Friday, December 9, 2016

Hai vấn đề y khoa cần biết

7 điều nên làm để giữ được trí nhớ
Không thể tìm thấy chìa khóa xe? Quên tờ ghi những món cần khi đi chợ? Không thể nhớ tên của huấn luyện viên bạn thích ở phòng tập thể dục? Bạn không phải là người duy nhất. Ai cũng có lúc quên. Tuy nhiên, không nên coi thường việc mất trí nhớ.
Mặc dù không có gì bảo đảm trong việc ngăn ngừa chứng mất trí nhớ hay bệnh lẩn, một số các hoạt động có thể giúp làm trí nhờ sắc bén hơn, thí dụ như bảy cách đơn giản dưới đây.

1. Giữ cho trí óc hoạt động
Cũng giống như hoạt động thể chất giúp cho cơ thể của bạn được mạnh khỏe, những hoạt động kích thích trí óc giúp cho bộ óc của bạn được minh mẫn - và có thể giúp giữ được trí nhớ. Hãy làm câu đố ô chữ. Chơi cờ. Đi một tuyến đường khác hơn thường ngày khi lái xe. Học chơi một loại nhạc cụ. Tình nguyện làm việc tại trường học hoặc các tổ chức cộng đồng địa phương.

2. Thường xuyên có những tiếp xúc xã hội
Tương tác với những người khác giúp tránh trầm cảm và căng thẳng, cả hai đều có thể góp phần vào việc làm mất trí nhớ. Hãy tạo cơ hội gặp gỡ người thân yêu, bạn bè và những người khác - đặc biệt là nếu bạn sống một mình.

3. Sắp đặt mọi thứ ngăn nắp
Bạn sẽ dễ quên nếu cuộc sống và nhà cửa của bạn bừa bãi. Hãy ghi lại các việc cần làm, các cuộc hẹn và các sự việc khác vào một cuốn sổ tay đặc biệt, cuốn lịch hoặc sổ kế hoạch điện tử. Bạn cũng có thể nói to lên mỗi mục trong khi ghi nó xuống để giúp giữ nó trong bộ nhớ của bạn. Giữ một danh sách những việc cần làm và gạch đi những mục đã hoàn thành. Dành một chỗ riêng cho ví, chìa khóa và những vật thiết yếu khác.
Hạn chế những thứ dễ làm chia trí và không làm nhiều việc cùng một lúc. Nếu bạn tập trung vào các thông tin mà bạn đang cố gắng để nhớ, bạn sẽ có nhiều khả năng nhớ lại nó sau này. Và nếu bạn nối kết những gì đang cố gắng để nhớ với một bài hát yêu thích hoặc một khái niệm quen thuộc thì bạn sẽ dễ nhớ hơn.
4. Ngủ ngon
Giấc ngủ đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp bạn giữ được trí nhớ. Hãy dành ưu tiên cho việc ngủ đủ giấc. Hầu hết các người lớn cần bảy đến chín giờ ngủ mỗi ngày.

5. Ăn uống lành mạnh
Ăn uống lành mạnh tốt cho não và cả tim của bạn. Ăn trái cây, rau và ngũ cốc. Chọn nguồn protein ít béo như cá, thịt nạc và gà không da. Cẩn thận về những thức uống. Uống quá nhiều rượu có thể dẫn đến nhầm lẫn và mất trí nhớ.

6. Hoạt động thể chất hàng ngày
Hoạt động thể chất làm tăng lưu lượng máu đến toàn bộ cơ thể, bao gồm cả bộ não. Điều này có thể giúp giữ cho bộ nhớ của bạn sắc nét.
Đối với người lớn khỏe mạnh, Bộ Y Tế khuyên nên có ít nhất 150 phút một tuần hoạt động hiếu khí (aerobic) vừa phải, chẳng hạn như đi bộ nhanh, hoặc 75 phút một tuần hoạt động hiếu khí mạnh mẽ, chẳng hạn như chạy bộ - trải đều cho cả tuần. Nếu bạn không có thời gian cho một buổi tập luyện đầy đủ, ráng tìm mỗi lần 10 phút đi bộ nhiều lần trong ngày.

7. Chăm sóc các bệnh mãn tính
Thực hiện theo các lời khuyên của bác sĩ về các bệnh mãn tính, chẳng hạn như trầm cảm, huyết áp cao, cholesterol cao, tiểu đường, và suy thận hoặc tuyến giáp có vấn đề. Càng chăm sóc bản thân tốt, bộ nhớ của bạn càng có nhiều khả năng được sắc bén. Ngoài ra, nên xem xét danh sách thuốc mà bạn đang uống với bác sĩ thường xuyên. Vài loại thuốc có thể ảnh hưởng đến trí nhớ.
Khi nào nên đi khám bác sĩ
Nếu bạn lo lắng về việc mất trí nhớ - đặc biệt là nếu mất trí nhớ ảnh hưởng đến khả năng hoàn thành các hoạt động thường ngày của bạn - hãy nói chuyện với bác sĩ. BS có thể sẽ làm một cuộc kiểm tra thể chất, cũng như kiểm tra bộ nhớ của bạn và các kỹ năng giải quyết vấn đề. Đôi khi còn cần thêm các xét nghiệm khác. Điều trị sẽ tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra việc giảm trí nhớ của bạn.
Chọn một nhiệt kế
Việc chọn nhiệt kế tốt nhất cho gia đình có thể làm bạn khó phân biệt. Dưới đây là những gì bạn cần biết về các nhiệt kế thường gặp nhất.
1. Nhiệt kế điện tử (digital):
Loại nhiệt kế này sử dụng các cảm biến nhiệt điện tử để ghi lại nhiệt độ cơ thể. Những nhiệt kế này có thể được đặt trong hậu môn, miệng hoặc nách.
Nhiệt độ ở nách thường ít chính xác nhất. Nhiệt độ hậu môn đúng nhất cho trẻ sơ sinh, đặc biệt là những em 3 tháng hoặc nhỏ hơn, cho đến trẻ em 3 tuổi. Đối với trẻ lớn và người lớn, nhiệt độ đọc ở miệng thường là chính xác - nhưng miệng phải đóng lại trong khi nhiệt kế đang được dùng.
Nếu muốn sử dụng nhiệt kế điện tử để lấy nhiệt độ ở cả miệng và hậu môn, bạn cần phải dùng hai nhiệt kế và gắn nhãn rõ ràng, một dùng ở miệng và một dùng ở hậu môn. Không sử dụng một nhiệt kế cho cả hai nơi.
Những điều thuận lợi của nhiệt kế digital:
- Hầu hết các nhiệt kế digital có thể ghi nhiệt độ ở miệng, nách hoặc hậu môn - thường chỉ trong một phút hoặc ít hơn.
- Nhiệt kế digital thích hợp cho trẻ mới vừa sinh, trẻ sơ sinh, trẻ em và người lớn.
Những khuyết điểm:
- Phụ huynh có thể lo lắng là làm em bé khó chịu khi lấy nhiệt độ của em ở hậu môn.
- Cần phải chờ 15 phút sau khi ăn hoặc uống để lấy nhiệt độ ở miệng. Nếu không, nhiệt độ của thức ăn hoặc thức uống có thể ảnh hưởng đến việc đọc nhiệt kế.
- Có thể khó khăn cho trẻ em - hoặc bất cứ ai thở qua miệng - để giữ miệng đóng đủ lâu để đo được nhiệt độ chính xác.
2. Nhiệt kế tai
Nhiệt kế này sử dụng tia hồng ngoại để đo nhiệt độ bên trong ống tai.
Những thuận lợi:
- Khi để đúng vị trí, nhiệt kế tai nhanh chóng và thường thoải mái cho trẻ em và người lớn.
- Nhiệt kế tai thích hợp cho trẻ sơ sinh lớn hơn 6 tháng tuổi, trẻ lớn và người lớn.
Những khuyết điểm:
- Nhiệt kế tai không được khuyên dùng cho trẻ sơ sinh.
- Ráy tai hoặc ống tai quá nhỏ và cong có thể làm bớt tính chính xác của nhiệt kế tai.
3.Nhiệt kế núm vú digital
Đứa bé chỉ cần nút núm vú nhiệt kế này cho đến khi nhiệt độ cao nhất được ghi nhận.
Những thuận lợi:
- Con bạn không nhận ra nó đang được đo nhiệt độ.
Những khuyết điểm:
- Nhiệt kế núm vú digital không được khuyên dùng cho trẻ sơ sinh.
- Để có kết quả chính xác nhất, đứa bé phải giữ núm vú trong miệng khoảng 3- 5 phút - điều khó khăn cho nhiều trẻ nhỏ.
- Nghiên cứu gần đây không cho thấy nhiệt kế này chính xác.
4. Nhiệt kế mạch thái dương
Nhiệt kế này - thường được bán như nhiệt kế trán - sử dụng một máy quét hồng ngoại để đo nhiệt độ của động mạch thái dương ở trán.
Những thuận lợi:
- Nhiệt kế mạch thái dương có thể ghi nhiệt độ một cách nhanh chóng và được chấp nhận dễ dàng.
- Nhiệt kế mạch thái dương thích hợp cho trẻ sơ sinh lớn hơn 3 tháng và cho trẻ lớn. Nghiên cứu mới cho thấy nhiệt kế động mạch thái dương cũng chính xác cho một trẻ mới sinh.
- Nghiên cứu gần đây cho thấy nhiệt kế động mạch thái dương là lựa chọn tốt nhất sau nhiệt kế digital hậu môn để đo nhiệt độ của một đứa trẻ.
Những khuyết điểm:
- Nhiệt kế động mạch thái dương đắt hơn các loại nhiệt kế khác.
Nhiệt kế thủy ngân sử dụng thủy ngân bọc trong thủy tinh để đo nhiệt độ cơ thể. Nhiệt kế thủy ngân không còn được khuyến khích bởi vì nó có thể bị vỡ làm thủy ngân độc hại chảy ra ngoài.
Nếu bạn có một nhiệt kế thủy ngân, không nên vứt nó vào thùng rác. Liên lạc với chương trình gom rác tại địa phương để xem họ có nơi thu gom rác nguy hại tại khu vực của bạn không.

Ợ hơi và nhịp tim

Ợ hơi
Trong hệ tiêu hoá luôn luôn hiện diện một lượng khí (gas) nào đó, từ dạ dày (stomach) xuống trực tràng (rectum) là đoạn cuối ruột già (colon). Khí này có thể là do chúng ta nuốt không khí lúc ăn uống, có thể do ăn quá nhanh, do trong thức uống có khí (như soda), hay do những thức ăn tạo nên gas, đặc biệt là những thức ăn còn lại trong ruột già, không được hấp thụ, bị các vi khuẩn trong ruột già làm lên men, và cơ chế này sinh ra khí. Một số thức ăn như hột mít, đậu, khoai lang có thể làm có nhiều khí trong ruột. Người gốc Đông Á, không quen uống sữa qua nhiều ngàn năm nên ruột họ thiếu chất men gọi là lactase dùng để tiêu hoá chất đường lactose trong sữa, hay những thức ăn chế biến từ sữa như phô ma, bơ, bánh kem... Họ có thể bị sình bụng, đau bụng, tiêu chảy sau khi ăn các món này. Người mắc chứng "ruột khó chịu" (IBS, irritable bowel syndrome) cũng cảm thấy sình hơi, hay muốn đi cầu. Một số bệnh viêm ruột có thể làm khí trong ống tiêu hoá nhiều hơn.
Cũng vì khí luôn luôn hiện diện trong hệ tiêu hoá mà từ lúc em bé chào đời cho đến người lớn, lúc chụp hình quang tuyến bụng, bác sĩ luôn luôn theo dõi các bóng đen của khí trong lòng dạ dày và ruột, là những bộ phận rỗng. Lượng khí này không được nhiều quá, nếu không nó sẽ làm căng dạ dày và ruột quá mức. Trường hợp ruột bị nghẽn, phần trên sẽ căng phồng lên và bệnh nhân sẽ ăn uống vào thì ói ra.
Bình thường, khí dư sẽ đi qua hai ngã: phía trên do ợ hơi (belching, burping, eructation) và phía dưới do trung tiện (passing gas, flatus). Riêng về trung tiện, người ta thấy trung bình người lớn làm việc này chừng 6-20 lần/ngày; chuyện này làm một cho một số người cả thẹn lo ngại và xấu hổ. Tuy nhiên, nói chung, trung tiện nhiều không có hệ quả gì quan trọng về y khoa.
Nói về chứng ợ hơi hay ợ chua, chua là vì trong dạ dày có a xít rất mạnh là HCl để tiêu hoá thức ăn. Tiếng Anh trong y khoa gọi là eructation, thông thường gọi là belching hay burping. Đối với người Tây phương, ợ hơi trước mặt người khác là đều tối kỵ, tuy nhiên, đối với một số người châu Á, ợ hơi hai ba lần sau khi ăn ngấu nghiến món ngon có thể là một cách chứng tỏ mình thưởng thức bữa ăn của gia chủ.
Người già ợ hơi nhiều hơn, có thể do tiêu hoá chậm hơn, ví dụ vì dạ dày co bóp ít hơn (gastroparesis), bệnh gan và túi mật, viêm tùy tạng (pancreatitis) bệnh khó tiểu ("dyspepsia"), loét dạ dày (gastric ulcer), tràn dịch thức ăn lên thực quản do cơ giữa dạ dày và thực quản đóng không kín (hiatal hernia). Hơi ợ có thể do sulfur trong thức ăn (trứng, thịt), hay do nhiễm trùng, có khi nhiễm trong phổi (ví dụ áp xe trong phổi).
Nhịp tim
Tim là một cái máy bơm máu cho chúng ta một cách tự động, từ lúc còn phôi thai trong bụng mẹ, lúc phôi thai (embryo) được chừng 4 tuần lễ, cho đến khi lìa đời. Tim đập đều đặn, ở người lớn chừng 80 lần/phút, có nghĩa là chưa tới 1 giây bóp một lần, một hệ thống tự động trong tâm nhĩ (atrium) gửi đi một kích thích bằng điện (electric impulse) tỏa ra khắp tim, làm tim co bóp lại, đem máu đen lên phổi (pulmonary arteries), và đem máu đỏ (giàu oxxy, qua aorta) đến các bộ phận trong cơ thể nuôi dưỡng chúng. Thời kỳ đó gọi là "thu tâm" (tim co lại, systole), trái với thời kỳ "trương tâm" (diastole) ở giữa 2 lần co bóp, lúc trái tim nghỉ, trong lúc chờ máu chảy vào đầy 2 bên tâm thất phải và trái. Nếu do một chuyện kích thích bất thường nào đó, tim bóp thêm một cái trật nhịp, thì lần bóp đó gọi là co bóp "ngoài thu tâm", ý nói ngoài thứ tự thu tâm theo thời gian đều đặn bình thường (extrasystole, premature contraction, PVC: premature ventricular contraction).
Sau mỗi extrasystole, tim nghỉ ngơi lâu hơn mọi khi, và co bóp theo sau đó mạnh hơn, làm người bệnh cảm giác như tim ngừng đập một lúc, rồi tim đập mạnh thình thịch, kèm theo cảm giác lo âu ("thót tim") mà tiếng Anh thường gọi là "palpitation", tạm dịch là "hồi hộp', hay "con tim thổn thức". Khác với lúc bình thường, chúng ta không để ý, không ý thức là trái tim mình đang đập, làm việc liên tục.
Hội Chứng Roemheld
Bây giờ bàn đến ợ hơi và tim co bóp ngoại thu tâm, chúng ta sẽ bàn về một liên hệ giữa trái tim và dạ dày hay hệ tiêu hoá nói chung (gastro-cardiac connection). Xin nhắc lại ở đây là trái tim nằm trong lồng ngực, giữa hai lá phổi, trên một màng cơ (bắp thịt) mỏng, gọi là hoành cách mô (diaphragm). Ngay phía dưới hoành cách mô, bên tay trái là dạ dày, bên giữa là ruột. nằm sát phía sau tim là thực quản, cái ống tiếp nhận thức ăn sau khi nuốt vào và đem vào dạ dày. Cho nên lúc chúng ta nuốt miếng gì quá lớn, tim ở phía trước thực quản có thể bị ảnh hưởng.
Lúc khí gas chứa đầy làm căng dạ dày ruột kế cận (cũng là lúc phải ợ hơi để giảm áp suất khí trong dạ dày), hoành cách mô có thể bị đẩy dồn về phía trên, làm tim bị đẩy qua thế khó làm việc hơn, và do đó tim phải tự đều chỉnh, bóp mạnh hơn để máu được đẩy đi mạnh hơn.
Một yếu tố thứ hai: liên hệ thần kinh. Thần kinh sọ số 10 (TKX) toả rộng nhiều nơi, kể cả tim và dạ dày ruột, do đó có tên "vagus nerve", (vagus= mờ ảo, không rõ ràng). TKX ảnh hưởng đến tim làm tim đập chậm lại, làm thức ăn qua dạ dày mau hơn, làm tiêu hoá nhanh hơn. Lúc dạ dày, ruột trong bụng căng, ví dụ sình hơi, dây TKX có thể bị chen ép, kích thích, làm kích thích trái tim làm cho nó đập chậm hơn, hạ áp huyết xuống thấp. Để tái lập quân bình, hệ thần kinh tụ dưỡng phản ứng lại, làm mạch máu co lại, làm tim bóp mạnh thêm, nhiều lúc vì phản xạ tự vệ này, tim có thể bị kích thích quá mức, mạch vành nuôi tim (coronary arteries) co lại quá nhiều là tim không đủ máu nuôi dưỡng (đau tim), làm tim bị đập loạn nhịp, mà một hình thức của loạn nhịp tim là các co bóp ngoại thu tâm chúng ta mô tả ở trên.
Ludwig Roemheld là một bác sĩ nội thương người Đức đầu thế kỷ thứ 20, cách đây gần 100 năm từng tả một hội chứng ở những người tim bình thường, không mắc bệnh tim, nhưng nguyên nhân nằm ở hệ tiêu hoá, nhất là dạ dày và ruột như mô tả ở trên. Được gọi là Hội Chứng Roemheld hay Gastrocardiac Syndrome, gồm:
- Đau giữa hay bên trái ngực
- Hồi hộp, tim có extrasystole
- Khó thở, hụt hơi
- Khó ngủ, chóng mặt.

Nên nhớ là hồi thập niên 1920's, chúng ta chưa có những phương tiện y khoa như bây giờ. Chưa có chụp hình ảnh ruột, tim, đo tim v.v... Hiện nay, các bác sĩ y khoa rất ít khi nhắc đến hội chứng Roemheld nữa. Tuy nhiên, một số khá đông bệnh nhân vẫn có những triệu chứng như đau vùng ngực, hồi hộp khó thở, palpitation, ngất xỉu mà đến bác sĩ tim nghiên cứu tìm tòi thì mọi thứ kết quả về tim vẫn bình thường. Một số bác sĩ sẽ giải thích bằng y khoa tâm thể (psychosomatic medicine), nghĩa là bệnh nhân có uẩn khúc về tâm lý và bệnh biểu lộ qua triệu chứng vật thể (đau tim...). Một số bs nghĩa rằng tim đập lộn xộn do rối loạn ở thực quản (nằm sau tim) như hiatal hernia (thoát vị do một phần trên dạ dày nằm trong lồng ngực, trên hoành cách mô), hay thực quản co thắt (esophageal spasm), những điều mà có thể chứng minh trên quang tuyến được (chụp thực quản, dạ dày bằng cản quang, Upper GI series).
Tuy nhiên, một số bệnh nhân vẫn còn bị bệnh sau khi khám tim và thử nghiệm nhiều nơi không có kết quả, cho đến khi chính họ hoặc bác sĩ để ý đến mối liên hệ giữa cách ăn uống và triệu chứng. Nhóm này vẫn tin hội chứng Roemheld là có thật. Thay đổi cách ăn uống, để ý tác dụng các món mình ăn có thể giúp cho nhóm người này tránh những triệu chứng khó chịu do ảnh hưởng của sự "khó tiêu" sình hơi gây ra:
- Giảm bớt các thức ăn khó tiêu, gây ra nhiều hơi sình bụng; thức ăn giàu chất xơ có thể giúp bớt bón nhưng có thể sinh hơi trong ruột, một số thức ăn giàu tinh bột, khó tiêu như khoai, sắn, cơm để nguội hâm lạ...i
- Tránh những thức ăn uống mà mình không hạp,
- Ví dụ các chất có sữa, bơ hay dùng viên thuốc có men lactase lúc phải ăn những thứ chế biến từ sữa
- Tránh các nước có khí (carbonated drinks)
- Đừng ăn no quá
- Giảm cân nếu quá mập
- Tập thể dục,đi lại, vận động nhiểu hơn.
- Dùng những thuốc không cần toa để giảm gas trong ruột như simethicone.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Friday, December 2, 2016

Ngón tay bóp cò bẩm sinh (Congenital trigger finger)

Các ngón bàn tay chúng ta được điều khiển bởi những cơ bắp nằm trên cẳng tay (forearm), cùng với một số cơ nhỏ hơn của bàn tay. Lúc chúng ta co ngón tay lại, vận động những cơ co ngón tay (flexor digitorum) hay cơ co ngón cái (flexor pollicis longus). Phía lưng bàn tay và cổ tay, có những cơ phụ trách kéo các ngón tay ngược lại, làm chúng duỗi ra (extensor digitorum, extensor pollicis).
Từ bắp cơ nằm trên cẳng tay, những dây gân chạy xuống lòng bàn tay. Qua khỏi lòng bàn tay, gân các cơ duỗi ngón (flexor tendons) chui trong một đường hầm, trên là mô sợi dưới là xương (fibro-osseous tunnel), rồi bám vào các khúc xuơng ngón tay, như một sợi dây chạy qua nhiều con ròng rọc (pulley), làm chuyễn hướng lực cơ co rút phía trên cẳng tay, đổi thành cử động các ngón tay co vào theo đường cung, như lúc chúng ta vẫy tay ngoắc ai đến gần.
Những sợi gân này chạy lui tới trơn tru. Nếu trong hành trình này, ở một nơi nào đó sợi gân cơ flexor quá to, hay đường hầm xương và xơ (fibro-osseous tunnel) eo hẹp làm con ròng rọc (pulley) quá chật, sợi gân bị kẹt (locked), ngón tay không duỗi ra hoàn toàn được, và khi cơ duỗi cố gắng kéo ngón tay thẳng ra, ngón tay bật trở ra (“the finger straightens with a snap”) , như lúc cò súng sau khi bóp vào, bật nhả ra cho nên được gọi là “trigger finger”, "ngón tay cò súng ". Có thể phải cần dùng bàn tay kia phụ vào, khắc phục chỗ gân bị kẹt, kéo mạnh hơn, mới kéo ngón tay thẳng ra được. Các khảo cứu bằng siêu âm ở trẻ em cho thấy đường kính sợi gân quá to so với đường kính đường hầm xương và xơ nó đi qua, và không ghi nhận hiện tượng viêm (khác với bệnhngười lớn).
Trong chứng ngón tay bóp cò bẩm sinh, thường nhất ở ngón tay cái. Chừng 300 trẻ mới có một trường hợp, hoặc hiếm hơn nữa và triệu chứng xuất hiện trong năm đầu. Bé không duỗi ngón tay ra được, và ở dưới gốc ngón tay, có thể sờ thấy được một cái hạt nhỏ gọi là hạt Atta (Atta nodule). Thường các ngón không phải ngón cái tự phục hồi dễ hơn. Trên 30% trường hợp tự nó sẽ khỏi. Một nhóm khác cũng từ Hàn quốc (Moon và cộng sự), chờ đếm 7.700 trẻ sơ sinh để xem tỷ lệ xảy ra lúc mới đẻ là bao nhiêu thì không ghi nhận được ca nào cả. Như vậy có lẽ hầu hết bệnhxuất hiện một thời gian sau khi bé đã chào đời, bệnhcác ngón tay cái xuất hiện trễ hơn các ngón kia. Họ nghiên cứu 35 ngón tay cái bị bịnh, thì 12 ngón tự khỏi (1/3) và 23 ngón phải giải phẫu.
Những khảo cứu gần đây còn lạc quan hơn nữa. Trong một công bố gần đây của Hàn quốc (Baek), người ta theo dõi 71 ngón tay cái của 53 bệnhnhân (nhiều trẻ bị hai tay) bệnhtrong 2 năm mà không chữa trị gì cả. Kết quả cho thấy 45 ngón tay (63%) trở nên bình thường. Trong 26 trẻ chưa hết hẳn, 22 trẻ có tiến bộ rõ rệt. Nói chung, trên 60 ngón tay tự khỏi sau 24 tháng, và đa số ca còn lại tiếp tục cải thiện với thời gian. Nên nhớ trigger finger trẻ em hoàn toàn khác bệnhở người lớn.
Nếu cần, bs có thể quyết định giải phẫu, lúc bệnh nhân 1-3 tuổi. Bác sĩ rạch một đường nhỏ ở gốc ngón tay, giải phóng sợi gân ở chỗ hẹp nơi con ròng rọc. Ngón tay được bất động chừng 1 tuần, sau đó sinh hoạt bỉnh thường. Ít khi bệnhtái lại. Kỹ thuật và khả năng bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật tay quan trọng, để tránh hư hại các dây thần kinh kế cận.Theo Wheeless'Textbook of Orthopedics, nếu đến 12 tháng tuổi mà bệnhkhông thuyên giảm, cần cân nhắc đến chuyện nên giải phẫu hay không.Tuy nhiên nên hoãn đến lúc em bé 2 tuổi, nhưng đừng đợi quá 3 tuổi vì cơ nguy ngón tay bị co rút.Thường cần gây mê để giải phẫu. Biến chứng chính là tổn thương các dây thần kinh (digital radial nerve) đi gần sợi gân cơ co ngón tay (flexor tendon). Theo dõi lâu dài, chứng trigger finger không tái lại, tuy nhiên chừng 1/5-1/6 bị giới hạn cử động các khớp của ngón tay.
Ở người lớn trigger finger liên hệ đến những điều kiện khác như bệnhxương khớp, thoái hoá khớp, bệnhco rút gân bàn tay (Dupuytren contracture), chấn thương và cần trị liệu mạnh mẽ hơn (như bất động, đắp đá, chích thuốc corticoid, giải phẫu nếu cần).
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Lichen phẳng và Hội chứng rát miệng/lưỡi

I. Lichen planus
Lichen gốc Hy lạp và La tinh có nghĩa là mốc, nấm mọc lan ra chung quanh trên cây olive (từ "lick= liếm" cũng có từ gốc này). Từ lichen trong y khoa dùng để chỉ những mẩn ngoài da nổi cộm lên có mặt phẳng (flat papules). (đọc là “lai-kơn” ở Mỹ [/ˈlɑɪ·kən/], “li-shơn” [ /ˈlɪtʃ.ən/ ] theo giọng Anh)
Lichen planus (planus=phẳng) chỉ một bệnh riêng biệt ngoài da. Các vết nổi cộm, nhẵn, bóng, tím đỏ, thường không có vẩy, ngứa hay đau, thường từng chùm, vùng cổ tay (phía lòng bàn tay), cổ chân, phía dưới lưng; có thể mọc ở miệng và bộ phận sinh dục, có những đường vân trắng phía trên, giống như dentelle (lacy white lines, hay Wickham striae). Phụ nữ bị bệnh miệng (oral lichen planus) nhiều hơn nam giới. Lichen planus có thể liên hệ tới một số thuốc chữa áp huyết cao (thiazide, ACE inhibitors), thuốc chống viêm không phải corticoid (NSAIDS), hay liên hệ tới bệnh viêm gan C.
Lichen planus trong miệng có thể là những vệt trắng, có vân, thường trong má, hay có thể là lở miệng, viêm nướu răng, sưng đỏ.
Lichen planus không phải do nhiễm trùng, nên không lây (not contagious). Không phải ung thư. Không phải bệnh di truyền.
Chuyển biến tự nhiên: bệnh lichen planus mãn tính (chronic), nhưng có khuynh hướng tự giới hạn. Đa số hết bệnh sau 1- 2 năm, có thể chỉ sau vài tháng, mà không cần chữa trị. 1/5 bệnh nhân sẽ bị bệnh thêm một lần nữa. Một số ít tái đi tái lại nhiều lần (recurrences). Bệnh trong miệng có thể dai dẳng hơn.
Chữa trị:
Chữa triệu chứng nếu cần để giảm đau và sưng. Đa số không có triệu chứng hay ít triệu chứng, không cần chữa (tuy nhiên cần định bệnh chính xác là lichen planus chứ không phải bệnh quan trọng hơn như ung thư, nấm, vv)
1. Các thuốc thoa da có corticoid mạnh (vd betamethasone, clobetasone); topical calcineurin inhibitors, vd tacrolimus (Protopic) và pimecrolimus (Elidel). Kem Corticoid, calcineurin inhibitors cũng dùng cho lichen planus ở trong miệng.
2. Nên giữ vệ sinh miệng như đánh răng, floss chân răng.
2. Các thuốc kháng histamine cho bớt ngứa, gãi.
3. Các trường hợp nặng có thể bác sĩ dùng corticoid uống (prednisone), hay thuốc tác dụng trên hệ miễn nhiễm (immunosuppressants, do nguồn gốc tự nhiễm của bệnh).
5. Trị liệu bằng ánh sáng cực tím (phototherapy with ultraviolet light).
II. “Hội chứng rát miệng/lưỡi” (burning mouth syndrome, glossodynia, glossopyrosis) hay "bệnh miệng phỏng", có nghĩa là bệnh nhân mỗi ngày có cảm giác như miệng mình bị phỏng, rát và đau, kéo dài hàng tháng và có thể lâu hơn nữa.
Chúng ta gọi đây là một hội chứng (syndrome) vì đây là một số hiện tượng đi với nhau, được bác sĩ ghi nhận nhưng vẫn không hiểu nguyên nhân chính xác và không có thử nghiệm hay phương tiện nào để định bệnh chính xác. Vì có thể bác sĩ khám và thử nghiệm không có gì bất thường, với triệu chứng có vẻ mơ hồ, bệnh nhân có thể bị bác sĩ chuyển từ bác sĩ này qua bác sĩ khác, hoặc bs nghi là bệnh tưởng tượng hay bệnh tâm thần.
Bệnh nhân phái nữ nhiều hơn là nam, nhất là phụ nữ sau thời kỳ tắt kinh (postmenopausal women). Bệnh nhân sáng ngủ dậy, thấy bình thường, sau đó thì lưỡi, có thể nơi khác trong miệng, bắt đầu đau đớn, càng lúc càng tăng và cho đến chiều tối. Có thể kèm theo các triệu chứng của bệnh lo âu (anxiety), trầm cảm (depression), tiểu đường loại 2 (type 2 diabetes), bệnh thiếu những vitamin (B1, B2, B6) hay chất dinh dưỡng (zinc), nhưng trong nhiều trường hợp thì dù chữa những bệnh kèm theo đó bệnh “phỏng miệng” hay “rát miệng” vẫn không khỏi.
Trị liệu chứng rát miệng/lưỡi:
1. Bác sĩ có thể tìm cách chữa “Hội chứng rát miệng” bằng thuốc trầm cảm (antidepressant, vd amitriptyline [Elavil]), uống thuốc an thần (vd benzodiazepine: clonazepam [Klonopin]), thuốc chống co giật (anticonvulsants, e.g. Carbamazepine [Tegretol], gabapentin, oxcarbazepine, có khả năng làm giảm các cơn đau do viêm dây thần kinh), vitamin.
Clonazepam dissolvable wafers: thuốc clonazepam (Klonopin) là một thuốc chống co giật và lo âu (anxiety disorders). Một khảo cứu dùng thuốc này tại chỗ (topical) cho 33 bệnh nhân và sau 1 tháng cũng như sau 6 tháng, chừng 2/3 (23/33) bệnh nhân dùng thuốc có thể giảm 50% triệu chứng, so với chừng 10% (4/33-2/33) những người dùng thuốc giả (placebo). Trong một khảo cứu khác, tác dụng clonazepam trong miệng được kết hợp với tác dụng toàn thân: 36 bệnh nhân cho viên thuốc tan trong miệng trước khi uống, 3 lần/ngày trong 6 tháng. 80% giảm đau (trên 50%) sau 6 tháng (Amos K.,Yeoh SC, Farah CS).

2. Dùng tác dụng của chất capsaicin trong ớt (desensitization of afferent C fiber endings): súc miệng bằng hỗn hợp 1 phần ớt 2 phần nước, tăng dần đến mức 1 phần ớt+1 phần nước. Súc miệng nhiều lần trong ngày.
3. Một số bệnh nhân có thể bị hội chứng rát miệng vì dùng thuốc hạ áp huyết loại ACE inhibitor (vd lisinopril), ngưng thuốc sẽ khỏi.
Cơ chế gây "rát miệng”: ‘Hội chứng rát lưỡi’ có thể liên hệ đến cơ năng vị giác. Vị giác phần lớn do thần kinh số 7 (nhánh chorda tympani cho vùng phía trước lưỡi) và thần kinh số 9 (glossopharyngeal nerve, phụ trách phía sau lưỡi) và cảm giác đau ở vùng miệng do thần kinh số 5 (trigeminal nerve) phụ trách. Một sự mất quân bình giữa các dây thần kinh này có thể là một nguyên nhân gây ra hội chứng "rát lưỡi", nhưng đây chỉ là giả thuyết. Người ta nhận xét những người có khả năng "nếm" khác thường (supertasters) hay bị hội chứng rát miệng hơn người thường, có lẽ vì họ có nhiều taste buds hơn.
Tiến trình ‘Hội chứng rát lưỡi’:

Trung bình bệnh kéo dài chừng 3-4 năm, có người đến 12 năm.
Tiến trình tự nhiên chưa được nghiên cứu kỹ. Có khảo cứu cho thấy bệnh tự khỏi 5-7 năm.
Đau đớn, ảnh hưởng đến cuộc sống ("well being") và tinh thần người bệnh, không có biến chứng gì đặc biệt.
Nói tóm lại, vị thính giả cần đến bác sĩ gia đình để có một cái nhìn bao quát hơn. Bs hiện giờ là bs chuyên giải phẫu răng hàm mặt. Quan điểm của bs nội thương phân tích tình trạng bệnh lý tổng quát, cũng như bác sĩ thần kinh (neurologist) chuyên về các vấn đề đau nhức do viêm thần kinh (neuritis) có thể giúp ích cho vấn đề trị liệu. Cần xem bệnh rát lưỡi và bệnh lichen planus có phải là hai bệnh khác nhau không. Rát lưỡi kinh niên (glossodynia) có thể do hội chứng rát miệng/lưỡi, hay đau kinh niên trong miệng do viêm thần kinh ba nhánh (trigeminal nerve, 5th cranial nerve) là sợi dây thần kinh sọ số 5 chạy từ tai ra ba nhánh lên trán, vùng mũi và vùng hàm. Tegretol (carbamazepine) có thể được dùng để nhắm vào bệnh này. Bệnh lichen planus có thể là một vấn đề riêng rẽ, và nếu không gây khó chịu như đau đớn, lở loét có thể không cần chữa trị, tuy vệ sinh miệng là quan trọng và cần theo dõi.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.