Monday, October 31, 2016

Chứng rung tâm nhĩ

Rung tâm nhĩ là tim đập bất thường và nhanh, khiến máu không dễ dàng đến các phần của cơ thể. Khi tâm nhĩ rung, hai buồng tâm nhĩ (buồng trên của tim) đánh một cách hỗn loạn và không đều, không phối hợp với hai tâm thất (ngăn dưới của tim). Triệu chứng rung tâm nhĩ thường bao gồm đánh trống ngực, khó thở và yếu ớt.

Trái tim có bốn ngăn - hai ngăn trên gọi là tâm nhĩ và hai ngăn dưới là tâm thất. Trong ngăn trên bên phải của tim (tức tâm nhĩ phải) có một nhóm các tế bào gọi là nút xoang. Đây là máy tạo nhịp tim tự nhiên của trái tim. Nút xoang tạo ra lực đẩy bắt đầu mỗi nhịp đập của tim.

Thông thường, lực đẩy đi qua tâm nhĩ và sau đó qua đường kết nối giữa ngăn trên và ngăn dưới của tim, gọi là nút nhĩ thất (AV node). Khi tín hiệu đi từ nút xoang thông qua tâm nhĩ, các tâm nhĩ co thắt, bơm máu từ tâm nhĩ vào tâm thất bên dưới. Khi tín hiệu đi qua nút AV đến tâm thất, nó báo hiệu để tâm thất co thắt, bơm máu từ tim đến cơ thể của bạn.

Trong chứng rung tâm nhĩ, các tâm nhĩ nhận những tín hiệu điện hỗn loạn khiến chúng rung lên. Các nút AV liên tục nhận những lực đẩy cố gắng đi qua tâm thất làm các tâm thất cũng đập nhanh lên nhưng không nhanh như các tâm nhĩ. Kết quả là ta có một nhịp tim nhanh và không đều. Nhịp tim trong chứng rung tâm nhĩ có thể đập từ 100- 175 nhịp một phút. Bình thường, nhịp tim là từ 60 đến 100 nhịp một phút.
Các cơn rung nhĩ có thể xảy ra và hết đi, hoặc bệnh nhân có thể phát triển chứng rung tâm nhĩ thường xuyên, cần điều trị. Mặc dù rung tâm nhĩ thường không đe dọa tính mạng, nó làmột bệnh nghiêm trọng mà đôi khi cần phải điều trị khẩn cấp vì có thể dẫn đến nhiều biến chứng. Rung tâm nhĩ có thể dẫn đến việc bị cục máu đông ở tim rồi chạy đến các cơ quan khác khiến lưu lượng máu bị tắc nghẽn gây ra chứng thiếu máu cục bộ.
Điều trị rung nhĩ gồm có thuốc men và các can thiệp khác để cố gắng thay đổi hệ thống điện của tim.
Triệu chứng
Một số bệnh nhân bị rung tâm nhĩ không có triệu chứng và không nhận thức được tình trạng của mình cho đến khi nó được phát hiện trong một cuộc khám tổng quát. Những người bị rung tâm nhĩ có thể gặp có các dấu hiệu và triệu chứng như:
- Đánh trống ngực, tức cảm giác nhịp tim đập như chạy đua, không thoải mái, không đều. Hoặc cảm giác đảo lộn trong ngực
- Cảm thấy yếu ớt
- Giảm khả năng vận động
- Mệt mỏi
- Đầu nhẹ hẫng
- Chóng mặt
- Lẫn lộn
- Khó thở
- Đau ngực
Rung tâm nhĩ có thể xảy ra:
- Lâu lâu một lần, gọi là rung tâm nhĩ bộc phát. Triệu chứng đến và đi, kéo dài một vài phút đến vài giờ và sau đó tự ngừng hẳn.
- Dai dẳng. Nhịp tim không tự trở lại bình thường. Bệnh nhân sẽ cần phải được điều trị bằng sốc điện hoặc thuốc để phục hồi nhịp tim.-
- Vĩnh viễn: Nhịp tim không thể trở lại bình thường. Bệnh nhân bị rung tâm nhĩ vĩnh viễn, cần có thuốc để kiểm soát nhịp tim của bạn. Hầu hết các bệnh nhân bị rung tâm nhĩ vĩnh viễn cần uống thuốc loãng máu để ngăn ngừa cục máu đông.
Khi nào nên đi khám bệnh
Nếu có bất kỳ triệu chứng rung tâm nhĩ nào, bạn nên làm hẹn đi khám bệnh. Bác sĩ có thể cho làm điện tâm đồ để xác định triệu chứng của bạn có liên quan đến chứng rung tâm nhĩ hoặc một rối loạn nhịp tim khác không.
Nếu bạn bị đau ngực, nên tìm trợ giúp y tế khẩn cấp ngay lập tức. Đau ngực có thể là triệu chứng một cơn đột quỵ tim.
Nguyên nhân
Cấu trúc của tim bị hư hại hay bất thường là nguyên nhân thông thường nhất của chứng rung tâm nhĩ. Nguyên nhân rung tâm nhĩ gồm có:
- Cao huyết áp
- Cơn đột quỵ tim
- Bệnh động mạch vành
- Van tim bất thường
- Dị tật tim bẩm sinh
- Tuyến giáp hoạt động quá mức hoặc những bệnh về biền dưỡng khác
- Tiếp xúc với các chất kích thích như thuốc, caffeine hoặc thuốc lá, hoặc rượu
- Hội chứng yếu nút xoang (sick sinus syndrome) - máy tạo nhịp đập tự nhiên của tim hoạt động bất thường
- Bệnh về phổi
- Giải phẫu tim trước đó
- Nhiễm virus
- Căng thẳng do viêm phổi, giải phẫu hoặc các bệnh khác
Ngừng thở khi ngủ
Tuy nhiên, một số người bị rung tâm nhĩ không hề có bất kỳ khuyết tật hay hư hại gì của tim. Đây là một tình trạng gọi là rung tâm nhĩ đơn độc. Trong rung tâm nhĩ đơn độc, nguyên nhân thường là không rõ ràng, và các biến chứng nghiêm trọng rất hiếm khi xảy ra.
Tâm nhĩ lay động (atrial flutter)
Tâm nhĩ lay động tương tự như rung tâm nhĩ, nhưng nhịp tim có tổ chức hơn và ít hỗn độn hơn nhịp tim của rung tâm nhĩ. Đôi khi tâm nhĩ lay động có thể phát triển thành rung tâm nhĩ và ngược lại.
Các yếu tố nguy cơ, triệu chứng và nguyên nhân của chứng tâm nhĩ lay động thường tương tự như của rung tâm nhĩ. Ví dụ, stroke cũng là một mối quan tâm cho bệnh nhân chứng tâm nhĩ lay động. Và cũng như với rung tâm nhĩ, tâm nhĩ lay động thường không đe dọa tính mạng khi được điều trị đúng cách.
Yếu tố nguy cơ
Một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ phát triển chứng rung tâm nhĩ.
- Tuổi: Tuổi càng cao, càng có nhiều nguy cơ phát triển chứng rung tâm nhĩ.
- Bệnh tim mạch. Bất cứ ai có bệnh tim - chẳng hạn như vấn đề về van tim, bệnh tim bẩm sinh, suy tim sung huyết, bệnh động mạch vành, hoặc có tiền sử đột quỵ tim hoặc giải phẫu tim - có tăng nguy cơ rung nhĩ.
- Huyết áp cao. Huyết áp cao, đặc biệt là khi không được kiểm soát tốt bằng cách thay đổi lối sống hay thuốc men, có thể làm tăng nguy cơ bị rung tâm nhĩ.
- Các bệnh mãn tính khác, chẳng hạn như các vấn đề về tuyến giáp, ngưng thở khi ngủ, hội chứng biến dưỡng (metabolic syndrome), tiểu đường, bệnh thận mãn tính hoặc bệnh phổi, dễ có nguy cơ rung tâm nhĩ.
- Uống rượu. Đối với một số người, uống rượu có thể gây ra một đợt rung tâm nhĩ. Say rượu có thể có nguy cơ cao hơn.
- Béo phì. Những người béo phì có nguy cơ cao phát triển chứng rung tâm nhĩ.
- Tiền sử gia đình.
Biến chứng
Đôi khi rung tâm nhĩ có thể dẫn đến các biến chứng sau đây:
- Stroke. Trong rung tâm nhĩ, nhịp tim hỗn loạn có thể làm máu đọng lại trong tâm nhĩ và dễ bị đóng cục. Nếu một cục máu đông được thành hình, nó có thể tróc ra, chạy đến óc và chặn dòng chảy của máu, gây ra stroke.
Nguy cơ stroke trong rung tâm nhĩ phụ thuộc vào tuổi tác (nguy cơ cao hơn khi bạn có tuổi) và vào việc bệnh nhân có bị cao huyết áp, tiểu đường, tiền sử suy tim hoặc stroke trước đó, và các yếu tố khác. Một số thuốc, chẳng hạn như chất làm loãng máu, có thể làm giảm nguy cơ bị stroke và tổn hại đến các cơ quan khác gây ra bởi cục máu đông.
- Suy tim. Rung tâm nhĩ, đặc biệt là nếu không được chữa, có thể làm yếu tim và dẫn đến chứng suy tim - một tình trạng tim của bạn không thể bóp ra đủ máu để đáp ứng nhu cầu của cơ thể của bạn.
Định bệnh rung tâm nhĩ
Nếu bạn nghĩ rằng mình có thể bị rung tâm nhĩ, cần hẹn với bác sĩ gia đình của bạn để đi khám bệnh. Nếu rung tâm nhĩ được phát hiện sớm, điều trị sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn. Bạn cũng có thể được giới thiệu đến một bác sĩ tim mạch. Bác sĩ có thể làm những thử nghiệm sau để định bệnh:
- Điện tâm đồ (ECG) sử dụng một cảm biến nhỏ (điện cực) gắn liền với ngực và cánh tay của bạn để ghi lại tín hiệu điện khi chúng đi qua trái tim. Thử nghiệm này là một công cụ chính để chẩn đoán rung tâm nhĩ.
- Holter monitor. Thiết bị ECG di động này được đặt trong túi hoặc đeo trên thắt lưng hoặc dây đeo vai, ghi lại hoạt động của trái tim trong 24 giờ hoặc lâu hơn, cung cấp cho bác sĩ dữ kiện kéo dài về nhịp tim của bạn.
- Ghi sự kiện (event recorder). Thiết bị ECG di động này được thiết kế để xem xét hoạt động của tim trong một vài tuần đến vài tháng. Bệnh nhân kích hoạt chiếc máy khi có triệu chứng nhịp tim nhanh.
Khi cảm thấy triệu chứng, bệnh nhân nhấn nút kích hoạt, và một dải ECG của vài phút trước đó và và vài phút sau đó được ghi lại, cho phép bác sĩ xác định nhịp tim của bạn tại thời điểm có triệu chứng.
- Siêu âm tim. Sóng âm thanh được sử dụng, tạo ra một hình ảnh video của trái tim để xem xét cấu trúc của tim.
- Xét nghiệm máu xem bệnh nhân có bị các vấn đề về tuyến giáp hoặc các chất khác trong máu có thể dẫn đến chứng rung tâm nhĩ.
- Chụp X- ray phổi và tim của bạn, có thể tìm ra bệnh khác cũng có triệu chứng như của bạn.
Tự giúp để chữa rung tâm nhĩ
Chữa chứng rung tâm nhĩ gồm rất nhiều thuốc men hay giải phẫu phức tạp. Tuy nhiên, ngoài những phương pháp chữa trị này, bệnh nhân cũng cần phải thay đổi lối sống để cải thiện sức khỏe tổng quát của trái tim, đặc biệt là để ngăn ngừa hoặc điều trị các bệnh như huyết áp cao và bệnh tim. Bác sĩ có thể đề nghị một số thay đổi lối sống như sau:
- Ăn các loại thực phẩm tốt cho tim. Ăn uống lành mạnh là ăn ít muối và chất béo. Ăn nhiều trái cây, rau và ngũ cốc.
- Tập thể dục thường xuyên. Tập thể dục hàng ngày và tăng cường hoạt động thể chất của bạn.
- Bỏ hút thuốc lá. Nếu bạn hút thuốc và không thể tự bỏ, hãy nói chuyện với bác sĩ về các chiến lược hoặc chương trình cai hút thuốc.
- Duy trì một trọng lượng khỏe mạnh. Cân quá nặng làm tăng nguy cơ phát triển bệnh tim.
- Giữ huyết áp và mức cholesterol trong tầm kiểm soát. Thực hiện thay đổi lối sống và dùng thuốc để điều chỉnh huyết áp cao (hypertension) hoặc cholesterol cao.
- Uống rượu vừa phải. Nên chỉ uống một ly mỗi ngày cho phụ nữ ở mọi lứa tuổi và đàn ông lớn hơn 65 tuổi, và hai ly một ngày cho nam giới độ tuổi 65 và trẻ hơn.
- Theo dõi bệnh. Uống thuốc theo quy định và giữ các cuộc hẹn với bác sĩ. Cho bác sĩ biết nếu triệu chứng xấu đi.
- Hạn chế hoặc tránh caffeine và rượu
- Giảm stress. Căng thẳng nhiều và tức giận có thể gây ra vấn đề về nhịp tim
- Sử dụng thuốc mua tự do (over- the- counter) một cách thận trọng, vì một số thuốc trị cảm lạnh và ho có chứa chất kích thích có thể làm tim đập nhanh.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Nổi ban do thuốc

1. Nói về “drug rash” (tạm gọi là "nổi ban do thuốc", thường gặp nhất là ban liên hệ với thuốc trụ sinh (kháng sinh, antibiotic) như amoxicillin (hay "thuốc "bi" [penicillin] ngày xưa ở Việt nam), hay nhóm thuốc gọi là cephalosporin, trong đó có thuốc Keflex (hay cephalexin) được vị thính giả nêu tên. Tuy nhiên, nhiều thuốc khác cũng có thể gây ra drug rash. Thường thì nếu ngưng thuốc thủ phạm, rash sẽ biến đi.
Vấn đề nhiều khi khó giải quyết vì thường bệnh nhân bị nhiễm trùng hay nhiễm virus nào đó mới cần tới thuốc kháng sinh, cho nên lúc ban nổi lên, phải xem xét nhiều yếu tố bệnh học, vi trùng học, xem xét các đặc tính của cái rash mới quyết đoán được cái rash do thuốc hay do bệnh nhiễm gây ra. Đôi khi, do cả hai. Ví dụ người bị nhiễm virus Epstein Barr (bệnh mononucleosis làm sưng họng, sưng hạch sốt kéo dài) nếu uống thuốc amoxicillin có thể làm rash nổi lên, mặc dù họ không phản ứng với thuốc trong trường hợp khác.
Ban do thuốc thường được mô tả như giống ban đỏ (morbilliform), xảy ra ở thân mình trước tiên, sau đó lan ra tứ chi và cổ; cả hai bên phải trái đều có (bilateral), hình dạng đối xứng (symmetrical). Ban có thể phẳng (macular), hoặc hơi cộm lên (papular rash; như mề đay), màu hồng, đỏ, có khi có những hình đa dạng như vòng tròn (annular), hay chấm đỏ ở trung tâm, bao quanh bằng một vòng đỏ (targetoid). Lấy ngón tay đè lên ban thì nó sẽ mất màu đỏ, và trắng bệch ra (blanching), tuy nhiên có khi nó vẫn còn giữ màu tím.
Lần đầu tiên ban xảy ra, một loại lốm đốm màu đỏ hồng, đôi khi màu tím (purpuric), xảy ra chừng 1-2 tuần sau khi dùng thuốc. Có khi ban nổi lên đến 1 tuần sau khi đã dứt thuốc. Nếu bệnh nhân đã tiếp xúc với thuốc trước đây rồi, thì sớm hơn, chỉ sau khi bắt đầu dùng thuốc 1-3 ngày là ban đã nổi lên. Trường hợp bệnh nhân uống thuốc 4 tuần, ngưng được 2 tuần mà nếu rash mới nổi lên, nhất là chỉ nổi lên ở mặt, có lẽ rash đó không phải do thuốc gây ra.
Một số thuốc như kháng sinh tetracycline, thuốc sulfonamide (sulfamid), thuốc trị bệnh tâm thần, thuốc lợi tiểu có thể gây nổi ban, nám da không phải vì da dị ứng với thuốc mà do tác dụng thuốc làm da nhạy cảm với ánh sáng (photosensitivity).
2. Một người nổi ban ở mặt có thể do nhiều lý do khác nhau:
Một chất thoa da nào đó có thể gây viêm da sau khi tiếp xúc. Một số mỹ phẩm có thể làm da viêm (cosmetic dermatitis) vì nó gây khó chịu trực tiếp (irritant, nếu bác sĩ thử allergy testing sẽ không thấy dị ứng với chất đó), hoặc do nó gây một phản ứng dị ứng thật sự (allergic reaction). Những sản phẩm có chứa dầu thực vật, trích tinh từ thảo mộc (nhất là các nước hoa) có thể gây phản ứng lúc bệnh nhân thoa lên mặt và ra ngoài nắng tạo một hiệu ứng gọi là phototoxic reaction (phản ứng độc do ánh sáng). Chất furocoumarin (ví dụ psoralen) trong một số thực vật chanh, parsley, celery, carrot làm cho tế bào da nhạy cảm với tia cực tím sóng dài trong ánh nắng (UVA) và tạo nên bệnh viêm da gọi là phytophotodermatitis (viêm da do thực vật và ánh sáng). Dân Á châu hay trồng cây sung (fig tree) trong nhà, và đây cũng là một nguồn psoralen thường gặp, dễ gây viêm da do ánh sáng. Nơi nóng, ẩm ướt như hồ bơi có thể làm phản ứng dễ xảy ra hơn.
Da có thể bị đỏ, nổi bong bóng, sau đó bị sậm đi, đen nâu hàng tháng trời. Việc da những vùng này sậm đi sau khi lành cũng do cơ thể chúng ta rất "khôn ngoan" (smart), vì da từng bị tia cực tím làm hư hại, cơ thể phản ứng bằng cách tích tụ melanin làm cho sậm da lại để che chở khỏi tác dụng của tia cực tím.
Vết sậm da này có thể còn mãi. Trường hợp hiếm hơn, da hư hại và sinh thẹo lúc lành. Ở trẻ con, ví dụ trẻ dính nước chanh từ bàn tay người mẹ lúc mẹ đang nấu nướng nước chanh có thể bị sưng đỏ ở mặt sau khi ra nắng, với hình dạng bàn tay làm người ta lầm lẫn nghĩ đến bạo hành (tát tai, abuse) trẻ em.
Riêng về trường hợp phụ nữ bị nám mặt do phytophotodermatitis, quý bà có thể dùng mỹ phẩm làm da bớt nám đi, nhưng phải rất cẩn thận vì có thể gây ra phản ứng khác. Nên tham khảo với bác sĩ gia đình hay bác sĩ chuyên khoa da.
3. Một số bệnh nhân, thường là đàn ông trung niên trên 50 tuổi bị da nổi mẩn đỏ, ngứa, dày ra những vùng tiếp xúc với ánh sáng mặt trời hay ánh sáng nhân tạo, như mặt mũi, hai vành tai nhưng phía sau tai thì không, hai cánh tay. Họ nhạy cảm với ánh sáng (photosensitivity) và bệnh gọi là viêm da mạn tính do nhạy cảm với ánh sáng (chronic photosensitivity dermatitis). Có thể cần những thuốc corticoid hay giảm viêm. Thường, nếu đội nón vành rộng, tránh nắng lúc trưa, dùng kem chống nắng (sunscreen), mặc áo tay dài, mang găng tay lúc ra ngoài có thể làm giảm bệnh rất nhiều.
4. Có những rash nổi trên mặt do những lý do khác như mặt nám phụ nữ lúc có thai (chloasma), bệnh ngoài da có biểu hiện những vùng da khác (như lác/eczema, seborrhea, lang ben do nấm). Hoặc một số bệnh như lupus erythematosus (lan san hồng ban) ảnh hưởng đến mạch máu và những bộ phận khác, như thận, não bộ.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Thursday, October 27, 2016

U bạch mạch

"U bạch mạch" là tên gọi tiếng Việt của "lymphangioma". Lymph là “bạch huyết” hay "lâm ba" (đừng lầm lẫn với "huyết trắng" của phụ nữ, chỉ lúc phụ nữ có chất dịch trắng hay đục ở âm đạo). Lymph là một chất dịch tinh lọc (ultrafiltration) từ máu, đi ra ngoài huyết quản (blood vessels) thấm vào các mô, nên không có hồng cầu (red blood cells), nên màu trong/trắng (clear fluid), có khi đục do mỡ trong ruột, chứa các tế bào lâm ba (lymphocytes), phụ trách nhận diện các yếu tố như vi trùng, các chất lạ tấn công vào cơ thể.
Lymph được lưu thông trong các mạch dành riêng, vì không có tế bào máu đỏ nên gọi là ”mạch bạch huyết” hay "bạch mạch" (mạch trắng , lymph channel) dẫn vào các tĩnh mạch lớn. Khi một nhóm các mạch lâm ba này dãn nở ra một cách bất bình thường thành một khối u, chúng ta có "lymphangioma", còn gọi là capillary lymphangioma (u mao quản/hay mao mạch), hoặc nếu các nang lớn hơn thì gọi là cavernous lymphangioma (u có hang ; cavernous = hang), hay cystic hygroma (cystic = nang; vì u có một hoặc nhiều nang và hygro = ẩm ướt). U bạch mạch thường thấy nhất ở vùng đấu cổ (70%), thân mình (20%) và ít khi gặp hơn, ở tứ chi.
Hiện nay, chữa bằng xạ trị (irradiation) hay chất corticosteroid (dùng cho các u mạch máu) không hiệu nghiệm.
Thuốc propranolol (dùng trị bệnh cao áp huyết) và dùng có kết quả trong các trường hợp u mạch máu (hemangioma), đang được thí nghiệm trên các u bạch mạch trong những trường hợp không trị được bằng các phương pháp khác.
Các chất thuốc gây xơ hoá (sclerosing agents) như doxycycline (một kháng sinh) hay OK-432 (“Picibanil”, một chuyển hoá chất của vi khuẩn streptococcus) được chích vào u bạch mạch để huỷ các mô bạch mạch và thay thế bằng mô thẹo/xơ. Tuy nhiên, đối với các u hang hay nang to, các thuốc chích làm xơ có thể không hiệu nghiệm lắm và bác sĩ có thể quyết định giải phẫu nếu cần và nếu thực hiện được.
Giải phẫu cắt bỏ (complete excision) có thể khó thực hiện vì u bạch mạch (lymphangioma) có thể lan qua các bộ phận khác, và khả năng u tái xuất hiện sau khi giải phẫu cao (high rate of recurrence).
Có thể chúng ta cũng nên xét những điểm sau, tuỳ theo từng trường hợp:
1. Đây là một dị dạng của mạch lâm ba (lymphatic malformation), không phải là u bướu (tumor) và không thoái hoá gây ung thư.
2. Cha mẹ lo lắng nhiều vì con mình có một vấn đề sức khoẻ cần giải quyết, tuy nhiên nên hỏi kỹ với bác sĩ và nếu không có gì gấp rút (ví dụ như dị dạng lymphangioma trong ngực bụng lớn nhanh, chèn ép một bộ phận trong ngực, bụng) thì có thể nên quan sát một thời gian, nhất là nên theo lời hướng dẫn của bác sĩ điều trị.
3. Cần luôn luôn hỏi bác sĩ thủ thuật nào đó có lợi gì, nhiều hay ít, có hại gì, biến chứng gì có thể xảy ra, trước khi quyết định chấp thuận hay đòi hỏi một loại trị liệu nào đó cho bệnh nhân, nhất là cho em bé 1 tuổi, vì trong những trường hợp lymphangioma vùng đùi, có thể thời gian còn dài. Ví dụ có thể trong tương lai gần, có những phương pháp mới hơn được chứng minh là an toàn (ví dụ propanolol, theo Ozeki, Fukao & Kondo), hay nếu để em bé lớn hơn thì phẫu thuật ít gặp vấn đề hơn, hay có thể em bé tăng trưởng nhưng lymphangioma mặc dù không teo đi hoàn toàn, thì vẫn không tăng thể tích và không gây vấn đề gì.

Xin nhắc lại là các thông tin nêu đều hoàn toàn có tính cách và mục đích thông tin. Phụ huynh cần theo đúng hướng dẫn của bác sĩ của con mình. Nếu cần, nên hỏi ý kiến thứ hai (second opinion) từ một bác sĩ khác, ví dụ bác sĩ giải phẫu chuyên về trẻ em (pediatric surgeon).
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Wednesday, October 19, 2016

Nghệ, curcumin và nano-curcumin

Nghệ, tiếng Anh là turmeric, xuất phát từ Ấn Ðộ, từng được dùng nhiều ngàn năm nay trong y học cổ truyền Ấn Ðộ (Ayurvedic medicine) và là thực phẩm, gia vị phổ biến cũng như phương thuốc cổ truyền mà ở Việt Nam ai cũng biết, nhất là sau 30 tháng 4 năm 1975, do hoàn cảnh y tế khó khăn, chúng ta dùng viên nghệ trong đủ mọi thứ trường hợp bệnh tiêu hoá vì không có thuốc gì khác hữu hiệu hơn.
Không riêng gì Việt Nam, mà hầu như nước nào cũng muốn đề cao khả năng trị bệnh của những phương thuốc cổ truyền của mình, hay những chất có dược tính trong thực phẩm của mình, ví dụ trà của Á Đông; gừng, tiêu, ớt và ngay cả rượu cũng được đề cao với không ít lòng tự ái dân tộc. Tuy nhiên, chứng minh cho cơ quan phụ trách thực phẩm và thuốc Mỹ (FDA) rằng một dược chất nào đó có thể dùng chữa một bệnh nào đó an toàn và hữu hiệu trên con người thật đòi hỏi rất nhiều khảo cứu lâu dài và tốn kém. Không riêng Việt Nam, giới khoa học thế giới đang nghiên cứu nhiều về các đặc tính dược học của nghệ và các trích tinh từ nghệ, nhất là chất curcumin mà chúng ta sẽ bàn sau.
Tuy nhiên, đối với Mỹ, nghệ hay curcumin chỉ được Cơ quan Thực phẩm và Thuốc (FDA) coi như là “health food”, thực phẩm có tác dụng trên sức khoẻ, có thể dùng như một phụ trợ dinh dưỡng, chứ không công nhận như là một thuốc men dùng với mục đích chữa bệnh. Ngoài ra, nghiên cứu về dược tính của các cây thuốc nhiều khi cũng phức tạp, gây tranh cãi vì được thực hiện ở các nước Á châu, có thể bị các quyền lợi kinh tế ảnh hưởng. Năm 2012, một nhà nghiên cứu nổi tiếng của trung tâm M.D. Anderson, Texas, Mỹ khảo cứu nhiều về khả năng chống ung thư của curcumin và những chất thực vật khác bị tố cáo là gian lận trong công bố của mình. Bài của ông về curcumin từng được các tác giả khác trích dẫn nhiều lần trong 700 bài báo khoa học.
Những nhận xét sau đây chỉ có tính cách thông tin và không có mục đích hướng dẫn trị bệnh.
Nếu chúng ta đọc các bài viết về củ nghệ, chúng ta sẽ thấy người ta gán cho nó nhiều khả năng chống bệnh. Những bệnh được y học ngoài dòng chính (“y khoa lề trái”, gọi là “alternative medicine “) ở Mỹ dùng nghệ để chữa, căn cứ trên truyền thống hay khả năng tiềm ẩn chứng minh trong phòng thí nghiệm (chưa được chứng minh trong y khoa thực chứng) có thể gồm có: khó tiêu, đau bụng, chảy máu, tiêu chảy, sình bụng, ăn không ngon, sạn túi mật, vàng da, nhức đầu, cảm ho, đau nhức cơ và mô xơ mãn tính (fibromyalgia), bệnh cùi (bệnh Hansen), tắt kinh, ung thư (theo Medscape). Tuy nhiên, danh sách dài và không chính xác như vậy cho chúng ta cảm tưởng chung chung rằng công dụng lâm sàng của nghệ hiện nay chưa được xác định và đo lường rõ rệt đếm mức có thể dùng như một thuốc đặc trị cho một bệnh hay loại bệnh chính xác nào đó.
Theo Medscape, tác dụng duy nhất được chứng minh hữu hiệu là trong bệnh "dyspepsia", hay "khó tiêu", mà bệnh này thì cũng không được định nghĩa rõ ràng lắm.
Khi nói đến nghệ, chúng ta nói đến bột nghệ màu vàng (turmeric) lấy từ củ của cây Curcuma longa, có hoa, lá to dùng để gói bánh, xuất phát ở Ấn Độ. Nghệ được phát hiện trong những dụng cụ nấu ăn từ 4.000 năm trước. Cà-ry (curry) làm bằng bột nghệ, và chất có hoạt tính trong nghệ là curcumin, có tác dụng chống oxy hoá (antioxidant) và chống viêm. Tuy nhiên, có rất ít curcumin trong bột nghệ (chừng 3% hoặc ít hơn), và trong bột cà ry lại càng ít curcumin hơn nữa. Cho nên nếu chúng ta ăn cà-ry và hy vọng nhờ vào tác dụng của curcumin trong bột nghệ thì tác dụng ích lợi, nếu có, sẽ không bao nhiêu.
Về dược học của nghệ, vấn đề lớn là curcumin tan trong mỡ (fat soluble), không tan trong nước, rất khó hấp thụ từ đường ruột để vào máu chúng ta và từ đó tác dụng đến các bộ phận cơ thể. Phần lớn curcumin được uống/ăn (40-85%) bị thải ra ngoài phân vì cơ thể không hấp thụ được. Ví dụ ăn nghệ nấu trong mỡ (dầu đậu phụng, dầu mè, nước dừa, bơ), nấu chung với tiêu, nhờ chất piperine trong tiêu có thể tăng hấp thụ của chất curcumin đến 20 lần. Nấu nghệ trong nước sôi như pha trà cũng tăng hấp thụ chất curcumin. Đấy là những điều kiện thường thấy trong cách nấu nướng cà ry và tiêu thụ nghệ của vùng Nam Á hay Đông Nam Á chúng ta.
Công nghệ nano là công nghệ làm việc ở mức rất nhỏ của các vật thể, biến đổi vật thể ở mức nguyên tử hoặc phân tử, ở mức dưới 100 nanometer. Nanometer (nm) là đơn vị chiều dài bằng một phần tỷ (1/1.000.000.000) của một mét. Ví dụ nếu so sánh một nanometer bằng cỡ một hòn bi thì một mét là một trái cầu to bằng trái đất của chúng ta.
Viện Hàn Lâm Khoa Học Việt Nam có bài viết (10/2013) nói về nghệ nano. “Nano curcumin”, sản xuất ở Việt Nam, trong đó phân tử curcumin được chuyên chở trong những “hạt mi-xen polyme kích thước nano tan trong H2O”, được hấp thụ 40 lần tốt hơn curcumin thường. Cũng như Tân Hoa Xã của Trung quốc có đưa tin tiếng Anh trích nguồn từ báo Thanh Niên là Việt Nam trở thành một trong 10 nước trên thế giới sản xuất được nghệ nano. Tôi không tìm thấy tin này trong các nguồn khác.
Nói chung, áp dụng kỹ thuật nano cho chất curcumin nghệ bằng cách liên kết phân tử curcumin với một chất nào khác (nanocarriers, vd polymeric micellar nanoparticles) có mục đích là curcumin bền vững hơn khi đi qua hệ tiêu hoá, làm curcumin tan trong nước, gia tăng khả năng hấp thụ của curcumin để đi vào máu và các mô của cơ thể (increased bioavailability). Tuy nhiên, kỹ thuật nano áp dụng vào y khoa nói chung là một lãnh vực rất phức tạp, bao gồm nhiều cách tiếp cận, chiến lược khác nhau. Đối với người dùng, có lẽ chúng ta chỉ biết là có thể dùng viên nghệ nano thì hấp thụ được nhiều hơn curcumin, ngoài ra, cần hấp thụ đến lượng bao nhiêu mới tốt, thuốc đi về bộ phận nào nào, mục đích chữa bệnh gì hay ngăn ngừa bệnh gì, có tác dụng phụ gì không so với thuốc nghệ thường, cần hỏi nhà sản xuất thuốc hay các y bác sĩ, dược sĩ bán thuốc liên hệ.
Curcumin chỉ là một chất trong mấy chục chất có tác dụng kháng oxy hóa, kháng sinh, chống ung thư, hay giảm viêm có thể tìm thấy trong nghệ. Cho nên chỉ dùng curcumin thôi chưa chắc đã gặt hái hết các lợi thế của nghệ thiên nhiên.
Trên trang web bán hàng Amazon, một chai 120 viên (250 mg) nano curcumin Mỹ bán giá 50 đôla (dùng cho 120 ngày). Theo thông tin trên chai thì kích thước của thuốc họ là 45nm để có thể đi lọt qua các kênh sinh học trong cơ thể rộng 200nm (“biological channels), so với 250nm của curminin trong viên nghệ thường, mà giá chừng 15-30 đôla/chai. Để so sánh một loại nano curcumin làm tại VN bán 4 hộp dùng cho 30 ngày giá 1.120.000 đồng VN.
Nghệ hay curcumin đang được nghiên cứu và trong ngành “y khoa lề trái”, gọi là “alternative medicine" ở Mỹ được một số người dùng như là mộtbiện pháp bổ túc (supplement) trong các lĩnh vực sau (xin nhắc lại là FDA không công nhận việc dùng nghệ như là thuốc chữa bệnh):
- Cùng chung với hoá trị liệu (chemotherapy) trong các bệnh ung thư.
- Bệnh tiểu đường (diabetes).
- Bệnh trầm cảm (depression) bệnh Alzheimer. Có người dùng chung với thuốc trị trầm cảm như Prozac.
- Bệnh da vẩy nến (psoriasis).
- Giúp lành vết thương.
- Giảm đau khớp do tác dụng giảm viêm.
Về việc dùng bột/viên nghệ nói chung, nên hỏi bác sĩ của mình trước khi dùng liều cao, nên để ý đến các tác dụng phụ sau đây có thể xảy ra:
- Người có thai. Curcumin kích thích tử cung co bóp, có thể sinh non.
- Curcumin có thể là thụ thai khó khăn hơn.
- Người bệnh gan, sạn mật. Curcumin kích thích túi, ống mật.
- Curcumin có thể làm những người đang dùng thuốc "loãng máu" như aspirin, clopidogrel (Plavix) dễ chảy máu hơn. Người uống thuốc NSAIDS như ibuprofen, aspirin để trị sưng khớp, giảm viêm có thể còn dễ bị chảy máu nhiều hơn với curcumin.
- Người bệnh tiểu đường đang dùng thuốc hạ đường máu: curcumin có thể làm đường máu quá thấp (hypoglycemia) làm ngất xỉu.
- Người đang uống thuốc làm giảm acid bao tử (vd proton pump inhibitor: omeprazole), curcumin có thể làm acid dạ dày được sản xuất nhiều hơn.
- Ngoài ra nhiều thuốc có tương tác với curcumin, cũng như chất piperine của tiêu được kèm theo nghệ cho dễ hấp thụ có thể tương tác với một số thuốc như phenytoin (chống co giật), theophylline, propanolol (hạ huyết áp).
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Monday, October 3, 2016

Đau thần kinh hông (sciatica)

Để cho dễ hiểu và dễ nhớ, cái tên la tinh sciatica này chỉ có nghĩa là đau do dây thần kinh hông [sciatic nerve] bị chèn ép, tổn thương ở vùng lưng, làm cho ta có cảm giác đau trên lộ trình của nó, dọc theo mông, phía sau đùi và cẳng chân. Chừng 13-40% người chúng ta từng bị sciatica trong đời.
Bây giờ chúng ta vào chi tiết hơn:
Sở dĩ chúng ta điều khiển được một số cơ, chúng ta có được những cảm giác ở đùi, cẳng, chân là do có những sợi dây thần kinh:
1. Đi từ ngoài (ví dụ xa nhất là đầu ngón chân, rồi đến cẳng, đùi) đem những tín hiệu vào tủy xương sống (spinal cord) rồi đi ngược lên bộ óc chúng ta, báo chúng ta biết: ví dụ chân đạp gai (đau), chân chạm ống khói xe gắn máy (nóng, phỏng), hay cho ta biết có gì đè (pressure) lên bàn chân.
2. Đồng thời óc gởi ra những tín hiệu đến các bắp cơ để thi hành những mệnh lệnh như nhón gót (dorsiflexion, L4), nhất bờ ngoài bàn chân (foot eversion, L5), duỗi ngón cái (S1).
Những sợi thần kinh này được tập hợp thành một dây thần kinh lớn tên là thần kinh hông lớn (sciatic nerve). Dây thần kinh này đi từ xương sống lưng đoạn ngang thắt lưng (lumbar, L4,5, S1), qua những lỗ nằm giữa các đốt xương sống thắt lưng.
Nếu bây giờ, những đốt xương sống đó bị bệnh, như đĩa đệm nằm giữa các đốt sống bị hư hại, lồi ra (herniation of an intervertebral disc, slipped disc); ống xương sống nơi chứa tuỷ sống quá hẹp (spinal stenosis); một đốt xương sống trược trên đốt dưới và xê dịch ra phía trước (spondylolisthesis); chấn thương (té trực tiếp làm hư hại các rễ thần kinh, hoặc gãy xương làm các mảnh xương đè trên rễ thần kinh); u bướu tuỷ sống; như vậy dây thần kinh sciatica bị đè lên trên lộ trình (đường đi) của nó, thì dây thần kinh này sẽ phát ra những tín hiệu báo cáo sai cho não bộ là có cái gì làm cho vùng phụ trách của nó (đùi, cẳng hoặc bàn chân) bị đau, bị tê, hoặc bị nóng buốt. Cho nên người bệnh sẽ "thấy"/có cảm giác mình đau ở chân, cẳng hay đùi trong lúc mà, trên thực tế nguyên nhân nằm tận vùng xương sống lưng hoặc trong vùng xương chậu (ví dụ đau xương sống lưng, bướu trong vùng xương chậu). Các bắp cơ liên hệ tới dây thần kinh này sẽ ít nhiều bị yếu đi.
3. Sau khi chui ra khỏi cột sống, sợi thần kinh sciatic nerve đi ngang qua hoặc đi xuyên qua một cơ bắp dài,hình trái lê nên được gọi là piriformis muscle, nằm sâu trong mông, mà đầu lớn đi từ xương thiêng, qua vùng xương chậu và đi xuống bám vào đầu xương đùi.Chứng này gọi là hội chứng piriformis.
Trong một số nhỏ bệnh sciatica, dây thần kinh sciatic bị bắp cơ này chèn ép, thường là lúc ngồi ghế xe, lúc chạy, bệnh nhân thấy ê, tê, đau nhiều ở mông,và cơn đau có thể chạy xuống phía dưới làm đau dọc theo sau cẳng chân. Định bệnh này khó. Chứng này gọi là hội chứng piriformis; có thể gây ra do chấn thương ở vùng mông,
Mấy chục năm nay, mỗi khi đau sciatica thì người ta gắn "tội" cho một cái đĩa đệm nằm không đúng chỗ (herniated disc) và can thiệp (phẫu thuật) trên vùng xương sống bị nghi ngờ đó. Tuy nhiên, gần đây, người ta khám phá một số trường hợp phẫu thuật trên xương sống không hiệu quả vì nguyên nhân thật sự nằm chỗ khác, ví dụ như trong hội chứng cơ piriformis. Chụp hình X quang đơn giản có thể không đủ để phát hiện các điểm bất bình thường của cột sống (như đĩa đệm bị rách),có thể cần các phương pháp hình ảnh khác nhất là MRI (cọng hưởng từ trường). Đối với những trường hợp như piriformis syndrome, có thể cần đến phương pháp mới gọi là Magnetic Resonance Neurography (MRN) để chụp hình dây thần kinh bằng cọng hưởng từ trường và xem nó hư hại chỗ nào. Phương pháp này có thể không được bảo hiểm trả tiền ở Mỹ vì quá mới.
4. Nói tóm lại, bệnh sciatica chỉ cho ta biết thần kinh sciatic bị tổn thương, và nguyên do có thể nhiều nguồn gốc khác nhau. Cột sống vùng lưng có những dấu hiệu thoái hóa (spondylosis) rất thường gặp trên XR của người có tuổi mạnh khoẻ không có triệu chứng xương khớp (không đau lưng, đau chân), 80% người trên tuổi có dấu hiệu thoái hóa cột sống trên quang tuyến nhưng không có nghĩa là cần phải chữa cho họ và sự hiện diện của các thay đổi này đi đôi với sciatica chưa chắc đã có nghĩa rằng nguồn gốc của cơn đau thần kinh nằm tại các bất thường trên xương sống mà chúng ta thấy.
Người bệnh có thể đau nhiều hơn:
- lúc ban đêm
- lúc đi nhiều, ngồi nhiều
- cúi xuống quá nhiều, bật người ra phía sau (bending backward)
- ho, nhảy mũi mạnh, rặn nhiều lúc đi cầu
Một số nguyên nhân khác nhau như thoát vị đĩa đệm (disc hernia), lệch đốt xương sống (spondylolisthesis), đau khớp háng, u bướu, cơ bắp chèn ép dây thần kinh đều có thể gây ra bệnh sciatica hoặc triệu chứng tương tự.
Tóm lại, nếu chữa trị thông thường bằng nghỉ ngơi, uống thuốc giảm đau, tập vật lý trị liệu mà không thấy kết quả, bệnh nhân cần đi khám lại bs gia đình để theo dõi, định bệnh lại, phối hợp điều trị và theo dõi bệnh tình.Có thể cần đên các bác sĩ chuyên khoa, và có thể cần chích thuốc vào sống lưng (thuốc corticoid chích vào khoảng trống chung quanh màng cứng tuỷ sống [epidural injection of corticosteroid], có thể giúp giảm nhưng ngắn hạn, không giảm khả năng phải giải quyết bằng phẫu thuật), hoặc giải phẫu nếu cần.
Chuyện bệnh có chữa hết hay không, nói chung đa số có dự liệu tốt, tuy nhiên tuỳ thuộc nguyên nhân gây ra, cũng như tuỳ hoàn cảnh tâm tính bệnh nhân vì có những người dễ bị đau mãn tính hay có những trường hợp bệnh nhân trong tiềm thức hưởng lợi từ tình trạng bệnh tật của mình. Châm cứu được một số người dùng vì không tuỳ thuộc vào thuốc; căn cứ trên y lý đông phương nên cần bác sĩ đông y hướng dẫn. Yoga có thể có ích đặc biệt trong hội chứng cơ piriformis gây ra sciatica vì có thể làm giãn cơ này. Tuy nhiên, những tư thế gập người ra phía trước, hay giãn các cơ phía sau đùi (hamstring muscles stretching) có thể là thần kinh sciatic khó chịu thêm. Tập các bắp cơ bụng và phía dưới lưng có khả năng giữ tonus các cơ bắp tốt hơn. Tuy nhiên, dùng tạ nặng bao nhiêu, tư thế tập lưng, bụng như thế nào cần chuyên viên vật lý trị liệu hướng dẫn, tránh những tư thế quá đáng, hoạt động làm đau nhiều thêm.
Bác sĩ Hồ văn Hiền.

Lọc máu và vô niệu (Dialysis and anuria)

Mỗi người có hai trái thận (kidneys), to chừng bằng nắm tay (11-14 cm x 6 cm x 4cm) nằm phía sau của xoang bụng, hình hạt đậu (bean-shaped), lõm vào ở phía trong, đối diện với nhau, thận bên phải thấp hơn bên trái vì phải nhường chỗ cho lá gan nằm trên. Thận có nhiều cơ năng khác nhau:
1. Bài tiết nước và các chất hòa tan trong nước như creatinine, urea, những chất đem từ ngoài cơ thể, nay cần được phế thải, ví dụ một số thuốc.
2. Giữ quân bình các lượng nước trong cơ thể, các chất điện giải (electrolytes, vd Na+, K+, Ca++, bicarbonate HCO3- ) chứa trong đó, và giữ quân bình pH (không acid quá mà cũng không kiềm quá).
3. Vai trò nội tiết (tiết hormone vào máu, endocrine function): điều hòa lượng vitamin D trong cơ thể, lượng hồng cầu được sản xuất trong tủy xương (qua erythropoietin), áp huyết, lượng muối natri trong cơ thể (renin>angiotensin>aldosterone axis).
Trước hết, tiểu cầu (glomerulus) là gì? Chúng ta hãy nghĩ đến mỗi trái thận được kết tạo bởi nhiều đơn vị nhỏ li ti gọi là nephron. Mỗi thận có chừng 800,000-1,5 triệu nephrons, và lượng này giảm đi lúc chúng ta già, mỗi nephron dài chừng 3-5 cm. Mỗi nephron hình dạng như một con rắn: đầu con rắn há miệng ra hình như cái chén (nang Bowman, Bowman's capsule, glomerular capsule). Trong “miệng con rắn” ngậm một cái nút nhỏ gồm những mao mạch (capillaries) đem máu từ động mạch thận (renal artery), nút này gọi là tiểu cầu thận (glomerulus). Nước và những chất tan trong nước đi từ máu trong tiểu cầu, lọc qua nang Bowman, và chảy về phần tiểu cầu kế tiếp. Các nephron này tạo cơ hội cho cơ thể thải ra những chất không cần thiết, cần phế thải trong một lượng nước tiểu nhiều hay ít tùy theo cơ thể trong tình trạng thiếu nước (cần bảo vệ nước, ít nước tiểu, chỉ đủ mang chất phế thải ra ngoài), hay dư nước (nước tiểu loãng hơn, cần đẩy nước nhiều hơn ra khỏi cơ thể).
Lúc nói tới cơ năng thận (kidney function, renal function), thường bác sĩ nói tới glomerular filtration rate (GFR), tạm dịch “tỷ lệ lọc ở tiểu cầu” (“độ lọc cầu thận”).
Người ta dùng mức creatinine trong plasma để ước tính, gọi là estimated GFR (hay eGFR), với những công thức khác nhau, trong đó các biến số được tính thêm vào như tuổi, giới tính, màu da (da đen hay da trắng), lượng albumin trong plasma, lượng urea trong plasma, (bình thường 90-120 ml/mn, tính theo người trung bình, có diện tích cơ thể 1,73m2)
Tùy theo số eGFR, bệnh thận mãn tính (chronic renal disease) được xếp theo giai đoạn (stage):
Stages
● I) trên 90 ml/mn: cơ năng thận (CTN) bình thường (nhưng CNT bình thường không có nghĩa là thận không có bệnh). Bác sĩ quan sát bệnh nhân, kiểm soát áp huyết.
● II) 60-89 ml/mn CNT giảm nhẹ. Bác sĩ quan sát bệnh nhân, kiểm soát áp huyết, các yếu tố cơ nguy tim mạch khác.
● III) 30-59 ml/mn CNT giảm vừa.
● IV) 15-29 ml/mn CNT giảm nặng (severely reduced). Bs chuẩn bị cho giai đoạn cuối (end stage renal disease).
● V) CNT giảm rất nặng (very severely reduced), giai đoạn cuối (end stage renal disease), cần ghép thận (renal transplant), hay lọc máu (dialysis).

Dialysis (dia=xuyên qua, lysis= tách ra, chia ra), chúng ta thường gọi là "lọc máu", là một phương pháp thay thế hoặc phụ trợ cho cơ năng thận của người bệnh lúc thận không còn đủ sức thực hiện vai trò "lọc" của mình, nghĩa là:
1) Thải ra ngoài (qua nước tiểu) các chất cơ thể không cần như urea (là chất biến dưỡng của các chất đạm), các chất thuốc men cần thải ra ngả nước tiểu (waste removal)
2) Giữ quân bình về nước và các chất điện giải (fluid and electrolyte balance). Muối natri dư thừa làm giữ theo quá nhiều nước trong cơ thể (fluid retention) là một nguyên nhân quan trọng gây chứng cao áp huyết (hypertension) ở bệnh nhân bị suy cơ năng thận.

Riêng về cơ năng nội tiết của thận, máy lọc máu không thay thế được.
Trong máy lọc máu (dialysis machine), máu từ người bệnh được cho chạy vào những ống nhỏ li ti của máy (dialyzer, tương tự như những tiểu cầu trong thận), trong những ống đó, máu chảy tiếp giáp với dung dịch của máy lọc (dialyzate) chảy ngược dòng. Hai bên máu và dung dịch dializate không trộn lẫn với nhau mà lại được được tiếp cận với nhau qua một màng ngăn bán-thẩm-thấu (semi-permeable membrane), có nghĩa là chỉ những phân tử có tầm vóc nhỏ mới đi qua được, còn những tế bào như hồng cầu, bạch cầu của máu thì không qua bên kia được.

Có hai cơ chế khác nhau. Một cơ chế gọi là diffusion (khuyếch tán) cho phép các chất có quá nhiều trong máu người bệnh cần được thải bớt ra ngoài cơ thể, hiện diện trong máu ở nồng độ cao (ví dụ potassium, phosphorus,urea) di chuyển từ máu qua dung dịch của máy lọc nơi đó không có chất đó (vd urea) hoặc chứa chất đó ở mức bình thường (ví dụ potassium, calcium). Cơ chế thứ hai là ultrafiltration ("siêu lọc"), giúp lấy bớt lượng nước dư trong cơ thể người bệnh di chuyển qua dịch của máy lọc máu và sẽ được thải ra ngoài, do áp suất trong dung dịch này âm (negative pressure). Sau đó thì máu đã được lọc xong được trả lại cho cơ thể người bệnh.
Như vậy, chúng ta thấy máy lọc máu đem một lượng nước nào đó cùng với một số chất thải ra khỏi cơ thể, thay vì nước và chất thải phải được thải ra dưới hình thức nước tiểu. Máy có thể lấy ra vài lít nước từ cơ thể người bệnh trong mỗi buổi 4 tiếng đồng hồ lọc máu cho người bệnh, thường là 3 lần một tuần theo quy định của Medicare là cơ quan trả tiền chi phí cho bệnh nhân già ở Mỹ. Lượng nước và chất thải cần lấy ra căn cứ trên tính toán của bác sĩ phụ trách lọc máu, mục đích là giữ cân nặng của bệnh nhân sau khi dialysis ở mức gọi là "dry weight" (“trọng lượng khô”, trọng lượng mà nếu cơ năng thận bình thường, người bệnh không dư nước, sẽ cân nặng ở mức đó). Thường mức "trọng lượng khô" bác sĩ nhắm tới thấp hơn trọng lượng bình thường lúc thận còn mạnh khoẻ, để bù vào khoảng giữa các buổi lọc máu, lúc lượng nước dư có thể tích tụ lại và làm áp huyết tăng. Tuy nhiên, chỉ tiêu "trọng lượng khô" sau khi lọc máu, nếu thấp quá, có thể làm người bệnh mệt mỏi quá đáng hay áp huyết quá thấp (hypotension). Tùy theo khả năng còn dư lại của thận, tùy theo loại bệnh thận, tùy theo nước còn dư thừa trong cơ thể hay không, thận của bệnh nhân có thể tiết ra một lượng nước tiểu nào đó. Tuy nhiên, thường sau 6 tháng lọc máu, đa số bệnh nhân bị bệnh thận giai đoạn cuối (stage 5) không còn sản xuất nước tiểu nữa, tình trạng này thường gọi là vô-niệu (anuria).
Tất nhiên, trên đây chỉ là một số kiến thức tổng quát. Nói chung, thân nhân cần hỏi các y tá hay bác sĩ săn sóc cho mình vì họ ở trong chuyên khoa đó và hiểu rõ những gì họ làm. Nếu có nghi vấn, hay chưa hiểu rõ, cần hỏi lại cho kỹ.
Chúc bệnh nhân may mắn.
BS Hồ Văn Hiền

Hội chứng Asperger

Hans Asperger, một bác sĩ nhi khoa người Áo, là người công bố đầu tiên về hội chứng của những đứa trẻ có cử chỉ, hành động vụng về, khả năng cảm thông với người khác và khả năng truyền đạt bằng cử chỉ, nét mặt, biểu hiện cảm xúc (truyền đạt thông tin không dùng lời nói, non-verbal communications) cũng giới hạn (năm 1944). Nguyên thủy, Asperger dùng từ autistic psychopathy (bệnh tâm thần tự kỷ) và công bố của ông không được chú ý lắm. Đến năm 1981, nhà tâm lý học người Anh Lorna Wing “tái khám phá” ra chứng này và đặt tên là Hội chứng Asperger.
Trong Hội Chứng Asperger người bệnh bị thiếu sót trong khả năng giao tiếp với người khác (tương tác xã hội khiếm khuyết, impaired social interactions) đồng thời sở thích bị giới hạn hoặc có những tập tính lập đi lập lại (restricted interest/repetitive behaviors). Tuy nhiên khả năng trí tuệ, học hỏi (cognitive skills) vẫn bình thường hoặc trên trung bình, ngôn ngữ phát triển bình thường, và họ sống tự lập được, hoặc còn có thể rất thành công trong một lĩnh vực chuyên môn nào đó. Hiện nay, y khoa tâm thần không xếp hội chứng Asperger thành một bệnh riêng rẽ như trước, mà gom vào "quang phổ tự kỷ' (autism spectrum; autism spectrum disorders or ASD; bệnh Asperger là một biểu hiện nhẹ trong "quang phổ tự kỷ").
Bệnh tự kỷ là một bệnh bao gồm những triệu chứng chính sau đây, thường biểu lộ, xuất hiện trong ba năm đầu đời và sẽ tồn tại suốt đời:
1. Rối loạn về ngôn ngữ cũng như cách phát biểu bằng nét mặt, cử chỉ, điệu bộ.
2. Rối loạn về giao tiếp xã hội, về cách tương tác với người khác, những rối loạn này ảnh hưởng đến việc học tập.
3. Những hoạt động hoặc động tác lặp đi lặp lại (repetitive activities and stereotypic movements)
4. Khó khăn trong sự thích ứng với tình huống mới, không chịu thay đổi, dù là chi tiết nhỏ nhặt.
5. Phản ứng một cách khác thường đối với những kích thích như âm thanh, mùi vị...
6. Khả năng suy nghĩ bị thiếu sót nhất là về khả năng nhìn khía cạnh bao quát của một vấn đề, quá chú trọng về nghĩa đen của các từ, thiếu khả năng nhận ra ý nghĩa tượng trưng của một câu chuyện, thiếu óc tưởng tượng.
Nói về rối loạn nhân cách (personality disorder hay PD), bệnh tự kỷ (ASD) là một bệnh khác với rối loạn nhân cách. PD là sự khiếm khuyết trong trải nghiệm bản thân (inner experience) hay trong hành vi (behavior) do một hay nhiều nét nhân cách có tính cách bệnh lý, đi ra ngoài sự chấp thuận của nền văn hoá của cá nhân đang sống, thẩm thấu sâu rộng, không chịu khoan nhượng, ổn định với thời gian và làm người bệnh khổ sở và không sinh hoạt bình thường. Thường áp dụng cho người lớn. (From Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 4th edition, 1994:
An enduring pattern of inner experience and behavior that deviates markedly from the expectation of the individual's culture, is pervasive and inflexible, has an onset in adolescence or early adulthood, is stable over time, and leads to distress or impairment.)
Ví dụ người PD chống xã hội (antisocial personality disorder), PD lo âu (anxious PD), PD tự chiêm ngưỡng (narcissistic PD). Khoảng 1/2 người bệnh tự kỷ, thường là tự kỷ nặng, có dấu hiệu của rối loạn nhân cách.
Càng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy bệnh tự kỷ (kể cả hội chứng Asperger) có những nguyên nhân do di truyền, đồng thời sự biểu hiện cũng tuỳ thuộc vào những yếu tố môi trường, đôi khi các yếu tố này gắn liền với nhau. Ví dụ, người ta thấy rằng mức testosterone mà thai nhi tiếp xúc trong bụng mẹ có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh tự kỷ trên đứa trẻ sau này. Sự việc này có thể liên quan đến các cơ chế "trên di thể" (epigenetics), một yếu tố môi trường ảnh hưởng đến các biểu hiện của di thể (gene expression). Các yếu tố trên di thể "bật nút" cho phép di thể (gen) làm việc hoặc nghỉ việc, giống như nút điện (on-off switch) kiểm soát cho đèn bật cháy hoặc đèn tắt.
Câu hỏi là nếu tự kỷ là một bệnh di truyền, ngoài những điều bất hạnh mà những gen tự kỷ đem đến, những gen này có đem kèm theo đó những điều lợi ích gì không?
Trong gói “quà” tự kỷ của thiên nhiên dành cho chúng ta, ngoài "chữ tai" (ăn nói kém cỏi, giao thiệp vụng về, khờ khạo, suy nghĩ hạn hẹp, nặng hơn thì không thể sống tự lập), những gen này có đem đến "chữ tài" nào chăng? Phải có những điều gì có ích, những lợi điểm nào đó mà các gen này mang lại, giúp cho chúng tồn tại và được "khuyến khích" giữ lại trong kho tàn gen chung của loài người. Căn cứ trên một số phân tích tài liệu lịch sử, những nhân vật nổi tiếng với năng khiếu đặc biệt được "nghi" là những người có thể mang chứng Asperger, nghĩa là thuộc về quang phổ tự kỷ (autism spectrum) nhưng có biệt tài: danh hoạ người Ý Michelangelo; nhà bác học thuyết tương đối Einstein; nhà chính trị Thomas Jefferson, một trong những người sáng lập ra nước Mỹ; nhà vật lý Newton; Darwin của thuyết tiến hoá. Người ta cũng nghi rằng, tuy không có bằng chứng y khoa chính xác, là rất nhiều nhân vật thành công trên kỹ nghệ internet, hay một số đáng kể thiên tài trong lĩnh vực tài chính ở Wall Street đều có những nét của autism spectrum. Họ có thể có chứng kèm tự kỷ theo như dyslexia (trở ngại khả năng đọc), hyperactivity (quá năng động), với tính tình kỳ quái, lắm khi lạnh lùng, tàn nhẫn trong thương trường cũng như trong đời tư, nhưng họ cũng mang những năng khiếu sáng tạo, tổ chức phi thường.
Gần đây, bệnh tự kỷ xem như có vẻ phát triển thêm, lan rộng thêm trong thời điểm mà xã hội càng ngày càng tùy thuộc vào khoa học kỹ thuật, nhất là tin học (information technology) trong một nền kinh tế tri thức (knowledge economy).
Nền kinh tế tri thức này, đòi hỏi kiến thức chuyên môn hoá cao độ, có vẻ như rất thuận tiện cho một số nét rất đặc thù của quang phổ tự kỷ, nhất là cho những "người tự kỷ có cơ năng cao" (high functioning autism), trước đây được xếp vào hội chứng Asperger, tuy mang những nét của tự kỷ, họ có chỉ số thông minh IQ trung bình cao, và có thể sống tự lập.
Trẻ mắc hội chứng Asperger có những điểm yếu và có thể một số điểm mạnh, cũng như đa số trẻ em khác, tuy ở đây những khiếm khuyết có thể nổi bật hơn. Cho nên nhu cầu thay đổi tuỳ theo từng trường hợp. Có thể gợi ý phụ huynh những nét chính sau đây:
1) Nên tạo cho chúng một nếp sống có tổ chức, có thời khoá biểu rõ rệt về giờ ăn uống, và giờ ngủ; hướng dẫn một cách rõ ràng dễ hiểu và chứng tỏ cho chúng biết là mình mong đợi ở chúng một mức tuân thủ vừa phải nào đó mà chúng có thể thực hiện một cách đều đặn. Tránh tùy tiện, lúc thì quá dễ dãi thả lỏng quá mức, cưng quá mức, lúc thì quá khắt khe khó chịu, trừng phạt quá nặng vì mình mất kiên nhẫn, làm đứa bé bị Asperger, vì thiếu khả năng hiểu tâm trạng người khác không hiểu được những thay đổi bất thường đó và không thể thay đổi hành vi chúng một cách nhanh chóng để đối phó như những đứa trẻ "lanh" hơn.
2) Nhiều người mắc chứng Asperger cần được hướng dẫn bằng lời nói, dạy trực tiếp bằng lời nói người thầy cô, hay video hướng dẫn, thay vì cho họ đọc, hay ra dấu để cho họ hiểu ngầm. Hướng dẫn ngắn gọn, rõ ràng, không bóng gió, ví von, nói móc, châm biếm (vì bệnh nhân có khuynh hướng hiểu theo nghĩa đen của câu nói).
3) Giải thích một vấn đề nên đi từ chuyện nhỏ, một bộ phận cụ thể của bức tranh lớn hơn cho trẻ hiểu trước, rồi sau đó mới tổng quát hóa đi vào “bức tranh lớn” (big picture), tổng thể, nhìn tổng quát (parts-to-whole teaching approach). Trẻ mắc Asperger thường gặp khó khăn trong cái nhìn tổng thể, và thiên về các chi tiết nhiều hơn (ví dụ: thấy từng cái cây dễ hơn là nhìn tổng quát cánh rừng).
4) Dùng những phương pháp nhìn (visual supports) để dạy dỗ; như video, tranh, học cụ, thời khoá biểu, bài in trên giấy, hơn là giảng trừu tượng.
5) Trẻ dễ bị các phương tiện nghe nhìn có màn hình như ipad, iphone, TV, máy tính lôi cuốn và mê hoặc. Tránh để những thứ này trong phòng ngủ các em vì các em sẽ bị thu hút vào quá giờ giấc, và làm rối loạn giấc ngủ.
6) Trẻ dễ bị đãng trí về những tiếng động mà có thể người bình thường không để ý đến: như tiếng đồng hồ tích tắc, đèn ống kêu, nước trong hồ cá. Điểm này có thể làm chúng ta nghĩ đến các thi sĩ có khả năng nhạy cảm với những âm thanh tầm thường của cuộc sống hàng ngày như tiếng thông reo, tiếng sương rơi.
7) Trẻ có thể trưởng thành về tâm lý, hành vi chậm hơn các trẻ khác. Ví dụ một thiếu niên Asperger 15-16 tuổi có thể không để ý đến người khác phái như các bạn đồng lứa, hay vẫn còn hồn nhiên, không biết giữ gìn, e thẹn, làm dáng như trẻ cùng tuổi, hoặc có vẻ quá "ngây thơ". Cần kiên nhẫn hơn là đối với các trẻ bình thường.
8) Trẻ gặp khó khăn lúc phải đối phó với một tình huống gây stress, tình huống mới, lạ hay đang thay đổi. Cần tập cho trẻ thích ứng từ từ, giải thích và giúp đỡ cho trẻ hiểu và đối phó với những hoàn cảnh đó. Ví dụ trẻ có thể "quýnh", hoảng hốt lúc phải đến một chỗ có nhiều người lạ, hay ồn ào, được nhiều người chào hỏi.
9) Đi học, trẻ có thể vụng về trong lúc giao tiếp, không biết làm quen với bạn cùng tuổi, gia nhập với các trò chơi chung. Trẻ có thể không biết thói lịch sự thông thường, tránh những câu mà người khác cho là vô lễ hoặc làm phật lòng. Nên giải thích cho trẻ biết lúc nào người ta giận mình, lúc nào là người ta không thích. Hỏi thăm xem trẻ có bị ăn hiếp ở trường hay không, can thiệp với trường học nếu cần. Thăm dò xem các cô thầy có hiểu hoàn cảnh của trẻ hay không; vì bề ngoài vụng về, chúng có thể bị thầy cô ghét, hay trừng phạt vô cớ. Trẻ mắc Asperger có thể viết chữ xấu, và có thể tập và nhắc nhở cho cháu, hay dùng máy tính để viết nếu trường cho phép.
10) Những vấn đề khác quan trọng nếu có như thiếu chú ý và quá năng động (ADHD), trầm cảm (depression), rối loạn lo âu [trong tình huống] xã hội (social anxiety disorder), cần được các chuyên gia về nhi khoa, tâm lý, tâm thần hay giáo dục giúp đỡ.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bệnh tai biến não

1- Nguyên nhân stroke:
Động mạch chủ (aorta, mạch máu đem máu từ tim), cho 2 nhánh lên vùng cổ để nuôi đầu (gồm cả não bộ) gọi là động mạch cảnh (carotid arteries; cảnh=cổ), chia ra nhiều nhánh nhỏ hơn vào nuôi các phần khác nhau của não bộ.
(I) Ischemic stroke: đột quỵ do thiếu máu cục bộ
Một nhánh động mạch có thể bị nghẽn (động mạch hay “artery” là mạch máu đem máu đỏ giàu Oxy và chất dinh dưỡng đến nuôi tế bào óc):
a) Trong trường hợp embolic stroke: do một cục máu (clot, thrombus) bất thường đông từ chỗ khác đi đến (embolus), gặp một nhánh nhỏ thì nó kẹt lại.
Nguyên nhân thường gặp là rung tâm nhĩ (atrial fibrillation).
Tâm nhĩ (atrium) là một cái túi nhỏ phía trên trái tim, chứa máu từ cơ thể đi về tim, trước khi máu vào tâm thất (ventricle) và được bơm đi. Bình thường tâm nhĩ bóp nhịp nhàng theo tim đập; nếu rối loạn nhịp tâm nhĩ, nó rung hỗn độn, không hữu hiệu, làm máu lẫn quẩn quá lâu, dễ đóng cục (thrombus formation). Cục máu chạy lên mạch máu nuôi bộ óc (cerebral artery), nếu kẹt vào nhánh nào sẽ làm nghẽn nhánh đó (embolization).
Bỗng nhiên đi không được, đứng dậy không được có thể là dấu hiệu của stroke, nhất là nếu yếu chỉ một bên. Trong trường hợp TIA, một cục máu đông làm mạch máu tắc nghẽn rồi sau đó cục máu tan biến đi nhanh chóng. TIA, viết tắt của transient ischemic attack (còn gọi là mini-stroke, attack=tấn công, transient=thoáng qua, đi qua chốc lát, ischemic=do thiếu máu nuôi não bộ), triệu chứng đến rồi qua nhanh, người bệnh trở lại bình thường nhanh chóng, dưới 5 phút, trung bình là 1 phút. Có thể lúc đến gặp bác sĩ thì bác sĩ khám không thấy gì. Tuy nhiên, bệnh nhân có thể bị stroke trở lại sau đó, và bị nặng hơn, không thoáng qua như lần đầu. Cho nên TIA còn gọi là "warning stroke" (cảnh báo, báo động), cần có biện pháp ngăn chặn "permanent stroke" (tai biến "thường trực") có thể đi theo.
b) trong trường hợp thrombotic stroke: do một cục máu đông tại chỗ (thrombosis). Những người mỡ trong máu cao, tuổi già vách động mạch bị xơ vữa (atherosclerosis). Cơ thể xem những nơi này là những vết thương cần hàn gắn lại bằng cách cho các tiểu bản kết tụ (platelet agglutination), tạo một cục máu ở đó. Cục máu làm tắc nghẽn động mạch.
(II) Hemorrhagic stroke: đột quỵ do chảy máu (xuất huyết), động mạch có thể gián đoạn do một mạch máu nở ra bất thường (aneurysm), đã có sẵn (bẩm sinh) nhưng không có triệu chứng, áp huyết cao kinh niên có thể làm mạch máu hư hại thêm. Đến lúc vách động mạch không còn chịu đựng nổi áp suất trong mạch, mạch máu bể ra, cắt đường tiếp tế cho vùng tế bào não liên hệ.
2) Huyết áp cao là một yếu tố cơ nguy làm người bệnh dễ bị tai biến mạch máu não hơn. Mạch máu chịu stress từ áp suất cao hơn nên dễ bị xơ cứng hơn, bị hư hại, làm tế bào máu (tiểu bản) dễ tụ lại tạo nên một cục máu đông làm bít dòng máu đang đến nuôi một phần nào của của bộ óc. Ngoài ra, nếu áp huyết cao, mạch máu sẽ bị dãn nở, vách động mạch yếu đi, cho đến lúc vỡ ra, làm máu không đến nuôi được vùng tế bào thần kinh phía trước (hemorrhagic stroke).
3) Thuốc hạ huyết áp do đó làm giảm cơ nguy stroke. Người ta ước tính rằng lúc cho những người có dấu hiệu áp huyết bắt đầu lên cao (giữa 120/80 mmHg và 139/89 mmHg) dùng lâu dài, cơ nguy stroke giảm chừng 32%.
4) Thuốc chống tiểu bản như aspirin, Plavix; thuốc làm máu khó đông hơn như warfarin: làm giảm khả năng máu đóng cục và nghẽn động mạch gây thrombotic stroke.
5) Một người đang uống các thuốc trên, nếu ngưng thuốc lâu, vấn đề che chở do việc dùng thuốc sẽ giảm đi và ngưng lại, tuy nhiên những cơ nguy do biến chứng của thuốc cũng sẽ bớt đi. Ví dụ người bệnh ngưng dùng aspirin thì khả năng đông máu trở lại bình thường, khả năng máu đông thành cục tăng lên, nhưng ngược lại cơ nguy chảy máu ở dạ dày, ruột, chảy máu trong não bộ sẽ giảm đi.
6) Ở người bị rung tâm nhĩ, bệnh nhân bị máu đông tĩnh mạch sâu cẳng chân (deep vein thrombosis), bệnh nhân vừa mổ thay khớp đầu gối hoặc khớp háng bác sĩ có thể cho thuốc làm "loãng máu" mới tên Xarelto để ngừa máu đông thành cục gây tắc nghẽn mạch máu (thromboembolic events). Trong thông tin về thuốc này, có một 'hộp đen" (black box) ghi rõ cảnh báo không được tùy tiện ngưng thuốc làm cơ nguy stroke gia tăng, cũng như không được chọc lấy nước tuỷ sống (spinal puncture) hay để gây tê quanh tuỷ sống lúc giải phẫu (neuraxial anesthesia).
7) Khó có thể nói ngưng uống thuốc nào đó một liều hay bao nhiêu liều sẽ hậu quả ra sao, vì tuỳ theo thuốc đó có tác động gì, biến dưỡng thuốc (drug metabolism) đó trong cơ thể người bệnh ra sao. Nói chung một khi bác sĩ quyết định dùng một thuốc gì, nếu người bệnh muốn ngưng thuốc đó cần có ý kiến của bác sĩ những hậu quả quan trọng có thể xảy ra. Ví dụ, ngưng thuốc hạ huyết áp có thể làm áp huyết vọt lên quá cao một cách đột ngột; một người dùng thuốc corticoid lâu ngày có thể mất khả năng tự sản xuất chất hormone này lúc cần thiết như lúc bị nhiễm trùng, bị stress.
8) Người bệnh bị stroke có thể sưng phía bên bị liệt hay yếu, ví dụ hai bàn chân, bàn tay. Cơ chế tại sao chưa được giải thích đích xác. Tuy nhiên, có thể có những yếu tố sau đây:
Phần bị yếu, liệt, không được cử động, vận động vì các bắp thịt không nhúc nhích được; trong khi đó sự vận dụng các dịch trong những vùng thấp hơn trái tim tuỳ thuộc vào các cơ bắp vùng đó. Ví dụ, chúng ta đứng một chỗ lâu quá, hai bàn chân dễ bị sưng, vì dịch lâm ba trong các kênh lâm ba không được các bắp thịt lúc chúng co bóp đẩy về phía tim.
Vì não bộ bị tổn thương, các dây thần kinh kiểm soát tính cương (tone, tonus) các mạch máu có thể bị rối loạn, do đó các tĩnh mạch không còn đủ khả năng dẫn máu về tim một cách hoàn hảo.
Về vấn đề này, điều quan trọng là cần nhờ bác sĩ xem có phải là huyết khối tĩnh mạch sâu (deep vein thrombosis) hay không vì chứng này nguy hiểm. Còn không, thì nên kê chân, tay kê cao hơn lúc có thể để giúp máu, dịch chảy về tim, cũng như mang các vớ bó chặt hai cẳng chân để chân bớt sưng (tight stocking). Bác sĩ cũng có thể cho bệnh nhân mang những cái "sling", dụng cụ treo cánh tay lên để giữa khớp vai ổn định dưới sức kéo xuống do sức nặng của cánh tay.
9) Mặt có thể sưng vì nhiều lý do rất khác nhau. Người bệnh vì một lý do nào đó chỉ nằm nghiêng một bên mà không nhúc nhích nhiều, các dịch có thể ứ đọng qua một bên, là mặt sưng nhiều hơn là bên kia. Máu lưu thông trong tĩnh mạch bất bình thường cũng có thể làm sưng lên phía đó. Nếu là nhiễm trùng thì kèm theo đau, nóng sốt, da sờ nóng. Thường, sưng do dị ứng kèm theo triệu chứng ngứa, và lúc hỏi bệnh, bác sĩ có thể tìm hiểu bệnh nhân dị ứng với cái gì, chất gì và tại sao một bên mặt bị phản ứng mà bên kia lại không (ví dụ dị ứng với một thuốc chỉ thoa có một bên, hay nằm nghiêng trên gối có dính chất gây dị ứng.)
10) Một hai ngày sau khi bị stroke, bệnh nhân có thể hồi phục ít nhiều, lúc còn trong nhà thương. Sau đó là giai đoạn y khoa phục hồi 4-6 tuần, 5-6 ngày/tuần với chuyên viên vật lý trị liệu, trong nhà thương hoặc ngoại chẩn. Phần lớn các sự hồi phục xảy ra trong 6 tháng đầu. Sau đó, tùy bệnh nhân, tùy phương tiện phục vụ bệnh nhân.
Sau mấy ngày đầu:
  • 10% hồi phục hoàn toàn
  • 25% chỉ có vần đề nhỏ
  • 40% triệu chứng vừa hay nặng
  • 10% cần săn sóc lâu dài (long-term care), cần người khác giúp đỡ lúc mặc áo quần, tắm rửa, ăn uống, chuyển từ giường sang xe lăn, đi phòng vệ sinh (các sinh hoạt đời sống hằng ngày; activities of daily living hay ADLs).
Xin cảm ơn vị thính giả đặt câu hỏi để chúng ta có cơ hội tìm hiểu về một số vấn đề liên hệ rất nhiều người.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Nghiến răng ban đêm (sleep bruxism)

Bruxism (teeth grinding): là bệnh nhai hay nghiến răng (clenching) ban đêm lúc ngủ (sleep bruxism) hay ban ngày (daytime bruxism). Phụ nữ bị chứng bruxism ban ngày nhiều hơn. Nha sĩ khám thấy mặt trên của men răng bị mòn, hoặc có những vết nứt và gãy ở chân răng. Người bệnh nặng có thể bị nhức đầu, đau tai (mặc dù tai bình thường), đau các bắp cơ hàm, một phần vì các bắp thịt phụ trách các cử động xương hàm dưới phải làm việc quá nhiều, một phần có thể do khớp hàm-thái dương (TMJ) bị tổn thương. Nghiến răng lúc ngủ được xem như là một rối loạn cử động liên hệ tới giấc ngủ (sleep related movement disorder. Bruxism thường đi kèm với những rối loạn khác của giấc ngủ như ngáy (snoring) và ngưng thở lúc ngủ (sleep apnea). Các rối loạn cử động của giấc ngủ khác: hội chứng chân không yên lúc ngủ, chân co rút lúc ngủ, rối loạn gây cử động nhịp nhàng trong lúc ngủ, rung bàn chân lúc ngủ (Restless legs syndrome, Periodic limb movement disorder, Sleep-related leg cramps, Sleep-related rhythmic movement disorder, Hypnagogic foot tremor).
Nói chung, trên thực tế, bệnh bruxism nhẹ chỉ cần đi khám răng đều đặn để bảo vệ sức khỏe răng miệng. Nha sĩ có thể chế tạo cho bệnh nhân một loại vỏ bọc răng gọi là "night dentalguard" để bệnh nhân mang ban đêm (dental protector for nighttime teeth grinding). Trên thị trường cũng có bán những nightguard có 2 lớp; một lớp "gối" mềm ở trên để làm dịu sức nghiến ở trên, lớp cứng lót ở dưới để không bị răng cứng đâm thủng. Giá chừng 20 đôla.
Chúng ta chưa hiểu rõ về nguyên nhân và cơ chế tại sao gây ra bệnh bruxism. Ngoài những nguyên nhân từ mất cân bằng hàm và răng (malocclusion), có thể có những yếu tố khác như stress, lo âu, tràn dịch bao tử thực quản (dịch acid từ dạ dày chạy ngược lên thực quản và miệng, gastroesophageal reflux), bệnh hệ thần kinh như Parkinson. Nói một cách khác, nghiến răng như là hiệu ứng của những rối loạn nào khác là một vấn đề khó giải quyết, nếu nặng và muốn biết tường tận cần nhiều bác sĩ khảo cứu và góp ý.
Bác sĩ có thể tìm hiểu thêm bệnh nhân có những rối loạn về giấc ngủ khác ngoài chứng nghiến răng hay không hay không, tuy rằng chúng ta không biết các chứng này, đều là xảy ra trong giấc ngủ, có liên quan với nhau hay không. Ví dụ hội chứng chân cẳng không yên lúc ngủ (restless legs syndrome), thường xảy ra ở phụ nữ, gây khó chịu đau nhức hai cẳng chân lúc ngủ và bệnh nhân phải nhúc nhích, cử động thường xuyên hai chân, làm họ mất ngủ; có thể đi đôi với mức dự trữ chất sắt trong cơ thể bị thấp, có kèm theo hay không bệnh thiếu máu, bệnh tiểu đường, bệnh thận, bệnh viêm thần kinh ngoại biên, hay liên quan đến việc dùng thuốc (như thuốc chống dị ứng, thuốc chống trầm cảm, chống co giật), hay dùng cà phê, trà có nhiều caffeine, uống rượu, có bầu, v.v. Có thể chú trọng vào các điểm này cũng có thể có ích làm cho giấc ngủ bình thường hơn.
Đồng thời những biện pháp tổng quát như thư giãn (thiền, yoga, đọc kinh; tắm nước nóng, tắm nước lạnh, massage), vận động thể thao thể dục vừa phải, giữ phòng ngủ yên tĩnh, không sáng quá, ngủ theo giờ giấc đều đặn, đủ giờ ngủ; tránh biến phòng ngủ thành nơi làm việc với iphone, laptop vv.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền