Monday, December 18, 2017

Ung thư buồng trứng

Ung thư buồng trứng là một bệnh khá thông thường. Ai trong chúng ta cũng đã từng nghe nói tới một người bị ung thư buồng trứng. Người nổi tiếng chết vì bệnh này kể sơ có cô đào hài hước Gilda Ratner và mẹ của cô đào nổi tiếng Angelina Jolie. 

Ung thư buồng trứng trước kia thường được gọi là “kẻ giết người thầm lặng” vì do triệu chứng khá mơ hồ, khi được định bệnh, ung thư đã lan ra nhiều bộ phận khác trong cơ thể khiến việc chữa trị không có kết quả. Tuy nhiên gần đây những triệu chứng sớm của bệnh đã được để ý đến, có thể giúp chúng ta tìm bệnh sớm hơn hầu chữa trị hữu hiệu. Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ, bệnh nhân được chữa sớm có tỉ lệ sống 5 năm là 93%.

Triệu chứng
Triệu chứng bệnh ung thư buồng trứng không có gì đặc biệt và giống như triệu chứng những bệnh thông thường, gồm bệnh đường tiêu hóa, đường tiểu. Bệnh nhân ung thư buồng trứng thường được định bệnh khác trước khi được định bệnh đúng. Những bệnh họ thường được gán cho là bệnh đường ruột bị kích thích, bệnh căng thẳng hay bệnh trầm cảm. 
Một điểm chính cần biết là những triệu chứng của bệnh ung thư buồng trứng thường càng ngày càng nặng hơn. Bệnh nhân đường ruột thường có triệu chứng lúc nhiều lúc ít, xảy ra sau khi ăn một thức ăn nào đó hoặc trong 1 trường hợp nào đó. Trong khi đó, triệu chứng ung thư buồng trứng có thể giống như bệnh tiêu hóa nhưng lại lúc nào cũng xẩy ra và càng ngày càng nặng hơn.
*Triệu chứng ung thư buồng trứng gồm có: 
- Bụng nặng, đầy, sưng
- Đi tiểu gắt, muốn đi hoài
- Bụng dưới khó chịu hay đau

Những triệu chứng sau cũng thường thấy:
- Hay bị khó tiêu, ợ hơi, buồn nôn
- Thói quen đi cầu bị thay đổi, có thể bị bón
- Thói quen đi tiểu cũng thay đổi, cần đi tiểu nhiều lần
- Ăn không thấy ngon hay mau no
- Bụng bự ra, mặc đồ thấy chật
- Uể oải, không có năng lượng
- Giao hợp bị đau
- Lưng phía dưới bị đau
- Kinh nguyệt thay đổi
Bạn nên đi khám bệnh khi có những triệu chứng như sưng bụng, cảm thấy bụng to, đau hay thấy như có gì đè trong bụng và những triệu chứng này kéo dài quá vài tuần. Nếu đã gặp bác sĩ và được chữa nhưng không khỏi, nên đi khám lại hoặc đến khám bác sĩ phụ khoa. Bạn cần được khám bụng dưới tức khám tử cung và buồng trứng (pelvic exam). Nếu bạn có người thân trong gia đình bị ung thư buồng trứng hay vú, bạn cần phải được khám bởi bác sĩ có kinh nghiệm về bệnh ung thư buồng trứng để được cho ý kiến về những thử nghiệm tìm bệnh sớm, trước khi mắc bệnh.

Ai dễ bị mắc bệnh?
Những người có 1 hay nhiều yếu tố sau đây có nhiều nguy cơ bị ung thư buồng trứng
- Gene bị biến thái di truyền (inherited mutation) : Sự biến thái di truyền xẩy ra trong hai loại gene được đặt tên là gene ung thư vú 1 (BRCA1) và gene ung thư vú 2 (BRCA2). Hai gene này được nhận ra nơi những gia đình có mực độ ung thư vú cao. Nhưng họ cũng bị nguy cơ ung thư buồng trứng rất cao nữa. Một người có sự biến thái (mutation) nơi 1 trong 2 gene này có nguy cơ rất cao bị ung thư buồng trứng.
Phụ nữ có sự biến thái nơi BRCA1 có 35 tới 70 phần trăm nguy cơ bị UTBT cao hơn người bình thường. Nếu có biến thái nơi BRCA2 thì có mức phần trăm cao hơn là 10 tới 30. Nơi đa số các phụ nữ, tỉ lệ biến thái cho nguyên đời là 1.5 phần trăm. Người Ashkenazi Jews mang nguy cơ bị biến thái nơi các gene này cao hơn nhiều.

Một yếu tố di truyền khác là hội chứng bệnh ung thư trực tràng và ruột già HNPCC. Phụ nữ trong những gia đình mang bệnh này có nguy cơ cao bị ung thư màng trong tử cung, ruột già, buồng trứng và bao tử.
- Tiền sử gia đình: Nếu có người trong gia đình bị UTBT, bạn sẽ tăng nguy cơ bệnh lên 10 tới 15 phần trăm.
- Tiền sử ung thư vú: Nếu đã bị UT vú, nguy cơ bị UTBT cũng tăng lên.
- Tuổi: UTBT thường xẩy ra sau khi hết kinh. Nguy cơ UTBT tăng theo tuổi. Tuy nhiên cũng có những trường hợp bị UTBT trước tuổi hết kinh.
- Tình trạng con cái: Đàn bà đã từng có thai ít nhất một lần sẽ được giảm nguy cơ UTBT. Dùng thuốc ngừa thai có vẻ làm giảm nguy cơ UTBT.
- Tình trạng vô sinh (infertility): Nếu bạn khó có bầu, nguy cơ UTBT của bạn tăng lên. Nếu uống thuốc Clomid trị vô sinh quá 1 năm, nguy cơ cũng tăng lên.
- Uống hormone (HRT): Kết quả một nghiên cứu cho thấy có sự liên hệ giữa việc uống thuốc hormone vào tuổi mãn kinh và UTBT, nhất là những bà chỉ uống thuốc estrogen thôi. Các bà đã uống thuốc hormone trên 5 năm có nguy cơ cao nhất.
- Mập: Các bà nặng quá khổ dễ bị UTBT hơn và khi mắc bệnh, bị loại ung thư dữ hơn.

Làm gì trước khi đi khám bệnh UTBT?
Vì UTBT có những triệu chứng rất mơ hồ, đôi khi bác sĩ sẽ “coi nhẹ” lời khai bệnh của bạn hoặc không cho bạn đủ thì giờ. Do đó, trước khi đi khám bệnh, nên chuẩn bị như sau:
- Viết xuống tất cả những triệu chứng bạn có, kể cả những triệu chứng có vẻ không liên hệ lắm tới cuộc khám.
- Viết xuống những chuyện mới xẩy ra trong đời sống của bạn, thí dụ như căng thẳng (stress) hay những thay đổi lớn như ly dị, mất việc...
- Viết ra tất cả những thuốc bạn đang uống, kể cả thuốc mua tự do hay thuốc bổ, dược thảo...
- Đi khám bệnh cùng một người thân. Người này sẽ nghe kỹ hơn những lời dặn của bác sĩ để nói lại cho bạn.
- Viết ra những câu bạn muốn hỏi bác sĩ: Nguyên nhân chính gây ra những triệu chứng của bạn, còn những nguyên nhân nào khác không, những thử nghiệm nào cần làm...

Làm gì khi bị UTBT?
Sau khi qua nhiều thử nghiệm định bệnh, bạn sẽ phải qua nhiều bước chữa trị nếu bị UTBT. Ngoài việc cần đòi hỏi được giải thích cặn kẽ về những thử nghiệm định bệnh, những phương pháp chữa trị, những tác dụng phụ của việc định bệnh và chữa trị, bạn còn cần phải thay đổi lối sống cho lành mạnh hơn cũng như có thể dùng thêm những phương pháp ngoại khoa giúp sức khỏe toàn thể và cuộc sống của bạn tốt hơn. Dưới đây là những thay đổi cần làm:

- Ăn uống lành mạnh: Trong lúc chữa trị, bệnh nhân UT khó ăn uống tốt được vì tác dụng phụ của thuốc khiến bạn dễ buồn nôn, ói, ăn thấy nhạt nhẽo. Tuy nhiên bạn vẫn cần phải ăn uống đúng cách để có sức chống bệnh. Nên:
* Ăn những đồ ăn nhiều chất đạm để tái tạo những mô cơ thể. Nên ăn trứng, yogurt, cottage cheese, peanut butter, thịt nạc, thịt gà, cá, đậu hạt và lentils.
* Ăn thử vài lần những đồ ăn tốt mà mình không thích. Có thể những lần sau mình sẽ thích.
* Những khi cảm thấy khỏe, nên ăn nhiều và sửa soạn sẵn những món ăn để đông đá. Ăn những thức ăn lành mạnh.
* Cho thêm những thứ nhiều calories vào đồ ăn, thí dụ trét thêm bơ, jam, mật ong lên bánh mì, rắc thêm hạt nuts lên đồ ăn.
* Ăn nhiều bữa nhỏ trong ngày. Ăn vặt bằng trái cây và rau.
- Năng vận động. Ngay cả lúc không cảm thấy khỏe cũng nên hoạt động như đi bộ khoảng ngắn, trèo thang để giúp các bắp thịt khỏi thoái hóa. Vận động cũng giúp đỡ bị trầm cảm và bớt bồn chồn. Cũng nên tập những vận động nhắc đi nhắc lại như bơi, yoga...


BS Nguyễn Thị Nhuận

Wednesday, December 6, 2017

Chữa bịnh viêm gan B (Chronic hepatitis B)

Viêm gan B là một loại bịnh hiếm do siêu vi là tổn thương gan. Ở Mỹ có chừng 1,2 triệu người mắc chứng viêm gan B mãn tính và trên một nửa số người này là gốc châu Á Thái Bình Dương (trong lúc chỉ 5% dân Mỹ là gốc châu Á Thái Bình Dương). Các khảo cứu ở Mỹ cho thấy người gốc châu Á, trong 100 người có chừng 12 người mang siêu vi gan B trong dòng máu mình (viêm gan B mãn tính). Virus viêm gan B (HBV) có thể lan truyền từ người này qua người khác qua bằng đường máu (kim chích, dụng cụ phẫu thuật không khử trùng đàng hoàng; dung dao cạo râu chung; do đường tính dục (sexual transmission), và từ mẹ truyền qua con lúc sanh.

Không phải ai mắc viêm gan B mãn tính đều phải dùng thuốc. Bác sĩ sẽ xem xét những điều kiện của mỗi người, lợi hại của trị liệu và quyết định có cần và có nên chữa người đó hay không.
Mục đích trị liệu: ngăn chặn tiến triển của bịnh biến thành suy gan, xơ gan và ung thư gan (hepatocellular carcinoma, HCC).
Câu hỏi đặt ra là tại sao không chữa hết mọi người bịnh?
Thứ nhất, bịnh HBV lúc hoạt động lúc không, cho nên không có một phát đồ chung cho mọi trường hợp. Thứ đến, các thuốc được dùng chỉ áp chế (suppress) siêu vi HBV, không trị dứt nó được và có thể phải dùng thuốc vô hạn định,dùng thuốc có nguy cơ là sẽ lờn thuốc (resistance), không hiệu nghiệm được nữa. Cho nên lúc bịnh còn trong thời kỳ không hoạt động, bác sĩ không muốn dùng thuốc. Bác sĩ theo dõi bịnh; nếu gan có dấu hiệu bị viêm (các enzym tăng cao), lượng HBV tăng nhanh trong máu, gan bị xơ, kết quả siêu âm, sinh thiết gan nếu thấy cần thiết) lúc đó bác sĩ mới tính chuyện dùng thuốc.
Nói chung 2/3 bịnh nhân sẽ không nặng hơn. Riêng đối với người mắc HBV mãn tính do máu mẹ truyền sang lúc mới sinh thì dự hậu kém hơn,1/3-1/4 sẽ chết do xơ gan hay ung thư gan nếu không chữa trị. Cho nên việc theo dõi để chọn ai cần chữa và chữa lúc nào, kéo dài bao lâu rất quan trọng.
Các yếu tố cơ nguy:
-mức DNA của HBV cao dai dẵng.
-men [enzyme] ALT cao chứng tỏ tế bào gan bị hư hại nhiều.
(Trong cơ thể chúng ta, các phản ứng sinh hoá hoá học cần phải xảy ra nhanh trong những điều kiện bình thường về nhiệt độ, áp suất, pH mà cơ thể chấp nhận được, do đó cần những chất giúp cho phản ứng xảy ra dễ dàng hơn, các chất này gọi là chất xúc tác (catalyst) được nhà bác học người Đức Wilhelm Kühne (1837–1900) đặt tên mới là "enzyme", gốc Hy lạp có nghĩa là : en=ở trong; zyme: men (leaven, yeast) ví dụ như “men” làm rượu từ gạo. Việt Nam dịch là enzym; tuy cũng gọi nôm na là 'men'. Lúc screen xem gan, túi mât có bị tổn thương không, người ta thường bắt đầu bằng những enzym như ALT (alanine aminotransferase, trước đây SGPT) hay AST ((aspartate transaminase, hay SGOT).)
-một số trường hợp đột biến trong DNA của siêu vi.
-tuổi bịnh nhân cao
-phái nam
-bịnh nhân nghiện rượu
-trong gia đình có người bị bịnh ung thư gan
-chất Alpha-Feto-Protein (AFP) trong máu cao.
-nhiễm đồng thời với các virus khác như viêm gan Delta (HDV), viêm gan C (HCV), HIV (bịnh liệt kháng).
Các thuốc chính được dùng khắp thế giới cho HBV là: pegylated interferon alfa (PEG-IFN-a), entecavir (ETV), tenofovir disoproxil fumarate (TDF).
Interferon có nhiều biến chứng, các triệu chứng giống như bị cúm, đau nhức bắp thịt, có khi triệu chứng tâm thần. Chỉ 1/3
trường hợp bịnh HBV đáp ứng với interferon.
Thuốc Entecavir được cơ quan quản trị thuốc của Hoa kỳ là FDA chấp thuận được dung để chữa những trường hợp viêm gan B mà virus sinh sản tích cực (active viral replication) cọng với tổn thương ở gan, chứng minh bằng các xét nghiệm cơ năng gan (enzyme ALT hoặc AST lên cao) hoặc sinh thiết tế bào gan cho thấy bịnh đang ở giai đoạn tích cực, hoạt động (active liver disease). Năm 2010, FDA, chấp thuận việc dùng entecavir cho các trường hợp suy gan (liver failure) do siêu vi gan B. Đối với thuôc entecavir, xin trích dẫn một số điểm công bố trong package insert được FDA chấp thuận:
-các biến chứng thường gặp nhất: nhức đầu, mệt mõi, buồn nôn , ói.
-Uống entecavir nếu ngừng đột ngột có thể là bịnh nhiễm trở nặng hơn, nhất là trong 6 tháng đầu.
-Thuốc thải ra ngoài do thận, nên nếu cơ nặng thận yếu, giảm thấp do tuổi già, phải điều chỉnh liều thuốc.Thuốc lại có khả năng gây độc gan (hepatotoxicity): nếu da vàng, buồn nôn, phân mất màu, trở nên trắng, phải cho bs mình biết.
-Thuốc không có khả năng trị dứt (cure) nhiễm trùng siêu vi gan B mà chỉ làm giảm lượng virus trong cơ thể, giảm khả năng nhiễm những tế bào gan mới.
-Thuốc có thể làm cơ năng gan tốt hơn.
-Tuy nhiên theo kiến thức hiện nay, không biết thuốc có giảm nguy cơ ung thư và xơ gan do viêm gan B mãn tính gây ra hay không.
Tổ chức y tế quốc tế (WHO) khuyến cáo chữa những người hội đủ các điều kiện sau đây nếu họ không bị xơ gan:
1) tuổi trên 30
2) Enzyme ALT cao dai dẵng
3) DNA của HBV nhân ra nhanh chóng (high-level HBV replication (HBV DNA >20,000 IU/mL).
Ngược lại Hội Nghiên cứu Bịnh Gan của Mỹ (American Association for the Study of Liver Diseases (AASLD) ) khuyến cáo không nên chữa cho bịnh nhân với các điều kiện như sau:
-không bị xơ gan
-ALT bình thường dai dẵng
-mức DNA của siêu vi HBV thấp (Low levels of HBV DNA replication (HBV DNA <2,000 IU/mL).
Tuy nhiên bịnh nhân được thử máu, siêu âm gan đều đặng để theo dõi.
Người bịnh viêm gan mãn tính không bị giới hạn về vấn đề ăn uống.Tuy nhiên nếu suy gan do xơ gan (decompensated cirrhosis ), có thể cần giới hạn sau đây:
-giảm muối dưới 1.5 gram/ngày
-thức ăn có mức protein cao hơn, từ thịt trắng (white meat) như gà tây, gà, cá
-giới hạn nước dưới 1.5 lít/ngày nếu mức muối (NaCl) trong máu thấp.
Tóm lại, chữa viêm gan B mãn tính là lãnh vực của chuyên gia về bịnh này. Nếu bs của mình khuyên là không cần chữa, nên mừng và theo đúng các hướng dẫn để được theo dõi đúng mức. Thường bs có thể thẻo dõi 3 tháng một lần, trong một năm ; sau đó mỗi năm một lần. Nếu bịnh nặng hơn, có thể bác sĩ sẽ bắt đầu trị liệu lúc cần.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Monday, November 20, 2017

Chứng giật ở mắt (Eye twitching)

Chứng giật ở mắt (eye twitching) có thể chỉ là một triệu chứng nhất thời, xảy ra lúc bịnh nhân bị stress, mất ngủ, hay dùng cà phê thuốc lá quá nhiều. Nếu kéo dài, giật mạnh hơn, lan rộng ra có thể là thành phần của chứng bịnh tên “bệnh co thắt mí mắt vô căn lành tính” ( BEB: Benign Essential Blepharospasm), xảy ra ở những người trung niên hoặc lớn tuổi hơn.Tuổi thường gặp BEB là 50-70, đàn bà nhiều gần gấp đôi đàn ông.

BEB là một bịnh gây ra do rối loạn một số bộ phận ("hạch") trong đáy não bộ (basal ganglia), là một bịnh trong nhóm rối loạn về cử động (movement disorder), chúng ta chưa hiểu nguyên nhân rõ rệt. Các "hạch" nằm dưới não trước (forebrain), liên lạc với nhiều phần khác của não bộ, và phụ trách kiểm soát các động tác có ý thức, các động tác theo thói quen như nghiến răng, các cử động của mắt, cũng như các cảm xúc và sự hiểu biết. Nếu kích thích đầu ra (output) của các hạch này yếu quá, những cử động ngoài ý muốn hay không bị kiềm chế có thể xảy ra. Di truyền có một vai trò nào đó.
Mắt chúng ta có mi trên và mi dưới. Một số cơ phụ trách nhắm mắt (protractors: orbicularis oculi, corrugator, and procerus muscles) và một số cơ phụ trách mở mắt (retractors). Hai nhóm này hoạt động đối nghịch chiều với nhau, khi nhóm này co thì nhóm kia giãn ra, hoặc ngược lại. Cảm giác nhận từ mắt đi vào não bộ trung ương, và tín hiệu xuất phát theo dây thần kinh số 7 (thần kinh mặt, facial nerve) ra lịnh cho các cơ nhắm mắt co vào. Lúc cơ chế này hoạt động không nhịp nhàng (defective circuit), mức quân bình các lực giữa các cơ quanh mắt bị rối loạn (dystonia), và người bịnh sẽ cảm thấy một vùng nào đó hay nhiều vùng trong một hoặc hai mi mắt co, giật, hoặc co quắp lại không phải lúc, và chúng ta gọi là bịnh co quắp mi mắt (blepharospasm: blephar: mi mắt, spasm: co quắp, co thắt).
Triệu chứng:
Lúc đầu có thể chỉ là mắt chớp nhanh hơn, thấy giật mi mắt, cảm giác co bóp (eyelid spasm), hay giật giật mi mắt (eye tic) không kiểm soát được. Có thể giật ở vùng giữa mặt hoặc vùng dưới mặt.
Bịnh nặng có thể làm bịnh nhắm mắt chặt lại, khó mở mắt ra, hoặc mở mắt ra thì đau nhức, nhất là nhìn lên phía trên. Bịnh nhân có thể tránh xem tivi, đọc sách vì khó chịu hay đau. Mắt có thể khô, khó chịu lúc ra ánh sáng, và bác sĩ có thể định bịnh lầm là bịnh dị ứng mắt, bịnh khô mắt vì thiếu nước mắt (dry eyes).
Bịnh nhân có thể dễ chịu hơn sau khi ngủ một giấc, thư giản, nhìn xuống, hát, nói hay humming (hát “hư hư” không ra lời).
Một số thuốc bịnh nhân dùng liên hệ với chứng này, ví dụ: thuốc chữa Parkinson; lúc bịnh nhân ngưng thuốc an thần.
Chữa trị:
Những biện pháp giản dị: giảm bớt các chất kích thích như cà phê, giảm thuốc lá, rượu.
Massage vùng thái dương, vùng mặt hai bên cánh mũi, hai cơ hàm (masseter)
Ngủ đủ giờ, có giờ giấc; giảm stress.
Tránh để mắt quá khô, dùng giọt nước mắt nhân tạo (mua không cần toa) nhỏ vào mắt nhiều lần trong ngày, nhất là lúc xem màng hình nhiều, đọc sách nhiều, người lớn tuổi mắt dễ bị khô, lấy khăn nhúng nước ấm đắp vào mắt lúc bắt đầu giật.
Mang kính mát (màu xám/gray) chặn các tia cực tím, làm giảm bịnh mắt đau do nhạy cảm với ánh sáng (oculodynia due to photosensitivity). Đội nón che nắng.
Tập trung vào một việc gì đó như đan, may, làm vườn, nấu ăn (nhìn xuống làm đỡ triệu chứng hơn). Có thể thử hút gió, hát, “humming”, đàn. Một số người giảm triệu chứng tạm thời nếu ống diphenhydramine (Benadryl).
Chữa các bịnh về mắt như viêm các phần khác nhau của mắt nếu có ( vd:viêm mi mắt/blepharitis), khô mắt , dị ứng mắt.
Thuốc men: thường không hiệu nghiệm lắm vì thuốc tác dụng trên não bộ trung ương, nên cơ chế tác dụng chưa hiểu rõ. Những thuốc như thuốc chống trầm cảm ba vòng (tricyclic antidepressant), thuốc an thần như lorazepam, clonazepam; thuốc chống spasm dùng trong bịnh Parkinson (Artane)
Chích botulinum A toxin (Botox) là biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Thuốc do một con vi khuẩn sản xuất, chích vào cơ liên hệ làm gián đoạn truyền dẫn thần kinh từ dây thần kinh qua cơ và làm cho cơ tê liệt. Thông thường dùng với mục đích thẩm mỹ, xoá các vết nhăn trên mặt. Trong trường hợp này cơ làm giật mi mắt không giật nữa. Sau 2-3 ngày, bịnh nhân cảm thấy thuyên giảm. Thuốc tác dụng tối đa sau 5-7 ngày, được vài tháng (6-9) thì hết hẳn tác dụng, thường vài tháng phải chích lại ngăn chặn co giật tái xuất hiện.
Trường hợp hiếm hơn, nếu Botox không hiệu nghiệm trong một số trường hợp mắt đau nhiều, khó mở ra bác sĩ có thể cắt bỏ một số cơ nhỏ phụ trách nhắm mắt (protractor myomectomy).
Một phẫu thuật khác là làm gián đoạn các dây thần kinh giao cảm đi vào mắt (superior cervical ganglion block) vì các dây này phụ trách đem về não bộ những cảm giác bất bình thường từ mắt (từ đó gây ra phản ứng bất bình thường là co giật các cơ mi mắt)
Những trường hợp bịnh nhân từ chối giải phẫu và chích botox không giải quyết được (phải chích vài tháng một lần, đắt tiền), một số bác sĩ dùng phương pháp dùng từ đầu thế kỷ thứ 20 là chích alcohol vào đường đi dây thần kinh và cơ quanh mắt. Có thể gây biến chứng như méo mặt, nhắm mắt không chặt.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Đau nhức trong mắt

Đau nhức mắt có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nguyên nhân hiển nhiên nhất là những bịnh của chính con mắt.
Một lý do gây nhức mắt thường gặp là do mắt làm việc quá nhiều, như xem máy vi tính, điện thoại thông minh, iphone chữ quá nhỏ, trong thời gian kéo dài (eye strain).
Chăm chú nhìn lâu không chớp làm cho mắt khô, có thể nhức nhối, khó chịu, gây luôn nhức đầu chỗ khác.
Người trung niên mắt không còn thích ứng nhìn gần nhìn xa (accommodation) như lúc còn trẻ (presbyopia; gốc Hy lạp:presbus=ông già óp=mắt; "lão thị"), nếu nhìn gần lâu cũng có thể nhức mắt.
Viêm kết mạc (conjunctivitis) là viêm của màng màu trắng bao bọc phía trước của mắt, với ít nhiều mạch máu đỏ, nếu sưng đau, các mạch máu này nổi lên nhiều hơn, và chúng ta gọi là đỏ mắt (pink eye).
Viêm giác mạc (keratitis) là viêm của giác mạc (cornea) phần trong suốt trước con ngươi của mắt. Có thể do nhiễm trùng siêu vi, hay bị chấn thương, một vật lạ (foreign body) đâm vào (do đó lúc dùng máy móc như máy mài, búa nên mang kính an toàn để che chở mắt).
Áp suất trong trong mắt (nhãn áp) tăng lên cao trong bịnh cườm nước (glaucoma) có thể làm nhức ở trong mắt cũng như làm nhức đầu.
Tuy nhiên nếu bác sĩ chuyên khoa mắt đã khám cẩn thận và không tìm thấy vấn đề gì trong mắt thì chúng ta phải nghĩ đến những nguyên nhân khác có thể gây ra đau trong mắt. Ví dụ:
Những xoang (sinus) gần mắt như xoang trán, xoang hàm lúc bị viêm, cơn đau do các bộ phận này gây ra có thể được cảm nhận như là đau ở trong mắt.
Một số trường hợp đau răng cũng có thể làm cho người bệnh thấy đau ở trong mắt mặc dù trong trường hợp này thường thường răng chỉ đau một bên chứ không phải hai bên.
Một số người bị bệnh đau nhức vì viêm thần kinh (neuritis) phụ trách vùng mắt hay vùng mặt cũng có thể cảm thấy đau ở trong mắt mặc dù bác sĩ khám mắt sẽ không thấy gì bất bình thường. Người bịnh có thể đau nhức mắt lúc ra gió, ánh sáng nhiều trong lúc người trung bình thì không thấy khó chịu; nhức mắt có thể từng cơn nhưng có thể mãn tính. Hiện nay , các khảo cứu mới cho thấy mắt bị khô (dry eye) giữ một vai trò quan trọng.
Bịnh co thắt các cơ bao bọc mí mắt cũng có thể làm đau đớn từng cơn (blepharospasm). Trong trường hợp viêm thần kinh, nguyên nhân có thể là một nhánh của dây thần kinh ba nhánh (trigeminal nerve) bị viêm và làm cho đau vùng phía trên của mặt kể cả vùng hai hốc mắt.
Trong một số trường hợp hiếm hơn (“oculo-facial pain”) nguyên nhân cảm giác đau vùng mắt có thể nằm ở trong não bộ là nơi tiếp nhận các cảm giác đi từ mắt vào (neuropathic, central pain); một sự rối loạn trong cách não bộ xử lý những cảm giác đó làm cho người bệnh cảm thấy đau ở mắt mặc dù bản thân bộ phận liên hệ không bị bệnh gì. Cũng tương tự như một số trường hợp một người nào đó đã bị cắt cụt một cánh tay nhưng mà họ vẫn thấy đau ở trong cánh tay đã mất đó; trong trường hợp này người ta gọi cánh tay đó là cánh tay ma (phantom limb) vì trên thực tế nó không còn tồn tại ở đó nữa, bộ óc cảm nhận sai lạc cánh tay đó vẫn còn đó và đang tạo nên cơn đau hành hạ bịnh nhân.
Điều quan trọng cần nhắc nhở ở đây là, nếu khám mắt bình thường mà vẫn đau trong mắt, bác sĩ cần tìm đủ mọi cách để loại bỏ khả năng có một u bướu hay một tổn thương nào đó phía sau của mắt tạo nên cơn đau đó. Chúng ta thể mường tượng hai mắt như hai trái banh bóng bàn nằm trong hai hốc mắt. Phía sau hai trái banh đó là những dây thần kinh, mạch máu nối liền với não bộ phía sau, mà não bộ lại được chứa trong một cái hộp kín bằng xương là hộp sọ. Những thay đổi về thể tích của não bộ sẽ tạo áp suất đè lên trên hai hốc mắt và lên hai tròng mắt. Ví dụ óc phù thủng nước (brain edema), úng thuỷ (hydrocephaly)) do nước trong não (cerebrospinal fluid) không lưu thông bình thường, hay do một u bướu mô óc, hay một mạch máu trong óc phình ra một cách bất bình thường (aneurysm) do vách của mạch bị hư hại yếu đi (tương tự như ruột bánh xe đạp gặp chỗ yếu bị phình ra trước khi vỡ). Hút thuốc lá, áp huyết cao, bịnh xơ vữa động mạch là những yếu tố cơ nguy của phình động mạch.
Những trường hợp như vậy có thể làm bịnh nhân nhức đầu trong hai hốc mắt, có thể kèm theo những triệu chứng như chóng mặt, buồn mửa (nôn), thấy một thành hai (diplopia). Bác sĩ có thể thấy mắt lồi ra, hay mí mắt sụp xuống (ptosis), hay các mạch máu trên kết mạc giãn ra to làm "mắt đỏ" (có thể định bịnh lầm là viêm kết mạc [conjunctivitis]), hay thị trường (visual field) của bịnh nhân bị hẹp lại, hay trong võng mô đầu của thần kinh thị giác bị phù (papilledema). Tuy nhiên, những triệu chứng và dấu hiệu trên có thể không tồn tại và dấu hiệu duy nhất của u bướu hay tổn thương của não bộ hay mạch máu của não bộ phía sau mắt là cơn đau nhức cảm nhận phía sau, trên hay giữa hai mắt. Nếu nghi có vấn đề đáng kể cần chẩn đoán chính xác hơn, bác sĩ có thể dùng kỹ thuật hình ảnh CT hay MRI với chất cản quang (with contrast) chích vào máu để kiểm soát xem não bộ và các mạch máu có bình thường hay không và chung quanh mắt có u bướu hay vấn đề gì khác không.
Tóm lại, nếu bịnh nhân đau trong mắt mà bác sĩ chuyên khoa mắt khám không thấy gì, nên xem lại mình được khám về khúc xạ (refraction) hay không, có viễn thị (hyperopia, or farsightedness), loạn thị (astigmatism) cần mang kính (gương) hay không, mình cần nghỉ ngơi mắt hay không; mắt có bị quá khô cần nhỏ nước mắt nhân tạo hay không. Nếu không bớt, nên nhờ bác sĩ gia đình xem xét hồ sơ, bịnh sử, khám lại kỹ càng. Nếu còn nghi vấn, cần nhờ bác sĩ thần kinh, bác sĩ tai mũi họng và bác sĩ y khoa hình ảnh /quang tuyến xem lại, nhất là cần loại bỏ khả năng nhức đầu vì migraine, vì huyết áp cao; loại bỏ khả năng có những tổn thương như u bướu não, u bướu thần kinh, phình động mạch là áp lực lên trên mắt và gián tiếp gây đau trong mắt.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bệnh bạch tạng

Đa số trong chúng ta đều đã từng nghe qua hay biết một người có bệnh bạch tạng vì bệnh này khá thông thường. Bệnh nhân bạch tạng thường khó chịu vì bị người lạ nhìn với vẻ mặt tò mò, đôi khi xoi mói, vì những mảng da trắng toát trên mặt, cổ, tay chân và trên thân mình. Những mảng da trắng toát này rất dễ thấy, nhất là ở những người da đậm mầu hơn.
Triệu chứng
Như trên đã nói, triệu chứng chính của bệnh bạch tạng chỉ là những mảng da trắng như sữa bắt đầu chỉ là một khoảng nhỏ rồi lan dần ra thành những mảng lớn, có khi chiếm hết cả khuôn mặt, hoặc những vùng khác của cơ thể.
Những triệu chứng ít thấy hơn của bệnh bạch tạng gồm có:
- Tóc, lông mi lông mày, râu bị bạc sớm trước tuổi
- Màng lót trong miệng bị mất mầu đỏ
- Võng mạc (retina) của mắt bị mất hay đổi mầu

Dù bất cứ vùng nào của cơ thể cũng có thể bị mất mầu nhưng những vùng hay lộ ra dưới ánh nắng mặt trời như bàn tay, bàn chân, cánh tay, mặt, môi thường bị mất mầu trước. 

Cũng vậy, bạch tạng có thể bắt đầu ở bất cứ tuổi nào nhưng thường nhất là giữa 10 và 30 tuổi. Thường có 3 hình thức bệnh bạch tạng:

- Tập trung một vùng: Bạch tạng chỉ có ở 1 hay vài vùng nhỏ của cơ thể
- Tập trung một phần (segment): Da chỉ bị trắng một bên của cơ thể
- Toàn thân: Da trắng bất cứ nơi đâu trong cơ thể và thường đối xứng nhau.
Diễn tiến của bệnh bạch tạng khó tiên đoán được. Bệnh có thể lan ra rồi ngưng lại nhưng cũng có thể lan ra mãi cho đến hết cả thân và mặt.

Dù không thể chữa cho hết bệnh được, tiến triển của bệnh có thể được ngăn chặn. Do đó bệnh nhân nên tìm gặp bác sĩ để được chữa trị càng sớm càng tốt.
Nguyên nhân
Bệnh bạch tạng xuất hiện khi chất sắc tố melanin torng làn da bị tiêu hủy hay ngưng sản xuất khiến phần da đó bị trắng ra. Nguyên nhân tại sao chuyện này xẩy ra thì vẫn chưa được biết. Tuy nhiên, nhiều giả thuyết được đưa ra: do bệnh hệ miễn nhiễm, di truyền, do bị cháy nắng hay bị xúc cảm quá độ khiến phát ra bệnh...
Định bệnh
Khi đến khám bệnh, bệnh nhân sẽ được bác sĩ hỏi kỹ về bệnh sử cá nhân, cũng như bệnh sử gia đình, và khám bệnh toàn thân. Sau đó, bác sĩ có thể cho làm sinh thiết (biopsy) da và thử nghiệm máu để định bệnh và tìm nguyên nhân. Bác sĩ cũng có thể cho bệnh nhân đi khám mắt nơi bác sĩ chuyên môn mắt để tìm xem họ có bị bệnh trong mắt không.
Chữa bệnh
- Không phải lúc nào cũng cần chữa bệnh bạch tạng. Bệnh nhân có thể bôi kem chống nắng và bôi kem che vết trắng để dễ coi hơn. Người đã sẵn có làn da trắng chỉ cần tránh bị nắng ăn (tan). Nếu bị quá nhiều chỗ và quá lớn, bệnh nhân có thể được chữa để làm làn da có mầu đều hơn bằng nhiều cách.
- Thuốc corticosteroids có thể làm da có mầu trở lại, nhất là dùng sớm. Bệnh nhân có thể phải dùng thuốc ít nhất là 3 tháng trước khi thấy có hiệu quả và cần được bác sĩ theo dõi để tìm những tác dụng phụ có hại. Thuốc calcipotriene (Doconex) cũng có thể được dùng riêng trên da hay kèm với corticosteroids và tia ultraviolet.

- Ngoài ra còn rất nhiều những thuốc khác dùng thoa da hay uống, cũng như các phương pháp giải phẫu ghép da hay tia UV được dùng để chữa bệnh bạch tạng, nhất là cho những người bị nặng. Tuy nhiên các thuốc này đều có những tác dụng phụ có hại, cần được cân nhắc kỹ trước khi dùng.
Những phương pháp tự giúp
- Bảo vệ da: Nếu bạn bị bệnh bạch tạng, bạn còn cần bảo vệ da hơn: dùng kem chống nắng với độ SPF 30 hay hơn để khỏi bị cháy nắng và những hư hại da về sau cũng như khỏi làm da nâu hơn khiến những chỗ da trắng nổi bật lên.

- Che khuyết điểm trên da bằng cách dùng kem như Dermablend hoặc thuốc thoa cho da nâu (sunless tanning)
- Thuốc ta: Những bệnh nhân có bệnh lan chậm có thể uống 40mg ginkgo 3 lần mỗi ngày để bệnh khỏi lan thêm. Nên hỏi ý kiến bác sĩ trước.
- Bệnh nhân bạch tạng có thể phải đau khổ vì sự khác biệt trên dung nhan và những cái nhìn tò mò của người lạ. Họ có thể thấy xấu hổ, ngại ngùng, trầm cảm nữa, nhất là ở người trẻ tuổi bị bạch tạng nhiều chỗ. Bệnh nhân có thể áp dụng những cách sau đây để tìm lại an ổn tinh thần:
- Tìm bác sĩ da biết nhiều về bệnh bạch tạng để tham khảo
- Tìm hiểu về bệnh bạch tạng và cách chữa bệnh càng nhiều càng tốt để có thể góp ý vào việc chữa bệnh của chính mình.
- Nếu cảm thấy tuyệt vọng, trầm cảm, nên nói cho bác sĩ biết để tìm chữa trị.
- Gia nhập những nhóm hỗ trợ để có thể cùng nhau chia sẻ những thông tin về bệnh cũng như nỗi lòng của mình. Có thể gọi National Vitiligo Foundation số 513- 541- 3903 hay Vitiligo Support International số 818- 752- 9002 để tìm những nhóm hỗ trợ trong vùng mình ở.
- Tâm sự với người thân của mình để tìm sự thông cảm và hỗ trợ.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Viêm thấp khớp (Rheumatoid Arthritis)

Viêm thấp khớp là một bệnh viêm kinh niên ảnh hưởng đến nhiều vùng cơ thể chứ không phải chỉ ở khớp xương như tên của nón. Ở một số người, bệnh này có thể gây tác hại trên một loạt các hệ thống cơ thể, như da, mắt, phổi, tim và mạch máu.

Viêm thấp khớp xảy ra khi hệ thống miễn dịch tấn công nhầm các mô cơ thể của chính mình.
Không giống như các thiệt hại do sử dụng nhiều của bệnh viêm xương khớp, viêm thấp khớp ảnh hưởng đến niêm mạc của khớp xương, gây sưng đau, cuối cùng có thể dẫn đến xói mòn xương và biến dạng khớp.
Các chứng viêm khác đi chung với viêm thấp khớp có thể làm hư hại các bộ phận khác của cơ thể. Các loại thuốc mới hiện nay có thể giúp bệnh nhân rất nhiều so với trước kia nhưng bệnh nặng vẫn đưa tới khuyết tật.
Triệu chứng
Gồm có:
- Khớp bị sưng , nóng, đau
- Các khớp xương bị cứng, nặng hơn vào buổi sáng và sau một thời gian không hoạt động
- Mệt mỏi, sốt và giảm cân
Bệnh viêm thấp khớp thời gian đầu thường xảy ra ở các khớp nhỏ - đặc biệt là các khớp gắn các ngón tay vào bàn tay hay các ngón chân vào bàn chân.
Khi bệnh tiến triển xa hơn, các triệu chứng thường lan đến cổ tay, đầu gối, mắt cá chân, khuỷu tay, hông và vai. Trong hầu hết các trường hợp, các triệu chứng xảy ra ở các khớp giống nhau trên cả hai bên của cơ thể.
Khoảng 40 phần trăm bệnh nhân có các triệu chứng không liên quan đến các khớp ở các bộ phận sau đây của cơ thể: da, mắt, phổi, tim, thận, tuyến nước bọt, mô thần kinh, tủy xương, mạch máu.
Các triệu chứng có thể nặng nhẹ khác nhau, có thể xảy ra trong một thời gian rồi hết đi. Có những thời kỳbệnh nặng lên, xen kẽ với những giai đoạn bệnh thuyên giảm tương đối, lúc triệu chứng sưng và đau bớt đi hoặc biến mất. Theo thời gian, các khớp xương có thể biến dạng vàdời chỗ.
Nguyên nhân
- Viêm thấp khớp (rheumatois arthritis) khác với viêm xương khớp (osteoarthritis)
Viêm thấp khớp xảy ra khi hệ thống miễn dịch tấn công các lớp màng bao quanh khớp của bạn. Hiện tượng viêm làm lớp màng này dày lên và cuối cùng có thể phá hủy sụn và xương trong khớp. Các gân và dây chằng giữ khớp xương bị suy yếu và căng ra. Dần dần, các khớp mất hình dạng và sự thẳng hàng.
Chưa hiểu được tại sao các tiến trình này bắt đầu, có thể có yếu tố di truyền. Các gene không thực sự gây ra bệnh nhưng có thể làm cho nạn nhân nhạy cảm hơn với các yếu tố môi trường - chẳng hạn như nhiễm vi trùng hay siêu vi - có thể gây ra bệnh.
Các yếu tố nguy cơ
Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm thấp khớp gồm có:
- Giơi tính. Phụ nữ dễ bị hơn nam giới.
- Tuổi tác. Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng thườngc bắt đầu trong độ tuổi từ 40 đến 60.
- Bệnh sử gia đình. Nếu một thành viên của gia đình bị bệnh, bạn có thể nguy cơ cao mắc bệnh.
- Thuốc lá. Hút thuốc lá làm tăng nguy cơ phát triển bệnh nhất là khi bạn có một khuynh hướng di truyền mắc bệnh. Hút thuốc cũng liên quan tới mức độ nghiêm trọng của bệnh.
- Môi trường tiếp xúc. Mặc dù không chắc chắn và chưa hiểu rõ cơ chế, một số chất như abestos hoặc silica có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Nhân viên cấp cứu tiếp xúc với bụi từ sự sụp đổ của Trung Tâm Thương Mại Thế Giới có nguy cơ cao mắc các bệnh tự miễn như viêm thấp khớp.
- Béo phì. Những người dư cân hoặc béo phì có nguy cơ khá cao mắc bệnh, đặc biệt là ở phụ nữ được chẩn đoán bệnh ở 55 tuổi trở xuống.
Các biến chứng
- Loãng xương. Chính bệnh viêm thấp khớp, vàmột số loại thuốc điều trị viêm có thể làm tăng nguy cơ loãng xương, làm suy yếu xương và dễ bị gãy xương.
- Cục phong thấp. Những cục này thường nổi lên các vùng nhô ra dễ bị va chạm (điểm áp lực), chẳng hạn như khuỷu tay. Tuy nhiên, chúng có thể nổi lên ở bất cứ nơi nào trong cơ thể, bao gồm cả phổi.
- Khô mắt và miệng. Bệnh nhân viếm thấp khớp dễ bị hội chứng Sjogren, một rối loạn làm giảm lượng ẩm trong mắt và miệng.
- Nhiễm trùng. Chính căn bệnh và nhiều loại thuốc chữa bệnh có thể làm suy giảm hệ thống miễn dịch, dẫn đến dễ bị nhiễm trùng.
- Thành phần cơ thể bất thường. Tỷ lệ chất béo thường cao hơn ở những người bị viêm thấp khớp, ngay cả ở những người có chỉ số khối cơ thể bình thường (BMI).
- Hội chứng carpel tunnel. Nếu bệnh xảy ra ở cổ tay, hiện tượng viêm có thể làm đè nén các dây thần kinh ở các bàn tay và các ngón tay gây ra hội chứng này.
- Vấn đề tim mạch. Viêm thấp khớp có thể làm tăng nguy cơ xơ cứng và nghẽn động mạch cũng như viêm màng bọc quanh trái tim.
- Bệnh phổi. Bệnh nhân bị tăng nguy cơ viêm vàgây sẹo các mô phổi, có thể dẫn đến khó thở.
- Ung thư hạch. Viêm thấp khớp làm tăng nguy cơ ung thư hạch, một nhóm các bệnh ung thư máu phát triển trong hệ thống bạch huyết.
Định bệnh
Viêm thấp khớp có thể khó chẩn đoán ở giai đoạn đầu vì những triệu chứng ban đầu giống triệu chứng của nhiều bệnh khác. Không có xét nghiệm máu riêng hay một dấu hiệu thể lý riêng để xác định chẩn đoán.
- Các xét nghiệm máu
Những người bị viêm khớp dạng thấp thường có một tỷ lệ lắng hồng cầu (ESR) cao hoặc protein phản ứng C (CRP) cao, dấu hiệu của một tiến trình viêm trong cơ thể. Các thử nghiệm khác gồm có rheumatoid factor và anti- CCP.
Điều trị
- Không có thuốc điều trị riêng biệt cho bệnh viêm thấp khớp. Hiện nay có rất nhiều thuốc khác nhau và mới hơn được sử dụng để làm giảm bớt triệu chứng bệnh.

Những loại thuốc này có thể nhắm vào những phần của hệ thống miễn dịch đã tạo ra phản ứng viêm gây tổn thương khớp và các mô. Những loại thuốc này cũng làm tăng nguy cơ nhiễm trùng.
- Bác sĩ có thể gửi bạn tới các chuyên viên trị liệu thể lý hoặc nghề nghiệp để học những bài tập giúp giữ cho các khớp xương của bạn linh hoạt. Họ cũng có thể đề nghị những cách thức mới để làm việc hàng ngày giúp các khớp ít bị áp lực hơn. Ví dụ, nếu ngón tay của bạn bị đau, bạn có thể chọn dùng cánh tay để nhấc một vật gì lên.

- Những thiết bị trợ giúp có thể giúp bạn làm việc dễ dàng hơn và tránh áp lực lên những khớp đau. Ví dụ, một con dao nhà bếp được trang bị với một tay cầm giống như cán cưa giúp bảo vệ khớp ngón tay và cổ tay. Một số công cụ, như buttonhooks, có thể giúp việc mặc quần áo dễ dàng hơn. Catalogs và các cửa hàng cung cấp y tế là nơi tốt để tìm kiếm ý tưởng.

- Giải phẫu. Nếu thuốc không giúp ngăn chặn hoặc làm chậm tổn thương khớp, có thể phải cần đến giải phẫu để sửa chữa những hư hại hầu giúp khôi phục lại khả năng sử dụng khớp. Nó cũng có thể làm giảm đau và dị dạng.

Nhưng giải phẫu có nguy cơ chảy máu, nhiễm trùng và đau đớn. Nên thảo luận kỹ về những lợi ích và rủi ro của giải phẫu với bác sĩ.
Trị liệu khác
Một số phương pháp điều trị bổ sung có nhiều triển vọng cho bệnh viêm khớp dạng thấp bao gồm:
- Dầu cá. Một số nghiên cứu đầu tiên cho thấy uống thêm dầu cá có thể làm giảm đau viêm thấp khớp và bớt độ cứng khớp. Các tác dụng phụ có thể bao gồm buồn nôn, ợ hơi và một hương vị tanh trong miệng. Dầu cá có thể ảnh hưởng đến các thuốc đang uống, nên hỏi bác sĩ trước khi uống.
- Dầu thực vật. Các hạt giống hoa anh thảo, cây lưu ly và nho đen chứa một loại acid béo có thể giúp giảm đau và cứng khớp buổi sáng. Các tác dụng phụ có thể bao gồm buồn nôn, tiêu chảy và tăng hơi. Một số loại dầu thực vật có thể gây tổn thương gan hoặc ảnh hưởng đến thuốc đang uống, nên hỏi bác sĩ của bạn trước.
- Tai Chi. Liệu pháp này sử dụng các bài tập nhẹ nhàng và trải dài kết hợp với thở sâu. Nhiều người sử dụng tai chi để giảm căng thẳng trong cuộc sống của họ. Nghiên cứu cũng cho thấy tai chi có thể làm giảm đau. Khi được dẫn dắt bởi một huấn luyện viên có kiến thức, tai chi thường an toàn. Nhưng không nên làm bất kỳ chuyển động nào gây đau.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Monday, November 6, 2017

Chứng ngứa da

Ít ai chịu đựng được cơn ngứa ngoài da. Và ai ít nhất cũng bị ngứa da vài lần. Quá tầm thường như vậy nhưng ngứa da cũng có thể làm ta rất khó chịu và gây ra do nhiều nguyên nhân. Ngứa có thể là triệu chứng của một bệnh ngoài da như bệnh phong vẩy nến (psoriasis), bệnh viêm da (dermatitis) mà cũng có thể có nhiều nguyên nhân quan trọng hơn như bệnh gan hay bệnh suy thận. Da của bạn có thể trông rất bình thường hay bị sưng đỏ, nổi vẩy, mọng nước... Muốn chữa hết bệnh, cần tìm ra nguyên nhân.a
Triệu chứng
Ta có thể bị ngứa ở một vùng da nhỏ hoặc cả thân người. Da có thể bình thường hoặc bị đỏ, nổi hột, nổi phồng, khô nứt hay dầy lên, có vẩy...
Ngứa da có thể kéo dài lâu và có thể rất nặng. Càng gãi người ta càng thấy ngứa và rồi người ta càng gãi. Thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này có thể rất khó.
Khi nào nên gặp bác sĩ?
Nên gọi lấy hẹn đi khám bệnh khi chứng ngứa da của bạn:
- Kéo dài hơn 2 tuần không giảm
- Rất nặng khiến bệnh nhân rất khó chịu không làm việc hay ngủ được
- Không có nguyên nhân gì thấy được, thí dụ như bị sâu bọ cắn
- Ngứa khắp người
- Có những triệu chứng khác kèm theo như rất mệt, xuống cân, thói quen đi cầu thay đổi, tiểu bất thường, sốt, da đỏ lên...
Nguyên nhân 
Chứng ngứa da có thể gây ra do những nguyên nhân sau:
- Da khô: Ngứa mà da không nổi đỏ thường là do da bị khô vì những nguyên nhân bên ngoài, thí dụ như khí hậu nóng hay lạnh và khô, dùng máy lạnh hay máy sưởi quá lâu, hoặc rửa tay, tắm quá thường.
- Bệnh da: Phong vẩy nến, viêm da, ghẻ, chấy rận, bệnh thủy đậu, dị ứng da... Những bệnh này thường xẩy ra ở những vùng đặc biệt và có những triệu chứng khác đi kèm theo như da đỏ lên, mọc mụt hay vẩy, phồng nước...
- Bệnh bên trong: Gồm có bệnh gan, bệnh không hấp thụ lúa mì được (celiac disease), suy thận, thiếu chất sắt, bệnh tuyến giáp trạng, ung thư. Trong những trường hợp này, bệnh nhân thường ngứa hết cả người, da thì trông bình thường không có triệu chứng gì cả.
- Dị ứng: Những chất như len, chất hóa học, xà bông... có thể làm da bị ngứa hay gây ra dị ứng, thí dụ như poison ivy, son phấn... Dị ứng thức ăn cũng có thể gây ra ngứa.
- Thuốc men: Phản ứng với thuốc trụ sinh, thuốc chữa nấm hay thuốc giảm đau có ma túy... có thể gây ra nổi mẩn đỏ và ngứa.
- Có thai: Nhiều bàbị ngứa da trong thời gian mang thai, nhất là vùng bụng, đùi, vú và cánh tay. Những người bị viêm da thường bị ngứa nặng hơn trong lúc có thai.
Biến chứng
Ngứa và gãi lâu ngày có thể làm tăng cái ngứa và đưa tới biến chứng da bị dầy lên như da thuộc, trong ướt và thẫm mầu hơn những chỗ da bình thường. Gãi lâu ngày cũng có thể gây ra nhiễn trùng, bị sẹo vĩnh viễn hay đổi mầu da.
Chữa ngứa
Khi đến gặp bác sĩ, bệnh nhân sẽ được hỏi bệnh sử và khám bệnh, nếu cần sẽ được cho thử máu hoặc thử nghiệm một miếng da bệnh để tìm nguyên nhân. Một khi nguyên nhân đã được tìm ra, bệnh nhân có thể được chữa bằng những cách sau:
- Thuốc uống hay thuốc bôi da: Thuốc uống có thể là thuốc chống dị ứng, còn thuốc bôi thì là thuốc trị viêm da.
- Đắp ướt: Sau khi thuốc đã được bôi lên chỗ da ngứa, những miếng vải thấm ướt được đặt lên da để giúp thuốc mau ngấm hơn.
- Chữa những bệnh bên trong: Khi những bệnh như suy thận, thiếu chất sắt, bệnh tuyến giáp trạng... đã được chữa khỏi, bệnh nhân thường sẽ hết ngứa.
- Chữa bằng ánh sáng: Da được chiếu bàng tia sáng tử ngoại nhiều lần cho đến khi hết ngứa.
Nhiều bệnh ngứa được chữa hết bằng những phương pháp trên. Tuy nhiên nhiều khi cũng không hết ngay được, phải dùng đến những loại kem chế tạo đặc biệt để trị ngứa. Đó là những loại kem thuốc tê như lidocaine hay benzocaine; kem bạc hà, camphor hay calamine. Dù những loại kem này thường làm giảm cơn ngứa ngay, bệnh nhân cần được chữa trị tận gốc bằng cách chữa nguyên nhân gây ra ngứa.
Tự giúp
Bệnh nhân có thể dùng những phương pháp sau đây để cảm thấy dễ chịu hơn:
- Thoa kem chống ngứa: Có thể mua kem bán tự do như hydrocortisone 1% thoa để giúp bớt ngứa. Cũng có thể mua thuốc uống chống ngứa bán tự do như Benadryl nếu bị ngứa nặng hơn.
- Tránh gãi nếu có thể được. Che chỗ bị ngứa lại. Cắt móng tay ngắn và giũa cho khỏi nhám, mang găng tay lúc đi ngủ.
- Đắp khăn ướt lên chỗ ngứa để bảo vệ da và tránh gãi.
- Tắm nước mát. Rắc baking soda, oatmeal chưa nấu chín hoặc colloidal oatmeal tức oatmeal nghiền nhỏ (Aveeno) vào nước tắm.
- Mặc áo bằng vải sợi cotton mềm để tránh bị khó chịu
- Chọn xà bông nhẹ không có mùi hay chất thuốc nhuộm để tắm. Rửa sạch xà bông, sau đó thoa một lớp lotion làm ẩm để bảo vệ da.
- Dùng thuốc giặt nhẹ, không có mùi để giặt khăn tắm, quần áo, khăn trải giường. Khi giặt nên dùng phần "extra rinse" trong máy giặt để rũ mất hoàn toàn thuốc giặt.
- Tránh những chất có thể làm da bị tổn thương hay gây ra phản ứng như chất kền nickel, nữ trang, nước hoa, phấn son, những chất dùng tẩy giặt...

BS Nguyễn Thị Nhuận

Monday, October 30, 2017

Enzyme Gan GGT

Trong sự vận hành của cơ thể chúng ta, các phản ứng sinh hoá hoá học cần phải xảy ra nhanh trong những điều kiện bình thường về nhiệt độ, áp suất, pH mà cơ thể chấp nhận được, do đó cần những chất giúp cho phản ứng xảy ra dễ dàng hơn, các chất này gọi là chất xúc tác (catalyst) được nhà bác học người Đức Wilhelm Kühne (1837–1900) đặt tên mới là "enzyme", gốc Hy lạp có nghĩa là : en=ở trong; zyme: men (leaven, yeast) ví dụ như “men” làm rượu từ gạo. Việt Nam dịch là enzym; tuy cũng gọi nôm na là 'men'. Tuy nhiên, men là những sinh vật (living organism) trong lúc enzym là một protein, một chất có thể được trích ra từ một sinh vật chứ không phải là một sinh vật. Ví dụ trong dạ dày không thể dùng nhiệt độ cao, áp suất cao như trong nồi nấu thịt cho nhừ được, nên có tiết ra một enzyme để giúp tiêu hoá thịt thành những phân tử nhỏ hơn gọi là pepsin.
GGT, viết tắc của Gamma Glutamyl Transferase là một enzym xúc tác cho sự di chuyển của nhóm gamma-glutamyl trong một phản ứng hoá học xảy ra trong nhiều bộ phận của cơ thể, đặt biệt là gan. GGT còn hiện diện trong màng tế bào của tuỳ tạng (pancreas), mô thận, túi mật, lá lách (spleen), tim, và túi tinh dịch (seminal vesicles), giúp chuyên chở các amino-acid vào trong tế bào và giúp ổn định các tế bào chống stress do oxi-hoá (homeostasis).
Trên thực tế, nếu mức GGT lên cao trong máu, người ta nghĩ đến một sự hư hại nào đó của gan, túi mât (mật bị ứ đọng trong gan, cholestasis) , hoặc gần đây hơn như là một "marker" cho các bịnh tim mạch hay bịnh nghiện rượu (alcohol abuse) . Nói chung , GGT là một test nhạy cảm đối với bịnh gan mật, nhưng không chuyên biệt lắm.Ví dụ trong 100 người GGT cao, chỉ có chừng 30% bị bịnh gan mật. Tình trạng ống dẫn mật bị nghẹt (ví dụ do sạn trong túi mật) hay mật bị ứ đọng trong gan , hay một số chất như alcohol có khả năng kích thích sự sản xuất ra GGT (enzyme induction) , nên đo sẽ thấy mức enzyme GGT lên cao trong máu. Tuy nhiên lúc screen xem gan, túi mât có bị tổn thương không,người ta thường bắt đầu bằng những enzym khác như ALT (alanine aminotransferase, trước đây SGPT) hay AST ((aspartate transaminase, hay SGOT). Các máy tự động bây giờ làm các thí nghiệm hàng loạt trên một mẫu máu nhỏ, cho nên trong một nhóm thử nghiệm cơ năng gan (liver function panel), lúc bịnh nhân check-up, bs có thể order một lượt các test này chung với nhau. Diễn dịch ý nghĩa các kết quả tuỳ thuộc vào mỗi trường hợp bịnh lý cũng như kết quả các test khác cũng là thước đo của cơ năng gan, như alkaline phosphatase [ALP) (nếu ALP cao thì có thể do bịnh xương hay do bịnh gan mật, nếu cao, bs cho thử GGT, nếu GGT cũng cao thì nghi bịnh gan, nếu GGT không cao thì nghi bịnh xương), nồng độ albumin trong máu, mức bilirubin (do gan sản xuất), vv .Riêng trong trường hợp người già bị bịnh gan-mật, các marker như ALT, AST có thể không tăng đến mức báo động vì cơ thể người già không còn phản ứng như trước với bịnh ở gan, trong lúc đó GGT cao vẫn báo động có bịnh ở đâu đó.
Trong một khảo cứu bao gồm 100 trường hợp GGT tăng cao ở Turkey, nguyên nhân chính là bịnh gan, đa số là do gan nhiễm mỡ không phải do rượu (non alcoholic steatohepatitis), rồi đến viêm gan, xơ gan, u gan; bịnh mật-túi mật, nhất là sạn túi mật ; một số ít do dùng thuốc loại NSAIDS (thuốc giảm viêm không phải corticoid), nhiễm trùng đường tiểu.
Nếu gan, túi mật theo dõi qua thử máu và siêu âm không có vấn đề gì, có thể nhờ bs gia đình hay nội thương xét đến những nguyên nhân ở các bộ phận khác như tuỳ tạng, tim mạch,tuyến tiền liệt, phổi (ung thư phổi), hay tìm hiểu có xài một số thuốc có thể làm tăng cao GGT trong máu, như carbamazepine, cimetidine, furosemide (Lasix, lợi tiểu), heparin (làm máu bớt đông lại, làm loãng máu), isotretinoin, methotrexate, thuốc viên ngừa thai cho phụ nữ (oral contraceptives), phenobarbital, phenytoin, valproic acid (chống co giật). Tuy nhiên thường GTT chỉ cao ít thôi trong các trường hợp này.
Cho nên trong trường hợp vị thính giả, chỉ có bác sĩ chuyên khoa của bịnh nhân là có đủ tin tức để quyết định phải làm gì thêm nữa. Nếu bịnh nhân không vừa ý có thể nhờ một bác sĩ khác xem xét kỹ lưỡng hơn và cho biết ý kiến.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Trị bệnh trầm cảm

Thống kê ở Mỹ cho biết 100 người lớn, đến 6-7 người mắc chứng trầm cảm, và có những thuốc được chứng minh là hiệu nghiệm chữa bịnh trầm cảm. Theo luật ở Mỹ, bác sĩ phải đối mặt với bịnh nhân và thiết lập quan hệ chính thức giữa người chữa bịnh và người bịnh, có khám bịnh và hồ sơ bịnh án đàng hoàng mới biên toa cho bịnh nhân được. Tôi thiết nghĩ luật lệ ở Việt Nam cũng vậy.
Tuy nhiên, đối phó với các triệu chứng trầm cảm không phải chỉ có thuốc mà thôi. Người bịnh cần tìm hiểu thêm về bịnh của mình, trước hết là xem chứng trầm cảm có phải do một bịnh gì khác gây ra hay không. Ví dụ bịnh suy tuyến giáp (hypothyroidism; tuyến giáp: tuyến hình chữ H hoa, nằm trước cổ) cũng làm bịnh nhân thấy mất sinh lực, buồn bã; một số thuốc beta-blocker như Lopressor dùng chữa bịnh huyết áp cao có thể gây trầm cảm. Thuốc ức chế bơm proton (proton pump inhibitor, vd omeprazole/Prilosec) để trị bịnh dạ dày quá nhiều axít, thuốc an thần, thuốc statin hạ cholesterol (vd Lipitor), ngay cả một số thuốc kích thích (stimulant) cũng có thể gây trầm cảm. Tâm lý trị liệu (psychotherapy) có thể hiệu nghiệm nhưng cần phải chọn người tâm lý gia (therapist) thích hợp. Thuốc men cũng vậy, có thể phải thử nhiều thuốc mới tìm thấy thuốc hợp với mình.
Có những biện pháp hữu hiệu có ích cho người bịnh:
  • thể thao, thể dục, ví dụ đi bộ, chạy 30 phút ngày, có thể đủ để giải quyết trầm cảm,
  • dinh dưỡng: các bữa ăn nhỏ và đều đặn, không dùng đường nhiều quá, mà dùng những chất tinh bột cabohydrate hấp thụ chậm hơn,
  • ngủ đúng giờ, đầy đủ, ít lắm là 7-8 giờ/ ngày,
  • giao thiệp, kết nối với bạn bè, người thân, nâng đỡ nhau; tìm người mình có thể tâm sự, không co rút, ngại ngùng giấu diếm nỗi lo, ưu tư của mình.
Các chế phẩm từ thảo dược và một số "thực phẩm bổ sung" (dietary supplements) có thể có tác dụng tốt trên những triệu chứng trầm cảm, nhưng cần nghiên cứu nhiều hơn để xác định loại nào có ích nhất.
Đối với y khoa tại Mỹ, cơ quan kiểm soát thực phẩm và thuốc (FDA) không công nhận những chất bổ sung này là "thuốc" (drug, medicine), dù cần toa hay không, để trị bịnh trầm cảm. Cho nên FDA có thể không quản lý và kiểm soát các chất này lúc chúng được quảng cáo và bán trên thị trường. Người dùng các chất này phải tự mình tìm hiểu từ những nguồn thông tin đáng tin cậy, kiểm tra phẩm chất thuốc, dùng liều vừa phải sau khi tham khảo với bác sĩ của mình nếu cần. Điểm quan trọng nhất là không được ngưng thuốc của bác sĩ kê toa một cách đột ngột và thay thế bằng các chất "bổ sung" này. Cũng không được dùng các chất "bổ sung"này chung với thuốc chống trầm cảm do bác sĩ kê đơn vì tác dụng từ hai bên có thể cọng lại và gây tình trạng nguy hiểm, một trong những lý do là mức serotonin trong cơ thể có thể lên cao quá mức.
1. St John Wort: Trong St John's wort: wort=cây, cây thuốc, dược thảo; khóm cây này ra hoa vàng nhìn tương tự như hoa mai chúng ta,vào khoảng tháng 6 lúc lễ ông Thánh Gioan (Baotixita), được dùng ở châu Âu từ thời cổ đại Hy-lạp để trừ tà và chữa nhiều bịnh khác nhau, như bịnh ngoài da, bịnh hành kinh phụ nữ, bịnh đau nhức. Chất “bổ sung thảo dược” (herbal supplement) này không được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) chấp thuận để điều trị chứng trầm cảm ở Hoa Kỳ, nhưng được dùng để điều trị trầm cảm phổ biến ở Châu Âu. Mặc dù có thể hữu ích cho trầm cảm nhẹ hoặc trung bình, cần cẩn thận. St. John Wort có thể tương tác với nhiều loại thuốc, bao gồm thuốc giảm cân, thuốc ngừa thai, hoá trị liệu, thuốc chống HIV / AIDS, thuốc chống cơ chế đào thải của cơ thể sau khi cấy ghép các bộ phận (drugs against organ rejection). Ngoài ra, tránh dùng St. John Wort trong khi dùng thuốc chống trầm cảm - sự kết hợp có thể gây ra các phản ứng phụ nghiêm trọng.
2. SAMe: "Chất bổ sung" này là một dạng tổng hợp của một chất hóa học xảy ra tự nhiên trong cơ thể. SAMe (phát âm “Xam-I”) viết tắt của S-adenosylmethionine. SAMe không được FDA chấp thuận để điều trị chứng trầm cảm ở Hoa Kỳ, nhưng được sử dụng ở Châu Âu như một loại thuốc theo toa để điều trị chứng trầm cảm. SAMe ảnh hưởng đến chất truyền dẫn serotonin trong não bộ. SAMe có thể hữu ích, nhưng cần nhiều nghiên cứu hơn. Trong liều cao hơn, SAMe có thể gây buồn nôn và táo bón. Không sử dụng SAMe nếu bạn đang dùng thuốc chống trầm cảm theo toa/đơn - kết hợp cả hai thứ có thể dẫn đến các phản ứng phụ nghiêm trọng.
3. Omega-3 fatty acids:
Hiện nay một trong những bận tâm lớn của y khoa phòng ngừa là tìm cách hạ cholesterol trong máu để giảm những biến cố về tim mạch như tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim. Tuy vấn đề này còn trong vòng tranh luận, có những bằng chứng cho thấy ăn ít mỡ và hàm lượng cholesterol thấp trong máu có thể liên hệ đến bịnh trầm cảm và tự sát (mood disorders; "rối loạn về tâm cảnh"). Lý do là cholesterol đóng vai trò quan trọng trong trong việc tổng hợp serotonin, trong biến dưỡng các tế bào thần kinh và trong những hormone liên quan đến stress và tính dục (stress and sex hormones) cũng như biến dưỡng của vitamin D; các chất này cũng có vai trò quan trọng trong trạng thái tâm lý , tình cảm của con người.
Trong bối cảnh đó, có những khảo cứu cho thấy một số chất béo như a-xít béo omega-3 có thể có ích cho sức khoẻ tình cảm, làm giảm các triệu chứng trầm cảm.
Những chất béo này được tìm thấy trong cá sống trong nước lạnh (cold water fish), hạt lanh (flaxseed), dầu hạt lanh (flaxseed oil; (chỉ ăn tươi, không được nấu nướng sẽ làm hư axit béo omega-3), hạt óc chó (walnut) và một số thực phẩm khác. Chất Omega-3 dùng như là bổ sung thực phẩm đang được nghiên cứu về khả năng chữa bịnh trầm cảm và triệu chứng trầm cảm ở những người bị rối loạn lưỡng cực (bipolar disorder hay “manic-depressive”,người bịnh có những cơn hăng say hay "mania" xen kẻ với những cơn trầm cảm hay 'depression"). Mặc dù được xem là an toàn, omega-3 có thể có vị tanh như mùi cá, và với liều lượng cao, nó có thể tương tác với các thuốc khác. Mặc dù ăn các thực phẩm có axit béo omega-3 có thể có lợi cho sức khoẻ tim mạch, cần nhiều nghiên cứu hơn để xác định xem nó có ảnh hưởng đến việc ngăn ngừa hoặc cải thiện tình trạng trầm cảm hay không.
4. Chiết xuất từ “nghệ tây” (saffron extract; saffron=crocus sativus; lấy từ phần stigma của hoa safron, không phải củ nghệ của ta) có thể cải thiện triệu chứng trầm cảm, nhưng cần nhiều nghiên cứu hơn. Liều cao có thể gây ra các phản ứng phụ đáng kể.
5. 5-HTP. (5-hydroxytryptophan), hiện có bán trên thị trường tại Hoa Kỳ, nhưng đòi hỏi phải có toa thuốc ở một số quốc gia. Sử dụng 5-HTP có thể cải thiện mức độ serotonin là một chất dẫn truyền trong hệ thần kinh có ảnh hưởng đến trạng thái vui buồn (serotonin thấp đi đôi với bịnh trầm cảm), giấc ngủ, khẩu vị (dùng cho người mập bớt ăn lại) nhưng bằng chứng chỉ sơ bộ và cần nhiều nghiên cứu hơn nữa. Có một mối lo ngại về an toàn khi sử dụng 5-HTP, nhất là nếu dùng liều quá cao, hay dùng kèm theo một thuốc chống trầm cảm khác, có thể gây ra một bịnh thần kinh nguy hiểm, hội chứng serotonin (bứt rứt khó chịu, toát mồ hôi, tim đập nhanh, loạn nhịp, chết).
6. Dehydroepiandrosterone, còn được gọi là DHEA, là một hormone của cơ thể bình thường do tuyến thượng thận tiết ra. Nồng độ DHEA cao nhất trong máu vào tuổi 20-30; đến tuổi 40 giảm xuống chỉ còn một nửa; tới 65 tuổi chỉ còn 10-20%. Sự thay đổi hàm lượng DHEA có liên quan đến chứng trầm cảm. Một số nghiên cứu sơ bộ cho thấy triệu chứng trầm cảm được cải thiện khi dùng DHEA như một chất bổ sung chế độ ăn uống - tuy nhiên, cần nhiều nghiên cứu hơn. Một khảo cứu trên 46 bịnh nhân nam và nữ 45-65 tuổi bị trầm cảm chữa bằng DHEA 90-450mg trong 6 tuần giảm triệu chứng đến 50%.(Schmidt 2005) . Mặc dù nó thường thường không gây vấn đề gì, DHEA có thể gây tác dụng phụ nghiêm trọng, đặc biệt nếu sử dụng với liều cao hoặc lâu dài. DHEA có thể làm tăng hormone nam testosterone hay nữ estrogen; một số người dùng DHEA để được "cường dương", tăng libido. Có thể gây các biến chứng làm da nhờn, khó chịu dạ dày, phụ nữ mọc lông nhiều trên mặt, tiếng trầm xuống ồ ể như đàn ông,rới loạn kinh nguyệt, nhức đầu, nghẹt mũi, mất ngủ, áp huyết lên cao. DHEA trong “khoai lang hoang” (wild yam) không có hiệu quả; "wild yam" chứa chất diosgenin cho nên có thể dùng để chế biến ra DHEA trong phòng thí nghiệm, tuy nhiên mặc dù một số quảng cáo dùng wild yam như "DHEA thiên nhiên", chuyện này không đúng vì cơ thể chúng ta không chuyển hoá diosgenin thành DHEA được, phải dùng thuốc DHEA thật nếu thật sự cần thiết.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Ung thư gan ở Châu Á có liên hệ tới thảo dược

Các nhà nghiên cứu vừa phát hiện nhiều bằng chứng cho thấy có mối liên hệ giữa các thảo dược cổ truyền của Trung Quốc với ung thư gan trên khắp khu vực Châu Á, theo một cuộc nghiên cứu công bố ngày 18/10.
Phát hiện cho thấy cần có các biện pháp mạnh tay hơn để ngăn mọi người tiêu thụ các hóa chất gọi là aristolochic acids (AA), có mặt trong nhiều loại dược liệu trong y học cổ truyền thuộc họ mộc hương, theo báo cáo đăng trên tạp chí y học Science Translational Medicine.
Các nhà nghiên cứu thí nghiệm 98 khối u gan tại các bệnh viện ở Đài Loan và phát hiện 78% chứa các mẫu biến đổi cho thấy ung thư có rất nhiều khả năng do có tiếp xúc với các hóa chất này.
Họ cũng nghiên cứu 89 mẫu bệnh phẩm ung thư gan ở Trung Quốc và 47% cho thấy có liên hệ với độc tố vừa kể.
Tại Việt Nam, trong số 26 khối u gan được nghiên cứu thì có 5 trường hợp (19%) có liên hệ với chất acid AA trong khi ở các nước Đông Nam Á khác, tỷ lệ này là cứ 9 khối u gan thì có 5 cái có liên hệ với AA.
Mối liên hệ giữa ung thư gan với thảo dược y học cổ truyền Trung Quốc ít thấy hơn ở khu vực Bắc Mỹ, chỉ chiếm 5% trong tổng số 209 ca ung thư gan được khảo sát và trong 230 trường hợp ở Châu Âu, có 1,7% như thế.
Đài Loan vào năm 2003 đã cấm dùng các thảo dược có chứa chất AA để bào chế thảo dược sau khi khám phá rằng AA có thể gây suy thận và ung thư đường niệu.
Tuy nhiên, không có lệnh cấm thẳng thừng rõ ràng tại Đài Loan hay Trung Quốc, khiến người tiêu dùng khó tránh, báo cáo nói.
Theo AFP/ Sciencemag.org

Hội chứng Asperger

"Hội chứng Asperger" là một từ khá lỏng lẻo trong y khoa. Lịch sử: Hans Asperger, một bác sĩ nhi khoa người Áo, là người công bố đầu tiên về hội chứng của những đứa trẻ cử chỉ, hành động vụng về, khả năng cảm thông với người khác và khả năng ‘truyền đạt thông tin không dùng lời nói” (non-verbal communications) cũng giới hạn (năm 1944). Nguyên thuỷ, Asperger dùng từ autistic psychopathy (“bịnh tâm thần tự kỷ”) và công bố của ông không được chú ý lắm. Đến năm 1981, nhà tâm lý học người Anh Lorna Wing “tái khám phá” ra chứng này và đặt tên là Hội Chứng Asperger.
Trong Hội Chứng Asperger người bịnh bị thiếu sót trong khả năng giao tiếp với người khác (tương tác xã hội khiếm khuyết, impaired social interactions) đồng thời sở thích bị giới hạn hoặc có những tập tính lập đi lập lại (restricted interest/repetitive behaviors). Tuy nhiên khả năng trí tuệ, học hỏi (cognitive skills ) vẫn bình thường hoặc trên trung bình, ngôn ngữ phát triển bình thường, và họ sống tự lập được, hoặc còn có thể rất thành công trong một lãnh vực chuyên môn nào đó. Hiện nay, y khoa tâm thần không xếp hội chứng Asperger thành một định bịnh riêng rẽ như trước, mà gom vào "quang phổ tự kỷ' (autism spectrum; bịnh Asperger là một biểu hiện nhẹ trong "quang phổ tự kỷ").
Như chúng ta đã từng bàn trong một buồi nói chuyện trước đây, rất nhiều thiên tài khoa học (như Einstein, Bill Gates, Steve Jobs), văn học, nghệ thuật (như Bob Dylan vừa được giải Nobel về văn chương), chính trị (Abraham Lincoln, Al Gore, Steven Spielberg) bị 'nghi' là mắc chứng Asperger, do đó chúng ta có thể kết luận:
  1. Các nét của HC Asperger không phải luôn luôn là có hại mà có khi có thể hay gắn liền với hay là mầm mống của sự vĩ đại (“exceptional talents”).
  2. Các nét này rất phổ biến, nhưng gọi một ai đó hay chính mình, căn cứ vào tính tình lạnh lùng, quyết đoán và nếp sống cô độc, là mắc chứng Asperger hay 'Aspie' chưa chắc đã chính xác và có lợi.
Cho nên, đối với người mang hội chứng Asperger, nói đến 'chữa bịnh' chưa chắc là một từ thích hợp. Cũng như mọi người khác, họ có những điểm mạnh, sở trường cũng như những điểm yếu, sở đoản làm cho họ gặp khó khăn hơn người khác trong một số tình huống nhất định nào đó. Ví dụ một ở một nhà khoa học thí nghiệm trên thú vật hay bác sĩ giải phẫu, giáo sư về khoa học, khả năng chăm chú vào một lãnh vực nhỏ (overly intense interest), không bị đãng trí vì những tình cảm chi phối, khả năng 'nói nhiều, nói như máy' (“little professor-like, robotic speech) về một đề tài mà họ canh cánh trong lòng nhưng làm người trung bình buồn ngủ,... có thể là những điểm mạnh trong môi trường chuyên môn, kinh viện. Nếu người đó cặm cụi trong công việc mà quên tắm rửa, ăn uống; vụng về với đồng nghiệp, người khác phái; hay có những lời nói ngớ ngẫn, không thích hợp với hoàn cảnh; hay làm tổn thương tự ái người khác đến mức không ai muốn chơi với anh ta, thì lúc đó chuyện thiếu kỹ năng giao tiếp mới trở thành một vấn đề cần cải thiện.
Nói riêng về “chữa trị” cho người lớn mắc chứng Asperger:
  1. Vấn đề huấn luyện truyền đạt ngôn ngữ và học các kỹ năng xã hội (social skill training) ít quan trọng hơn là ở trẻ em, mà những điểm chính sau đây cần được giải quyết:
  2. Học cách thư giãn (relaxation training)
  3. 3)Giúp chọn nghề thích hợp
  4. Chữa những bịnh đi kèm theo, như trầm cảm, bịnh thần kinh phân liệt,rối loạn về ăn uống (như bịnh bỏ ăn anorexia nervosa), bịnh Tourette (bịnh nhân bị các tic như chớp mắt, giật tay chân, nhún vai và chửi thề, văng tục mà không cố ý).
1) Kỹ năng xã hội :
Người mắc Asperger thường bị người khác hiểu lầm, dễ bị la mắng, trách móc bởi người thân cũng như người lạ. Trong lúc đó thì bản thân họ cũng không hiểu rõ lắm tình huống xã hội đang xảy ra (“socially awkward). Ví dụ, người bịnh không hiểu những lời nói bóng gió của người thích mình, cũng như của người ghét mình nhưng không nói thẳng ra. Và bản thân họ thì nói những điếu có thể làm người khác bực mình, ghét hoặc thù. Nếu có được cha mẹ anh em, bạn bè gần với mình và có cơ hội quan sát cách mình xử sự như thế nào, và chịu khó hỏi ý kiến của họ nhờ 'cố vấn, giúp đỡ, có thể mình sẽ dần dần cải thiện đọc được 'ngôn ngữ cơ thể' của người khác, gia tăng cái gọi là 'EQ' (hay Emotional Intelligence, chỉ số “thông minh” về tình cảm, cảm tính) của mình, khả năng 'thông cảm' với người khác. Nên phân biệt "thông minh tình cảm" với tính hành động nóng nảy (impulsivity, impulsiveness) hay đi kèm hội chứng Asperger. Trong quá khứ, văn hoá Việt Nam không khuyến khích chúng ta cười hay mĩm cười sợ làm mất trang nghiêm và điều này không gây trở ngại cho người quang phổ tự kỷ, thường được mô tả là có nết lạnh lùng, không biểu lộ tình cảm. Người Mỹ thì lại thích mĩm cười lúc chào hỏi, lúc chụp hình, nếu không cưới người ta sẽ cho là mình không thân thiện hay khó chịu. Nếu chúng ta thấy mình có vẻ Asperger, nên để ý đến điểm này, xem người khác có hiểu lầm là mình "quạu" hay làm phách hay không.
Người trong quang phổ tự kỷ kể cả người Asperger thích sống với những tập tính (routine), thói quen, một môi trường quen thuộc. Họ gặp khó khăn lúc phải thích ứng với hoàn cảnh mới như dọn nhà, dọn phòng, những đổ dùng của họ bị người khác sắp xếp lại hay lấy dùng. Do đó bạn bè hay người thân có thể nghĩ rằng họ khó chịu, hay theo lối nói trên TV Việt Nam "kỷ tính", thậm chí bủn xĩn, “bần tiện”. Người 'Aspie' nếu ý thức cái 'tật' của mình, có thể giải thích cho người khác thông cảm hiểu rằng những thay đổi như vậy làm cho họ thấy bất an, thấy lo sợ, đồng thời nhờ ý thức được chiều hướng bất lợi của mình trong giao tiếp xã hội, họ tự kiềm chế được, tự đổi hành vi của mình bằng cách tìm hiểu mình hơn và ý thức hơn về bản thân. Cũng vậy, Aspie cũng không chăm sóc bề ngoài của mình, ví dụ chỉ mặc một loại áo quần, không biết ăn diện vì sợ thay đổi và sợ cái mới, cho nên lúc họ tìm bạn khác phái có thể ít gây hứng thú.
Trẻ em hồi nhỏ đã được dạy dỗ kỹ càng những kỹ năng căn bản lúc còn nhỏ tuổi, như:
  • Tự giới thiệu mình nếu muốn nói chuyện với ai, nếu người ta đang nói chuyện với người khác thì không nên chen vào,
  • Không được đến sát người khác quá nhiều ('personal space', ví dụ ở Mỹ, không nên đến sát gần người lạ, giữ khoảng cách 4 feet, bạn bè 1 1/2-3 feet).
  • Chúng hay sờ mó, "phá", hay lấy những đồ vật của người khác mà không xin phép, không hiểu như thế là không chấp nhận được; và điều này có thể dạy dỗ bằng cách lập đi lập lại quy tắc và khuyến khích lúc chúng tuân thủ.
  • Không được ngắt lời người khác đang nói chuyện với mình.
  • Nhìn vào mắt người khác, nhưng có chừng mục, không nhìn chăm chăm.
  • Để ý xem người ta thích hay không thích chuyện gì
  • Không chỉ trích, không nhận xét phiến diện. Đôi khi phải giả ngoại giao một chút. Ví dụ người ta hỏi "Bạn thấy mình nhà quê không, thấy mình mập không? Nếu trả lời "Có, bạn nhà quê thật, mập thật..." là có lẽ mất bạn ngay. Những trường hợp nói không thật, trả lời "không" cho câu hỏi trên có lẽ tốt hơn, lịch sự hơn và gọi là "white lies" (nói láo 'trắng', vô hại), nhưng người Asperger gặp khó khăn phân biệt những trường hợp ‘nói khéo” như vậy..
  • Để ý xem người khác còn muốn nghe chuyện mình hay không. Nếu không chắc thì hỏi ý người ta,"Bạn muốn nghe tiếp không, hay mình bàn chuyện khác?”
  • Ngày xưa, người ta không bàn về chính trị hay tôn giáo với người lạ, chỉ nói về thời tiết. Cũng vậy, mỗi nền văn hoá có những điều cấm kỵ (taboo), như ở Mỹ thì không hỏi quá nhiều về đời tư, ví dụ lương anh bao nhiêu, anh học tới đâu, cái ví đắt thế, mua bao nhiêu tiền...và cũng không nên thổ lộ về những chuyện riêng tư nhiều quá.
  • Để ý người mình nói chuyện muốn ngưng câu chuyện, ngưng không trả lời, ngáp, nhìn đồng hồ, hay liếc mắt ra cửa…
  • Lúc đi phải nhớ chào người ta, thay vì chỉ nói "Bye" trong tiếng Anh, có thể nói "Mình phải đi đây, mai mốt mình gặp lại nhé"...
  • Nếu thiếu sót những điểm này, hay nếu mình không quen với văn hoá nơi mình mới hội nhập, cần hỏi hay đọc sách, vào you tube để tìm hiểu thêm cách ứng xử theo văn hoá địa phương. nên thổ lộ về những chuyện riêng tư nhiều quá.
2)Về thư giãn:
Người Á Đông chúng ta có những phương pháp như yoga, thiền, tụng kinh. Thuần tuý về sinh lý học, các biện pháp này dùng những phương tiện sau:
  • Một nơi yên tĩnh
  • Một “phương tiện/’mẹo’ tâm trí” (“mental device”, theo Bennon và Klipper) tạo nên tiêu điểm (point of focus) cho mình tập trung: một chữ hay câu nói, lập đi lập lại đều đều (tương tự như thần chú hay kinh, không cần hiểu nghĩa của các chữ cũng đươc; có thể tập trung vào hơi thở; để các ý tưởng ra vào đầu óc tự do, nhưng ý nào vào thỉ cứ tự nhiên thải đi, không bận tâm.
  • Thái độ thụ động trong lúc thư giãn, sau 20 phút thì bắt đầu nhúc nhích tay chân, vận động thân thể để về tình trạng linh hoạt bình thường.
  • Tư thế thoải mái.
3)Về nghề nghiệp, người bịnh Asperger có thể có năng khiếu về các nghề STEM, khoa học, kỹ thuật, kỹ sư, toán, không cần tiếp xúc tình cảm với người khác, đòi hỏi làm việc kéo dài có khi trong những môi trường vắng vẻ, cô lập (như trong phòng thí nghiệm, thư viện). Tuy nhiên, học cũng cần được cố vấn để giữ thái độ 'chuyên nghiệp' như chào hỏi tối thiểu, mĩm cười lúc cần, cảm ơn, kiểm soát cơn nóng giận, giữ khoảng cách tối thiểu với người khác phái. Nên tránh say mê quá nhiều các hoạt động cô độc trên internet, máy tính và cố gắng tìm những cơ hội sống với gia đình, bạn bè, xã hội thật, không ảo; nhất là tránh để các cuộc gặp gỡ, nói chuyện, bữa ăn bị gián đoạn liên miên vì các tin nhắn trên iphone. Những năng khiếu như đàn, chơi cờ, thi đố vui (vd Jeopardy, Scrabble) do trí nhớ rất tốt, thích các con số, nên được khuyến khích phát triển , và có thể dùng như một phương tiện giao tiếp, giúp gia nhập các hội đoàn dễ dàng, tạo nên được sự ngưỡng mộ của bạn bè cũng như người khác phái.
Trước đây, ở Việt Nam có cuốn "Đắc nhân tâm, bí quyết của thành công", do Nguyễn Hiến Lê dịch cuốn “How to make friends and influence people của Dale Carnegie (1936) giúp chúng ta tránh những lỗi lầm và học những kỹ thuật để áp dụng lúc gia tiếp với người khác. Và cuốn " Quẳng gánh lo đi mà vui sống" cũng do Nguyễn Hiến Lê dịch từ cuốn “How to stop worrying and start living” (1948), của cùng tác giả, rất có ích cho người đọc giảm bớt sự lo âu của mình. Trên internet, có nhiều nơi vẫn còn phổ biến hai sách này online. Ở Mỹ hai cuốn này vẫn bán rất chạy, có lẽ vì chúng thực dụng và, thời nào cũng vậy, thuật xử thế ("Ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười ở hẹp người chê...) và sự tìm kiếm tĩnh lặng trong cuộc sống cạnh tranh vẫn là những mối bận tâm của mọi người, không riêng gì những người mắc hội chứng Asperger.
Đương nhiên trong điều kiện lý tưởng nên tìm bác sĩ chuyên môn về tâm lý để định bệnh chính xác và để chữa trị những bệnh tâm lý hay tâm thần kèm theo với chứng bệnh Asperger
Bác sĩ Hồ Văn Hiền