua niêm mạc ruột.
Nếu bệnh nhân thiếu lactase, lactose trong sữa sẽ chạy xuống ruột già thay vì được phân hóa và hấp thụ ở ruột non. Trong ruột già, những loại vi trùng thường có ở nơi đây sẽ tương tác với lactose chưa tiêu hóa, gây ra các triệu chứng không dung nạp lactose.
3 loại không dung nạp lactose
Có ba loại không dung nạp lactose do 3 yếu tố khác nhau gây ra việc thiếu lactase.
1. Loại không dung nạp lactose nguyên thủy
Đây là loại phổ biến nhất. Những người này lúc đầu sản xuất nhiều lactase - một điều cần thiết cho trẻ nhỏ vì chúng lấy tất cả các chất dinh dưỡng từ sữa. Khi trẻ thay thế sữa bằng các loại thực phẩm khác, sự sản xuất lactase của chúng thường giảm đi nhưng vẫn đủ để tiêu hóa lượng sữa trong cách ăn uống điển hình của một người lớn. Nhưng ở người không dung nạp lactose nguyên thủy, sự sản xuất lactase giảm rất nhiều khiến sữa bị khó tiêu hóa vào tuổi trưởng thành. Việc này nguyên do từ trong gene, xảy ra rất nhiều nơi người có tổ tiên là người châu Phi, châu Á hay Tây Ban Nha. Tình trạng này cũng thướng gặp nơi những người gốc Địa Trung Hải hoặc Nam Âu.
2. Loại không dung nạp lactose thứ cấp
Loại này xảy ra khi ruột non giảm sản xuất lactase sau khi bị bệnh, bị chấn thương hoặc giải phẫu liên quan đến ruột non. Trong số các bệnh liên quan đến sự không dung nạp lactose thứ cấp là bệnh celiac, sự phát triển quá mức của vi trùng và bệnh Crohn's. Điều trị các nguyên nhân này có thể khôi phục lại mức lactase và làm bớt các triệu chứng, mặc dù có thể mất nhiều thời gian.
3. Loại không dung nạp lactose bẩm sinh
Một trẻ sơ sinh có thể sinh ra là đã không thể dung nạp lactose do thiếu hoàn toàn phân hóa tố lactase, nhưng rất hiếm. Chứng này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong dạng di truyền lặn (recessive), có nghĩa là cả người mẹ và người cha đều phải truyền cùng một biến thể gene cho đứa con thì nó mới bị chứng này. Trẻ sinh non cũng có thể không dung nạp lactose do không có đủ lactase.
Các yếu tố gây chứng không dung nạp lactose
Bao gồm:
- Lớn tuổi. Không dung nạp lactose thường xuất hiện ở người lớn. Chứng này ít thấy ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
- Giống dân. Không dung nạp lactose thường thấy ở những người gốc Châu Phi, Châu Á, Tây Ban Nha và Da Đỏ.
- Sinh non. Trẻ sinh non có thể có ít lactase vì ruột non không phát triển các tế bào sản xuất lactase cho đến ba tháng cuối của thai kỳ.
- Các bệnh ảnh hưởng đến ruột non. Các vấn đề của ruột non có thể gây chứng không dung nạp lactose bao gồm phát triển quá mức của vi trùng, bệnh celiac và bệnh Crohn's.
- Một số phương pháp điều trị ung thư. Nếu bạn đã nhận xạ trị chữa bệnh ung thư ở bụng hoặc có biến chứng đường ruột do hóa trị, bạn có nguy cơ bị chứng không dung nạp lactose.
Nên gặp bác sĩ gia đình nếu bạn có triệu chứng không dung nạp lactose.
Trong khi chờ đợi gặp bác sĩ, bạn có thể làm những việc sau đây:
- Theo dõi các phần ăn hàng ngày có chứa chất sữa, thí dụ như kem, sữa, sữa chua và phô mai, ghi nhận giờ bạn ăn những thực phẩm này và những gì bạn ăn với chúng. Ngoài ra, nên cho bác sĩ biết loại thực phẩm từ sữa nào, với số lượng bao nhiêu, dễ gây ra các triệu chứng cho bạn. Thông tin này có thể giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh.
Nếu bạn nghĩ rằng có thể bạn không thể dung nạp lactose, nên cố gắng bớt ăn các sản phẩm từ sữa một vài ngày để xem các triệu chứng có bớt đi không. Cho bác sĩ biết các triệu chứng của bạn có bớt đi vào những ngày bạn không ăn các sản phẩm từ sữa không.
Bác sĩ có thể chẩn bịnh chính xác bằng cách thực hiện một số các thử nghiệm sau:
- Thử nghiệm dung nạp lactose đo phản ứng của cơ thể với một chất lỏng có chứa lượng lactose cao. Hai giờ sau khi uống chất lỏng, bạn sẽ được thử máu để đo lượng đường. Nếu mức đường trong máu không tăng, có nghĩa là cơ thể của bạn không tiêu hóa và hấp thụ thức uống lactose này.
- Thử nghiệm đo chất hydrogen trong hơi thở. Thử nghiệm này cũng đòi hỏi bạn phải uống một chất lỏng có chứa nhiều lactose. Sau đó, bác sĩ đo lượng hydrogen trong hơi thở của bạn đều đặn. Thông thường, có rất ít hydrogen đo được. Nhưng nếu cơ thể bạn không tiêu hóa lactose, nó sẽ lên men trong ruột già và tiết ra hydrogen và những khí khác, các khí này được hấp thụ bởi ruột và cuối cùng được thoát ra theo hơi thở. Nếu lượng hydrogen bạn thở ra khi được thử nghiệm lớn hơn bình thường, điều này chứng tỏ bạn không hoàn toàn tiêu hóa và hấp thụ lactose.
- Thử nghiệm acid trong phân. Đối với trẻ sơ sinh và trẻ em không thể áp dụng các thử nghiệm khác, có thể làm thử nghiệm acid trong phân. Việc lên men lactose không tiêu hóa được tạo ra lactic acidc và các acid khác; chúng có thể được tìm thấy trong mẫu phân.
Tránh triệu chứng
Hiện tại không có cách nào để thúc đẩy cơ thể sản xuất lactase, nhưng bạn có thể tránh được những khó chịu từ chứng không dung nạp lactose bằng những cách sau
- Tránh ăn nhiều sữa và các sản phẩm từ sữa khác
- Ăn một ít các sản phẩm từ sữa trong những bữa ăn thường xuyên của bạn
- Ăn uống các món kem và sữa chứa ít lactose
- Uống sữa thường sau khi thêm một chất lỏng hoặc bột có tác dụng phân hóa lactose
Sau vài lần thử, bạn có thể đoán được phản ứng của cơ thể với các loại thực phẩm khác nhau có chứa lactose và số lượng bạn có thể ăn hoặc uống mà không khó chịu. Rất ít người bị chứng không dung nạp lactose nặng đến nỗi phải cắt bỏ tất cả các sản phẩm sữa và lo lắng về những thực phẩm không làm từ sữa hoặc thuốc có chứa lactose.
Duy trì dinh dưỡng tốt
Giảm các sản phẩm sữa không có nghĩa là bạn không thể có đủ calcium. Calcium được tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm khác, chẳng hạn như:
- Bông cải xanh broccoli
- Các sản phẩm được cho thêm calcium, chẳng hạn như bánh mì và nước trái cây
- Cá hồi đóng hộp
- Sữa thay thế, thí dụ như sữa đậu nành và sữa gạo
- Cam
- Đậu pinto
- Cải rhubarb
- Rau spinach
Ngoài ra nên ăn vào đủ vitamin D. Trứng, gan và sữa chua có chứa vitamin D, và cơ thể của bạn sẽ làm ra vitamin D khi bạn tiếp xúc với ánh mặt trời thường xuyên. Mặc dù không hạn chế thực phẩm từ sữa, nhiều người lớn vẫn không lấy đủ vitamin D. Nên uống thêm vitamin D và calcium.
Giới hạn sản phẩm sữa
Hầu hết những người bị chứng không dung nạp lactose vẫn có thể thưởng thức một số sản phẩm sữa mà không bị các triệu chứng khó chịu. Có thể tăng dần sự dung nạp các sản phẩm từ sữa bằng cách dần dần ăn thêm các sản phẩm từ sữa. Một số người thấy rằng họ có thể chịu đựng các sản phẩm từ sữa vẫn còn chất béo đầy đủ dễ dàng hơn các sản phẩm sữa không có hoặc giảm chất béo.
Cách giảm thiểu các triệu chứng không dung nạp lactose:
- Ăn từng ít một các sản phẩm từ sữa. Uống từng ngụm nhỏ sữa - ít hơn 4 ounces (118 ml) mỗi lần. Càng ít thì càng đỡ bị các vấn đề tiêu hóa.
- Chỉ uống sữa với bữa ăn. Uống sữa với các thực phẩm khác sẽ làm chậm tiến trình tiêu hóa và có thể làm giảm bớt các triệu chứng không dung nạp lactose.
- Thử nghiệm các sản phẩm từ sữa. Không phải tất cả các sản phẩm từ sữa đều có cùng một lượng lactose. Ví dụ, pho mát cứng như Swiss hay cheddar có một lượng nhỏ lactose và thường không gây triệu chứng. Bạn có thể chịu đựng được các sản phẩm sữa lên men, chẳng hạn như sữa chua, vì các vi trùng được sử dụng trong quá trình cấy tự nhiên sẽ sản xuất hân hóa tố lactase.
- Dùng sản phẩm có ít hay không có lactose. Bạn có thể tìm thấy các sản phẩm này tại hầu hết các siêu thị, trong tủ lạnh.
- Uống thêm lactase thuốc viên hay thuốc nhỏ giọt bán tự do như Dairy Ease,Lactaid có thể giúp bạn tiêu hóa các sản phẩm từ sữa. Bạn có thể uống trước bữa ăn. Hoặc thêm thuốc giọt vào hộp sữa. Nhưng không phải người không dung nạp lactose nào cũng đỡ bệnh khi dùng các sản phẩm này.
Probiotics
Probiotics là các sinh vật sống hiện diện trong ruột của bạn giúp duy trì một hệ thống tiêu hóa khỏe mạnh. Probiotics cũng được bán sẵn như một chất cấy “sống” trong một số sữa chua và dưới dạng thuốc bổ viên nang. Chúng đôi khi được sử dụng cho các bệnh tiêu hóa như tiêu chảy và hội chứng ruột kích thích. Chúng cũng có thể giúp cơ thể tiêu hóa lactose. Probiotics thường được coi là an toàn và có thể được dùng thử nếu các phương pháp khác không hiệu quả.

BS Nguyễn Thị Nhuận

CBE- I: Một cách trị bệnh mất ngủ

Mất ngủ là một "bệnh" khá thông thường và gây ra nhiều khó chịu cho bệnh nhân. Bệnh nhân có thể khó đi vào giấc ngủ, khó giữ giấc ngủ hoặc thức dậy quá sớm và không thể ngủ lại. Hành động thông thường của bệnh nhân là mua thuốc ngủ bán tự do uống hoặc hỏi bác sĩ lấy toa mua thuốc ngủ "nặng" hơn. Tuy nhiên ai từng uống thuốc ngủ đều cảm thấy giấc ngủ do thuốc đem đến không làm ta sảng khoái khi thức dậy như sau một giấc ngủ bình thường. Hiện nay cách chữa theo tâm lý dựa trên hành vi và nhận thức (cognitive behavioral therapy hay CBT- I) là một cách chữa hiệu quả chứng mất ngủ kinh niên và thường được dùng như phương pháp đầu tiên hết.

Cách chữa dựa trên hành vi và nhận thức là một chương trình được sắp đặt cẩn thận giúp bạn xác định và thay thế những suy nghĩ và hành vi gây ra hoặc làm trầm trọng thêm vấn đề mất ngủ bằng những thói quen thúc đẩy giấc ngủ sâu. Không như thuốc ngủ, CBT- I giúp bạn vượt qua những nguyên nhân căn bản của vấn đề mất ngủ.
Để tìm ra cách điều trị tốt nhất, bác sĩ chuyên khoa về giấc ngủ có thể yêu cầu bạn ghi một nhật ký giấc ngủ chi tiết cho 1- 2 tuần.

Phần nhận thức của CBT- I dạy bạn nhận ra và thay đổi những tin tưởng ảnh hưởng đến khả năng ngủ của bạn. Cách điều trị này có thể giúp bạn kiểm soát hoặc loại bỏ những suy nghĩ tiêu cực và những nỗi lo lắng khiến bạn mất ngủ.

Phần hành vi của CBT- I giúp bạn tập những thói quen đi ngủ tốt và tránh các hành vi làm bạn không ngủ được.
Tùy thuộc vào nhu cầu của bạn, bác sĩ chuyên khoa giấc ngủ có thể giới thiệu một số kỹ thuật CBT- I:
- Cách giúp kiểm soát những kích thích. Phương pháp này giúp loại bỏ các yếu tố làm tâm trí của bạn chống lại giấc ngủ. Ví dụ, bạn có thể được hướng dẫn để thiết lập giờ đi ngủ và thức dậy cố định và tránh những giấc ngủ thêm ngắn, sử dụng giường chỉ để ngủ, và rời khỏi phòng ngủ nếu bạn không thể đi vào giấc ngủ trong vòng 20 phút, chỉ trở về giường khi bạn đã buồn ngủ.

- Hạn chế giấc ngủ. Nằm trên giường khi bạn tỉnh táo có thể trở thành một thói quen dẫn đến mất ngủ. Cách điều trị này làm giảm thời gian bạn nằm trên giường khiến bạn giảm giờ ngủ một phần, làm bạn mệt mỏi hơn vào đêm kế tiếp khiến bạn dễ ngủ hơn. Một khi giấc ngủ của bạn đã khá hơn, thời gian nằm trên giường sẽ được dần tăng lên.

- Cách ngủ. Cách điều trị này giúp thay đổi những thói quen ảnh hưởng đến giấc ngủ, chẳng hạn như hút thuốc lá hay uống quá nhiều caffeine vào cuối ngày, uống quá nhiều rượu, hoặc không tập thể dục thường xuyên. Cũng có những mẹo giúp bạn ngủ tốt hơn, chẳng hạn như cách thư giãn một hoặc hai giờ trước khi đi ngủ.

- Môi trường ngủ tốt hơn. Cách chữa này đưa ra cách thức tạo ra một môi trường ngủ thoải mái, chẳng hạn như giữ phòng ngủ của bạn yên tĩnh, tối và mát mẻ, không có TV trong phòng ngủ, và giấu kín đồng hồ.
- Giúp thư giãn. Phương pháp này sẽ giúp bình an tâm trí và thân thể bằng những phương pháp như thiền định, quán chiếu hình ảnh, thư giãn bắp thịt và những cách khác.

- Tỉnh thức một cách thụ động. Cũng được gọi là định ý ngược lại, tức tránh những nỗ lực để đi vào giấc ngủ. Một cách nghịch lý, việc lo lắng rằng bạn không thể ngủ được sẽ làm cho bạn tỉnh táo. Buông bỏ lo lắng này có thể giúp bạn thư giãn và dễ đi vào giấc ngủ hơn.

- Phản hồi sinh học. Phương pháp này cho phép quan sát các dấu hiệu sinh học như nhịp tim và độ căng bắp thịt và giúp cách điều chỉnh chúng. Chuyên gia giấc ngủ có thể cho bạn mang thiết bị phản hồi sinh học về nhà để ghi những hoạt động hàng ngày. Thông tin này có thể giúp xác định các thói quen hàng ngày có ảnh hưởng đến giấc ngủ.
Phương pháp điều trị hiệu quả nhất có thể phải kết hợp nhiều phương pháp trong số này.
Thuốc ngủ có thể là một điều trị ngắn hạn có hiệu quả - cung cấp cứu trợ ngay lập tức trong thời gian căng thẳng cao hoặc đau buồn. Một số loại thuốc ngủ mới đã được chấp thuận cho sử dụng lâu hơn. Nhưng thuốc ngủ không phải là phương cách điều trị mất ngủ lâu dài tốt nhất.
Cách chữa dựa trên hành vi và nhận thức có thể là một lựa chọn điều trị tốt nếu bệnh nhân bị mất ngủ dài hạn, hoặc sợ phụ thuộc vào thuốc ngủ, hoặc khi thuốc không hiệu quả hay gây ra các tác dụng phụ khó chịu.
Không giống như thuốc uống, CBT- I điều trị nguyên nhân của chứng mất ngủ chứ không phải chỉ làm giảm triệu chứng. Nhưng việc trị liệu phải mất thời gian và nỗ lực thì mới hiệu quả. Trong một số trường hợp, việc kết hợp thuốc ngủ và CBT- I có thể là phương pháp tốt nhất.
Mất ngủ có liên quan đến một số rối loạn sức khỏe thể chất và tinh thần. Liên tục mất ngủ làm tăng nguy cơ bị các bệnh như huyết áp cao, bệnh tim, tiểu đường và đau nhức kinh niên. Một số thuốc, kể cả thuốc over- the- counter, cũng có thể góp phần vào mất ngủ.
Nếu bạn bị một bệnh hay đang uống một thứ thuốc liên kết với chứng mất ngủ, hãy nói chuyện với bác sĩ về cách tốt nhất để quản lý các vấn đề này cùng lúc với việc mất ngủ. Mất ngủ sẽ không giảm đi hay hết mà không cần điều trị.

Chỉ có một số lượng hạn chế các chuyên gia được chứng nhận về khoa Giấc Ngủ và Hành Vi, và bạn có thể không sống gần một chuyên viên. Bạn có thể phải tìm kiếm để tìm một chuyên viên được đào tạo có một lịch trình điều trị và cách điều trị phù hợp với nhu cầu của bạn. Dưới đây là một số nơi để xem xét:
- Website của American Academy of Sleep Medicine giúp tìm một trung tâm ngủ được chứng nhận, như: Trung Tâm Mayo Clinic For Sleep Medicine.

- Trang web của Hiệp Hội Khoa Học Ngủ qua Hành Vi cung cấp một thư mục để tìm kiếm một chuyên viên chữa bệnh mất ngủ qua hành vi.

Các loại điều trị và số lần cần thiết có thể khác nhau. Bệnh nhân có thể chỉ cần hai lần điều trị nhưng cũng có thể cần đến tám hoặc nhiều hơn lần điều trị, tùy thuộc vào chuyên gia giấc ngủ, chương trình và tiến triển của bệnh nhân. Khi gọi điện thoại để thiết lập một cuộc hẹn, nên hỏi về cách chữa của chuyên gia và những gì nên mong đợi. Cũng nên kiểm tra xem bảo hiểm sức khỏe của bạn có trả cho loại điều trị này không. Nếu có sẵn chuyên viên trong khu vực của bạn, nên gặp trực tiếp chuyên gia. Tuy nhiên, tư vấn điện thoại, CD, sách hoặc các trang web về kỹ thuật CBT và mất ngủ cũng có thể có lợi.

CBT- I có thể giúp bất cứ ai có vấn đề về giấc ngủ. CBT- I có thể giúp những người bị mất ngủ là bệnh chính cũng như những người có vấn đề về thể chất, chẳng hạn như đau nhức kinh niên, hoặc các vấn đề sức khỏe tâm thần như trầm cảm và lo âu. Hơn thế nữa, những hiệu quả được kéo dài. Và không có bằng chứng cho thấy CBT- I có phản ứng phụ tiêu cực.CBT- I đòi hỏi phải thực hành thường xuyên, và một số phương pháp có thể làm bạn mất ngủ đầu tiên. Nhưng cứ tiếp tục thực hành và bạn sẽ thấy kết quả lâu dài.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Autism: Bệnh tự kỷ, Chứng cô độc hay Tự bế?

Về gốc từ autism: Năm 1912, nhà tâm lý người Thụy Sĩ Paul Bleuler đặt ra từ mới autisme (autos= gốc Hy Lạp, có nghĩa tự mình, 'self"; -ismus= chỉ một tình trạng [bệnh lý]) để mô tả tình trạng tâm lý gọi là "morbid self absorption", có nghĩa chìm đắm trong thế giới, không gian riêng của mình một cách bệnh hoạn, là một triệu chứng của bệnh thần kinh phân liệt (schizophrenia).
Mãi đến thập niên 1940, bác sĩ Leo Kanner (gốc Áo) ở Đại Học Johns Hopkins, Mỹ nghiên cứu về những trẻ con có triệu chứng tâm lý chính là co rút vào trong thế giới riêng tư của mình, không cảm thông và giao thiệp được với người khác, và ông dùng từ ngữ "autism" để mô tả các em này (1943). Đồng thời, bác sĩ người Áo tên Hans Asperger cũng mô tả những người có những khiếm khuyết tương tự như các bệnh nhân của Kanner, cùng chung một nét chính là sự cô lập xã hội (social isolation), nhưng hoạt động ở gần mức bình thường hơn. mà ông gọi là autistic psychopathy (bệnh tâm thần tự kỷ). Chính bản thân Asperger cũng có những dấu hiệu của bệnh ông mô tả. Do thế chiến thứ 2, hai nhà khảo cứu không có cơ hội liên lạc với nhau. Khoảng chừng 1970, qua bản dịch tiếng Anh của khảo cứu về bệnh tự kỷ của bác sĩ người Đức Gerhard Bosch, từ Hội chứng Asperger (Asperger syndrome) mới xuất hiện lần đầu trong y văn tiếng Anh. Đến năm 1981, Lorna Wing, một bác sĩ tâm thần người Anh, lại dùng tên "Hội chứng Asperger" này và làm nó phổ biến trong y văn tiếng Anh cũng như thế giới.
Tuy nhiên, cho đến thập kỷ 1960 (thời chiến tranh Việt Nam), y giới vẫn chưa phân biệt giữa bệnh autism (là một bệnh về phát triển của trẻ nhỏ) và "bệnh điên" (thần kinh phân liệt), và cho đến thập niên 1970, vẫn chữa hai bệnh này bằng những phương tiện tương tự, ví dụ như thuốc men (như LSD), electric shock (chạy điện), và những biện pháp trừng phạt, gây đau đớn để sửa đổi hành vi (behavior).
Năm 1988, phim Rain Man (do đọc trại tên Raymond) do Dustin Hoffman đóng đưọc giải Oscar. Phim này đưa bệnh autism lên hàng đầu dư luận truyền thông báo chí, làm cho người trung bình lẫn y giới hiểu và ý thức thêm về căn bệnh lạ lùng, khó chữa trị và từ trước đến nay thường được coi như những người bệnh tâm trí hoặc quái dị (“freak"). Chỉ từ khoảng thập niên 1980, chừng trong vòng ba mươi năm nay, người ta mới chú ý nhiều đến bệnh autism như là một lĩnh vực quan trọng trong bệnh tâm lý và tâm thần của Nhi khoa. Và biện pháp trị liệu chú trọng nhất vào hai lĩnh vực ; dạy về ngôn ngữ, nói và hiểu (language therapy), và tác dụng, kiểm soát môi trường học tập của các em cho thích hợp để tác dụng lên trên hành vi (behavioral therapy) của các em, hầu giúp cho các em thích ứng được với những đòi hỏi của cuộc sống độc lập cành nhiều càng tốt.
Bệnh tự kỷ là một bệnh bao gồm những triệu chứng chính sau đây, thường biểu lộ, xuất hiện trong ba năm đầu đời và sẽ tồn tại suốt đời. Hiện nay, những mức dộ khác nhau của chứng tự kỷ được gộp vào bệnh "autism spectrum disorder", hay "rối loạn quang phổ tự kỷ", đi từ bệnh nhân có những sắc thái nhẹ, phảng phất những nét của bệnh tự kỷ,những người trước đây được xếp vào hội chứng Asperger, đến những bệnh nhân có triệu chứng điển hình hay nặng hơn.
1. Rối loạn về ngôn ngữ cũng như cách phát biểu bằng nét mặt, cử chỉ, điệu bộ.
Ví dụ:
- Trẻ biết nói chậm, hoặc không nói, hoặc trước đây biết nói từ nào đó, nói từng câu, nhưng sau đó không còn khả năng đó nữa.
- Không biết gợi chuyện, bắt đầu một cuộc đối thoại, trao đổi qua lại với người nói chuyện với mình,
- Hoặc chỉ nói để xin, đòi một cái gì, hay gọi tên một cái gì đó
- Nhịp điệu câu nói không bình thường: nói như hát, hay nói đều đều không biểu lộ cảm xúc, nói như cái máy (robot-like speech).
- Nghe từ ngữ, câu nói của người khác thì có thể lập lại nguyên văn, nhưng không hiểu, vận dụng để dùng cho hoàn cảnh mới; không hiểu những câu hỏi giản dị, hoặc những hướng dẫn giản dị (theo WebMD)

2. Rối loạn về giao tiếp xã hội, về cách tương tác với người khác, những rối loạn này ảnh hưởng đến việc học tập.
Ví dụ:
- Em bé không thích được ẳm, ôm vào lòng (cuddling).
- Thích chơi một mình, làm như muốn ở riêng trong thế giới của mình.
- Không nhìn vào mắt người khác’
- Nét mặt không biểu lộ cảm xúc.
- Có vẻ như không hiểu cảm xúc của người khác, không biết người ta vui thú, hay khó chịu, hay bực mình, buồn. Theory of mind hay "thuyết tâm tư" là khả năng hiểu rằng người khác, cũng giống như chính mình, có khả năng suy nghĩ, cảm xúc, và ước muốn của riêng họ; và cách suy nghĩ, cảm xúc của họ có thể khác suy nghĩ, cảm xúc của chính mình. Người ta cho rằng những bệnh nhân tự kỷ nặng không có "theory of mind" nên họ không đồng cảm (empathy) được với người khác. Tuy nhiên việc này rất tuỳ theo mức độ, người bệnh vẫn có khả năng tình cảm, nhưng giới hạn ở một mức độ nào đó

3. Những hoạt động hoặc động tác lập đi lập lại (repetitive activities and stereotypic movements)
Ví dụ:
- Ngồi lắc người trước sau (rocking), xoay vòng vòng (spinning), có khi có hại như đập đầu liên tục xuống sàn nhà, vào tường (head banging);
- Bệnh nhân có những tập quán (routine), lễ nghi (ritual), nếu không thay thực hiện được sẽ rất bực bội, khó chịu.

4. Khó khăn trong sự thích ứng với tình huống mới, không chịu thay đổi, dù là chi tiết nhỏ nhặt.
5. Phản ứng một cách khác thường đối với những kích thích như âm thanh, mùi vị. Không thích chỗ sáng quá, hay tiếng động lớn quá, mặc dù đối với trẻ khác tiếng động chỉ bình thường, trong lúc có vẻ chịu đau đớn rất giỏi (ví dụ té, bị chích thuốc mà không khóc).
6. Khả năng suy nghĩ bị thiếu sót nhất là về khả năng nhìn khía cạnh bao quát của một vấn đề, quá chú trọng về nghĩa đen của các từ, thiếu khả năng nhận ra ý nghĩa tượng trưng của một câu chuyện, thiếu óc tưởng tượng.
Càng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy bệnh tự kỷ (kể cả hội chứng Asperger) có những nguyên nhân do di truyền, đồng thời sự biểu hiện cũng tuỳ thuộc vào những yếu tố môi trường, đôi khi các yếu tố này gắn liền với nhau. Ví dụ, người ta thấy rằng mức testosterone mà thai nhi tiếp xúc trong bụng mẹ có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh tự kỷ trên đứa trẻ sau này. Sự việc này có thể liên quan đến các cơ chế "trên di thể" (epigenetics), một yếu tố môi trường ảnh hưởng đến các biểu hiện của di thể (gene expression). Các yếu tố trên di thể "bật nút" cho phép di thể (gen) làm việc hoặc nghỉ việc, giống như nút điện (on-off switch) kiểm soát cho đèn bật cháy hoặc đèn tắt.
Nói về chọn lựa từ ngữ tiếng Việt nên dịch như thế nào, tôi nghĩ có lẽ dịch "chứng tự kỷ" đi sát với từ quốc tế autism hay tương tự được dùng trong hầu hết y văn tây phương (Pháp, Đức, Spanish...).
Từ ngữ "tự kỷ" gồm hai từ Hán Việt, "tự" là tự mình,"kỷ" cũng có nghĩa là tự mình như trong "tự ái", "tự xưng", tự tử, tự chủ. Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh ( hoàn tất năm 1932) giải thích "tự kỷ' là tự mình. Ví dụ: tự kỷ ám thị là dùng ý chí của mình mà tự ám thị lấy mình (autosuggestion), tự kỷ thôi miên là tự thôi miên lấy mình,"tự kỷ thực hiện: làm phát đạt những tính năng của mình đã có cho đến trình độ hoàn toàn (self-expression)". Cuốn Tự điển của Lê Ngọc Trụ (trước 1975) cũng như Đại Từ Điển Tiếng Việt xuất bản ở Hà Nội cũng giải thích theo hướng này, và không nói đến thuật ngữ y khoa theo nghĩa autism.
Chữ 'tự' và 'kỷ" đều tương đương với chữ 'autos' trong gốc Hy Lạp. Tôi không biết ai là người Việt đầu tiên chọn "tự kỷ". Có lẽ các học giả Việt Nam dịch theo Đào Duy Anh thời thập niên 1930 dùng tự kỷ để dịch từ autism theo nghĩa ban đầu của Bleuler (“morbid self-absorption”) vào đầu thế kỷ 20.
Trung quốc mới bàn về bệnh autism từ năm 1982, theo sau y khoa Mỹ. Đối với nghĩa hiện đại của từ autism như chúng ta mô tả ở trên, theo Meghan Hussey, hiện nay tại Trung quốc lục địa, người ta dùng từ "cô độc chứng" (gūdúzhèng), "bệnh cô độc", không hay lắm, vì đứa trẻ autistic không phải cô độc mà hầu như lúc nào cũng có người chung quanh, và nó cũng chẳng thấy cô đơn. Cho nên nếu nói đến trẻ em bị chứng cô độc, người nghe sẽ khó mà hiểu được, tự hỏi ai cũng có lúc cô độc, tại sao lại là môt bệnh có thể nặng như thế và cần phải chữa trị.
Nói tóm lại, y văn về tự kỷ chì phát triển nhiều trong khoảng chừng 30 năm nay, lúc mà y văn Việt nam không trông cậy vào y văn Hoa ngữ hay Nhật ngữ, mà dịch trực tiếp từ Anh ngữ. Trên 10 năm nay, trong nhiều bài viết về bệnh này, tôi vẫn dùng từ "tự kỷ" và có độc giả gợi ý nên dùng từ "tự bế" thì có thể đúng hơn vì người Trung quốc gọi bệnh này như vậy (zìbìzhèng). Thì ra Nhật cũng gọi là chứng tự bế. Một học giả, tâm lý gia, linh mục Nguyễn Văn Thành, tại Thuỵ sĩ cũng dùng từ "bệnh tự bế".
Theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, “bế” là “đóng lại, lấp tất lại” ( như bế quan toả cảng, bế tắc), đặt tên tự bế cho người đọc hiểu được tình trạng khép kín của tâm tư đứa trẻ, khó mà người khác đi vào liên lạc với nó được. Tuy nhiên, không hẳn là đứa trẻ cố tình “đóng lại” không liên lạc được với người khác. Sở dĩ nó không nói được, đồng cảm được với người khác là do một bên là chúng ta chưa hiểu hết được tâm tư của nó, bên kia là nội tâm nó có thể có những hoạt động và mục đích riêng của nó (có nhiều đứa có những tài riêng, khả năng riêng). Nói cách khác, đứa trẻ không tự nó từ chối chúng ta, mà chỉ là nó có một cuộc sống của riêng nó, tự tại của nó.
Chúng ta cố gắng tiếp cận với người tự kỷ hơn là cần phải cạy cánh cửa đang đóng, và mở cửa ra để chúng ta vào. Theo ý nghĩa đó, thiển ý của tôi cho rằng từ "tự kỷ" của Việt nam đã dùng lâu năm nay có vẻ hay hơn và ít gây thành kiến hơn đối với người bệnh. Hơn nữa, chúng ta không dùng nhiều y văn của Tàu hay Nhật, cho nên gọi tên cho giống họ cũng không có ích gì trên thực tế.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Bướu mạch máu của trẻ sơ sinh (infantile hemangioma)

Bướu mạch máu (hemangioma) do những tế bào lót các mạch máu mọc quá nhiều tạo thành một cái u/bướu. Thường lúc mới sinh thì chưa thấy gì, trong mấy tuần đầu thì xuất hiện một vết đỏ hoặc tím, là chúng ta tưởng lầm là vết trầy trụa lúc sinh hoặc vết bầm. Sau đó vết bẩm sinh này lớn dần và được bác sĩ định bệnh là bướu mạch máu.Trong năm đầu bướu máu tiếp tục tăng trưởng làm cha mẹ lo lắng, nhất là nếu bướu mạch máu mọc ở mặt, nhất là gần mắt, ảnh hưởng đến thị giác, ở cổ hoặc vùng bộ phận sinh dục dễ bị lở lói, nhiễm trùng hoặc chảy máu. Tuy nhiên thường qua khỏi 6 tháng đầu tiên, chậm lắm là sau 12 tháng tuổi, bướu mạch máu ngưng tăng trưởng trong một thời gian, rồi từ từ biến mất, có lúc khoảng 3 tuổi, có lúc chậm hơn (chừng 10%) đến 8-9 tuổi mới teo lại. Đa số bướu máu biến đi lúc bệnh nhân được 10 tuổi. Bướu có thể biến mất không dấu vết, cũng có khi để lại một cái thẹo mỡ mềm. Trường hợp bàn bướu máu phát triển trên nướu răng, làm chảy máu, nhất là lúc nhai, va chạm vào bướu. Bướu mạch máu cũng làm cho răng gần đó dễ bị hư, vệ sinh kém, đau răng.
Bướu mạch máu ngoài da cần được phân biệt với một loại vết bẩm sinh khác gọi là biến dạng mạch máu (vascular malformation), nghĩa là những mạch máu biến dạng nằm trong da (chứ không phải là u bướu như bướu máu), màu đỏ sẩm, càng lớn tuổi thì càng đậm đen hơn (ví dụ như vết chàm đỏ trên mặt ông Gorbachev gọi là port wine stain; các vascular malformations này tồn tại suốt đời và tự nó không biến mất trừ ra dùng phẫu thuật hoặc laser) .
Trong những tháng đầu, theo dõi bướu mạch máu sẽ thấy to dần. Đây là một hiện tượng bình thường cho đến 6 tháng-1 năm trở đi, bướu sẽ từ từ nhỏ lại mà không cần chữa trị gì cả. Nhất là nếu giải phẫu, coi chừng chảy máu và nhất là nếu không có lý do chính đáng.
Trường hợp chảy máu, lấy băng gạt đè lên trên 10 phút để cầm máu. Nếu lở loét, có thể dùng kem, pommade trụ sinh săn sóc và băng lại.
Trường hợp bướu máu lớn quá nhanh, đè lên các bộ phận khác như mắt, tai, miệng, khí quản, người ta có thể dùng chất corticoid uống, hoặc uống propranolol (thuốc thường dùng trị bệnh áp huyết cao; cần bác sĩ có kinh nghiệm trong lãnh vực này), hoặc chích chất gây xơ vào bướu mạch máu cho nó teo lại (intralesional injection of fibrosing agents).
Propranolol Thuốc hiệu nghiệm nhất lúc dùng trước 6 tháng tuổi, lúc u mao quản đang kỳ tăng trưởng nhanh (growth phase). Propranolol làm tế bào trong lòng mạch máu tăng trưởng chậm lại và mạch máu teo lạ (ức chế yếu tố tăng trưởng nội bì mạch và yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi [vascular endothelial growth factor and basic fibroblast growth factor] làm bướu teo lại có thể quan sát được sau 24-47 tiếng. Liều thuốc uống tính theo cân nặng chia làm 2-3 lần/ngày. Tăng liều thuốc dần lên; dùng thuốc 6-12 tháng, bé càng lên cân thì phải tính lại liều theo cân nặng mỗi tháng. Trước khi ngưng thuốc cần giảm liều từ từ trong 1-2 tuần, xuống còn một nửa (các số này chỉ để thông tin, bệnh nhân cần được bác sĩ quyết định trị liệu và hướng dẫn). Không được dùng cho trẻ dị ứng với thuốc, dưới 5 tháng tuổi (tính từ ngày thai kỳ đủ 40 tuần cho trẻ sinh thiếu tháng), bệnh suyễn, tim đập quá chậm, áp huyết quá thấp hay quá cao. Cho uống thuốc sau khi bé bú hoặc sau khi ăn, để giảm thiểu cơ nguy đường máu xuống quá thấp; nếu cháu ói mửa không ăn, bú được cần ngưng thuốc.
Phản ứng phụ: khò khè (wheezing); huyết áp thấp; đường máu xuống thấp; tim đập chậm, bứt rứt, ngủ không yên giấc, tay chân lạnh, bón. Xin nhắc lại và nói rõ, bác sĩ chỉ dùng thuốc trong những trường hợp u bướu máu có thể gây biến chứng như khó thở, đè lên mắt, mọc trong ống tai làm giảm thính giác, trong miệng làm trở ngại ăn uống.
Thuốc ở Mỹ, tên thương mại Hemangeol (propranolol 2,48 mg/ml), chai 120 ml; đắt tiền, giá chính thức chừng 500 đôla Mỹ/chai.
Đại đa số các bướu máu của trẻ sơ sinh không cần chữa, như nói ở trên. Trong một số trường hợp hiếm vì lở loét không lành, chảy máu, hoặc muốn đứa trẻ bớt khổ sở lúc tới tuổi đi học mà bướu lớn làm biến dạng ngoại hình của nó bs có thể quyết định can thiệp bằng giải phẫu (giải phẫu có thể gây biến dạng [disfigurement] khó được chấp nhận), hoặc tia laser sau khi cân nhắc lợi hại của các thủ thuật này so sánh với phương pháp để tự nó teo lại tự nhiên.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền