Friday, June 17, 2016

Móng Chân Mọc Vào Thịt (Ingrown Toenail)

Chứng móng chân mọc vào thịt rất thường thấy, là tình trạng chỗ góc hoặc cạnh của móng chân mọc vào phần thịt mềm kế bên gây ra đau, đỏ, sưng và, đôi khi, nhiễm trùng. Chứng này thường xẩy ra nơi ngón chân cái.
Thường thì bạn có thể tự chữa chứng này nhưng nếu bị đau nhiều hay vết thương lan rộng, bạn có thể phải nhờ bác sĩ thực hiện một vài thủ thuật để giảm bớt sự khó chịu và giúp tránh được các biến chứng.
Nếu bị bệnh tiểu đường hoặc bệnh khác khiến máu lưu thông đến bàn chân kém đi, bệnh nhân có nguy cơ cao bị các biến chứng.
 Triệu chứng
Gồm có:
- Đau ở ngón chân một hoặc cả hai bên của móng
- Đỏ xung quanh móng chân
- Sưng xung quanh móng
- Nhiễm trùng mô xung quanh móng chân
 Khi nào nên đi khám bệnh
Nên gặp bác sĩ nếu quý vị: 
- Bị bệnh tiểu đường hoặc bệnh suy tuần hoàn chân hay đau và nhiễm trùng
 Nguyên nhân
Gồm có:
- Mang giày chật làm các móng chân chạm nhau
- Cắt móng chân quá ngắn hoặc không cắt thẳng ngang
- Bị thương ở móng chân
- Móng chân cong bất thường
 Biến chứng
Nếu không phát hiện ra và điều trị, chứng móng chân mọc vào thịt có thể lây sang các xương bên dưới, đưa đến nhiễm trùng xương nghiêm trọng.

Nếu bệnh nhân có bệnh tiểu đường thì biến chứng còn nghiêm trọng hơn vì lưu thông của máu và dây thần kinh điều khiển bàn chân có thể bị suy yếu. Vì vậy, bất kỳ chấn thương chân nào dù nhỏ như vết cắt, trầy, chai, sẹo hoặc móng chân mọc vào thịt, cũng có thể không lành được và có thể dẫn đến nhiễm trùng. Một vết loét khó lành có thể cần phải được cắt bỏ để ngăn bị hoại tử của mô do sự gián đoạn trong lưu lượng máu đến đó.
 Điều trị 

Bệnh nhân bị chứng móng chân mọc vào thịt có thể tự chữa bằng nhiều cách như ngâm chân thường xuyên trong nước ấm và bôi kem trụ sinh.

Nếu vẫn bị đau sau vài ngày hoặc có mủ và sưng đỏ lan rộng, nên đến gặp bác sĩ . Một phần của móng chân có thể phải được cắt bỏ và bệnh nhân có thể phải uống trụ sinh chống nhiễm trùng.

Phương pháp điều trị gồm có:

- Nâng móng lên. Nếu móng chỉ hơi mọc vào trong (bị sưng đỏ và đau nhưng không có mủ), bác sĩ có thể đặt bông băng, dây chỉ răng (dental floss) hay hoặc một thanh nẹp nhỏ dưới cạnh của móng chân để tách móng khỏi phần da phủ lên trên móng, giúp móng chân mọc lên trên da.

- Cắt bỏ một phần móng chân. Khi móng chân mọc vào thịt nhiều hơn (sưng đỏ, đau và có mủ), bác sĩ có thể phải cắt bỏ phần móng mọc vào thịt. Trước khi cắt, bác sĩ có thể chích thuốc tê để tạm thời làm tê liệt ngón chân.

- Cắt bỏ một phần móng và mô thịt chung quanh. Nếu bị móng chân mọc vào thịt nhiều lần, bác sĩ có thể đề nghị cắt bỏ một phần của móng chân và mô dưới da để tránh phần móng chân này mọc trở lại. Thủ thuật này có thể thực hiện bằng hóa chất, tia laser hoặc các phương pháp khác .

Bác sĩ cũng có thể khuyên bạn sử dụng kem trụ sinh tại chỗ hoặc uống trụ sinh để điều trị, nhất là khi ngón chân bị nhiễm trùng hoặc có nguy cơ bị nhiễm trùng.
 Tự chữa
Chứng móng chân mọc vào thịt có thể được tự chữa ở nhà bằng những cách sau:

- Ngâm chân trong nước ấm khoảng 15 đến 20 phút, hai hoặc ba lần một ngày. Ngâm làm giảm sưng và giảm đau .

- Đặt miếng bông băng nhỏ hoặc dây chỉ răng (dental floss) bên dưới phần móng chân mọc ngược vào thịt sau khi ngâm chân. Cách này sẽ giúp móng mọc lên trên phần da thay vì tiếp tục mọc sâu vào trong thịt . Thay đổi bông hoặc floss hàng ngày cho đến khi bớt đau và đỏ.

- Bôi kem trụ sinh (Bacitracin hay Neosporin) ngay tại chỗ đau và sưng đỏ.

- Đi giày hở mũi hoặc dép cho đến khi ngón chân đỡ hơn.

- Dùng thuốc giảm đau. Nếu đau quá nhiều có thể uống thuốc giảm đau mua tự do như acetaminophen (Tylenol) hoặc ibuprofen (Advil, Motrin IB hoặc hiệu khác) cho đến khi bạn có thể gặp bác sĩ.

- Xem xét kỹ bàn chân. Nếu bạn có bệnh tiểu đường, nên xem xét kỹ chân hàng ngày để xem có dấu hiệu của móng chân mọc vào thịt hoặc các vấn đề về chân khác .
phòng chống
 Phòng ngừa
- Cắt móng chân thẳng ngang. Không cắt cong để phù hợp với hình dạng của mặt trước ngón chân. Nếu đến tiệm làm móng, hãy yêu cầu cắt móng chân thẳng ngang. Nếu có vấn đề lưu thông máu trong bàn chân của bạn do bệnh tiểu đường hoặc bệnh mạch máu ngoại vi, nên đến bác sĩ chuyên về bàn chân (podiatrist) thường xuyên để được cắt móng chân đúng cách nếu bạn không thể tự cắt.

- Giữ móng chân dài vừa phải. Cắt móng chân ở mức ngang bằng với đầu ngón chân Nếu cắt móng chân quá ngắn, sức ép từ đôi giày lên mô ngón chân có thể làm móng mọc vào trong thịt.

- Mang giày vừa vặn. Giày chật sẽ đặt áp lực quá nhiều vào ngón chân hoặc ép các ngón chân khiến móng chân phải mọc vào các mô xung quanh. Nếu bị suy yếu dây thần kinh đến chân, bệnh nhân có thể bị mất cảm giác và không nhận ra là giầy quá chật. Nên chọn giầy cẩn thận và chỉ mang giầy vừa vặn thoải mái, tốt nhất là từ một cửa hàng giày chuyên về giày dép cho những người có vấn đề về bàn chân.

- Mang giày bảo vệ. Nếu công việc khiến bạn có nguy cơ bị thương ngón chân, nên mua giày bảo vệ, thí dụ như giày bằng thép ở phần ngón, để bảo vệ ngón chân của bạn.

Chứng ù tai

Chứng ù tai, một “bệnh” khá thông thường. Người ta ước tính có tới vài triệu người Mỹ mắc chứng ù tai tới mức ảnh hưởng tới cuộc sống của họ. Chứng ù tai không phải là một bệnh mà là một triệu chứng có thể gây ra bởi nhiều bệnh khác nhau, thí dụ như bệnh giảm thính lực của tuổi già hay do chấn thương tai. Ù tai cũng có thể là triệu chứng của bệnh về hệ tuần hoàn.
 Thế nào là ù tai?
Nếu chưa bao giờ bị ù tai, các bạn sẽ khó tưởng tượng được ù tai là như thế nào. Những bệnh nhân ù tai “nghe” thấy trong tai mình có những tiếng động bên ngoài không hề có mà chính họ đôi khi tưởng là có. Triệu chứng ù tai gồm có:

· Tiếng động trong tai như tiếng reng, tiếng “zừ”, tiếng gầm, tiếng huýt sáo hay tiếng “xì”..
· Mất thính giác

Những tiếng động nghe được có thể lớn hay nhỏ, cao hay thấp và có thể nghe trong một hay hai tai. Trong vài trường hợp, tiếng ù tai lớn đến nỗi bệnh nhân không nghe được những tiếng động thực sự bên ngoài.
Ráy tai quá nhiều cũng có thể làm bạn ù tai nhiều hơn. Ráy tai nhiều khiến bệnh nhân không nghe tiếng động thực sự bên ngoài và làm tiếng động “bên trong” lớn hơn.
 Nguyên nhân của chứng ù tai
Nơi tai trong (inner ear), chúng ta có hằng ngàn những tế bào thính giác có chứa điện. Trên mặt của những tế bào thính giác là những sợi lông rất nhỏ. Nếu chúng ở tình trạng “mạnh khỏe”, những sợi lông này sẽ chuyển động theo sức ép của những làn sóng âm thanh từ ngoài vào. Sự chuyển động này khiến cho những tế bào thính giác phát ra một luồng điện tới sợi thần kinh thính giác và rồi những tín hiệu này được gửi lên óc. Óc chúng ta nhận ra đây là những âm thanh.

Nếu những sợi lông mỏng manh này bị hư hại, uốn cong, chúng sẽ chuyển động rối loạn không theo một chiều hướng nào cả. Do đó, những tế bào thính giác sẽ gửi lên óc những “tín hiệu” bất thường khiến óc bạn “nghe” được âm thanh không hề có.
Các tế bào thính giác có thể bị hư hại do những nguyên nhân sau:
· Giảm thính lực do tuổi già: bệnh này thường bắt đầu vào khoảng 60 tuổi.
· Chấn thương gây hư hại tai trong: những tiếng động quá lớn, nghe từ ngày này qua ngày khác như tiếng nhạc rock, xe kéo hạng nặng, cưa máy, khí giới...có thể làm giảm thính lực nhiều.
· Dùng một vài thứ thuốc quá lâu ngày thí dụ như thuốc aspirin hay một vài loại kháng sinh. Khi ngưng dùng thuốc, có thể bạn sẽ nghe trở lại.
· Thay đổi của chuỗi xương nhỏ trong tai: những xương này có thể bị cứng lại khiến không vận chuyển âm thanh được vào tai trong.
· Chấn thương ở cổ hay đầu có thể làm hư hại tai trong.
Một vài bệnh về hệ tuần hoàn cũng có thể gây ra chứng ù tai từ bên trong:
· Xơ động mạch: Với tuổi già và sự tích tụ của chất cholesterol cũng như vài loại chất mỡ khác, những mạch máu lớn gần tai giữa và tai trong của bạn sẽ bị mất tính đàn hồi tức khả năng co giãn với mỗi nhịp bóp của tim. Sự giảm tính đàn hồi này làm máu chẩy mạnh và xoáy hơn khiến tai ta có thể nghe được.
· Cao huyết áp: cao huyết áp và những yếu tố khác như stress, rượu và cà phê có thể làm cho âm thanh ù tai rõ hơn. Thường, ta có thể làm âm thanh biến mất khi thay đổi vị trí đầu.
· Luồng máu chẩy bị xoáy: khi động mạch hay tĩnh mạch ngay cổ bị hẹp hay bị gập lại, luồng máu chẩy bị xoáy khiến làm ra tiếng động.
· Những vi quản bị dị dạng: một tình trạng gọi là dị dạng chỗ nối giữa động mạch và tĩnh mạch có thể gây ra tiếng động làm ù tai.
· Bướu ở vùng đầu và cổ: ù tai có thể là một triệu chứng của bệnh này.
 Khi nào nên đi khám bệnh?
Đa số chứng ù tai không làm hại gì cả. Tuy nhiên, nếu càng ngày càng bị ù tai nhiều, hoặc kèm theo mất thính lực và chóng mặt, bạn nên đi khám bệnh. Bác sĩ có thể giúp bạn làm giảm bớt tiếng động ù tai và cách để làm quen với tiếng động này. Nếu chứng ù tai của bạn không phải là do bệnh mất thính lực vì tuổi già, và ù tai xuất hiện cùng lúc với mất thính lực trong cùng một bên tai, có thể là bạn đã bị hư hại dây thần kinh nơi tai trong do một chấn thương nào đó, bạn cần phải được khám bệnh.
 Chữa bệnh
Cách chữa bệnh ù tai là tùy theo nguyên nhân.

Nếu nguyên nhân là chứng mất thính lực do tuổi già hoặc tai bị hư hại do nghe tiếng động quá to lâu ngày, không có cách nào làm giảm tiếng động này cả. Bác sĩ có thể chỉ cách cho bạn làm quen với những tiếng động này.

Nếu ù tai là do một nguyên nhân khác, thí dụ như do quá nhiều ráy tai, bác sĩ có thể lấy ráy ra để giúp bạn nghe rõ hơn và bớt ù tai. Nếu là do bệnh mạch máu, cách chữa phải hướng về những bệnh này. Nếu do thuốc uống, có thể bạn phải ngưng uống hoặc đổi qua một thứ thuốc khác. Do đó, bạn cần đi khám bệnh để tìm ra nguyên nhân.
Ngoài ra bạn còn có thể theo những cách sau đây để làm giảm thiểu sự khó chịu khi phải “nghe” tiếng động ù tai:
· Tránh những chất kích thích: ù tai có thể tăng lên do tiếng động quá lớn, chất nicotine trong thuốc lá, chất caffeine, nước khoáng có chứa chất quinine, rượu và aspirin. Chất nicotine và caffeine làm mạch máu co lại và tăng tốc độ luồng máu chẩy qua động mạch và tĩnh mạch. Rượu làm cho trương nở mạch máu khiến lượng máu chẩy qua lớn hơn, nhất là vùng tai trong, do đó, bạn bị ù tai nhiều hơn.
· Lấp bớt tiếng động: khi trong phòng yên lặng, nên cho quạt chạy, mở nhạc êm dịu và nhỏ có thể làm giảm bớt tiếng ù tai. Người ta cũng có thể đeo một thứ máy phát ra tiếng động êm tai để che bớt tiếng ù tai .
· Mang máy nghe: nếu ù tai đi theo với mất thính lực, đeo máy nghe để nghe rõ hơn có thể làm giảm bớt tiếng ù.
· Giảm bớt căng thẳng: có thể dùng những cách như tập thư giãn, biofeedback hay tập thể dục để giúp giảm ù tai.

Ai bảo sâu răng là khổ?

Chắc chắn không ai chưa từng bị sâu răng. Nhiều người còn từng trải qua những giờ nhức nhối vì răng sâu. Vậy sâu răng là gì?
Sâu răng là những chỗ bị hủy hoại của răng, mới đầu chỉ là một vết nhỏ, sau loang dần ra thành chiếc lỗ sâu hoắm, có thể trông thấy dễ dàng. Khi răng đã bị lỗ sâu như vậy, phần “tủy răng” có những dây thần kinh sẽ bị lộ ra khiến nạn nhân bị nhức răng, nhiều khi đến chịu không nổi.
Trẻ em bị sâu răng nhiều nhất nhưng ai cũng có thể bị sâu răng, kể cả em bé dưới một tuổi hay cụ già. Có thể nói bệnh sâu răng là bệnh thông thường nhất của thế giới, không chừa một ai, giầu cũng như nghèo. Nhưng dĩ nhiên là dân nước giầu thì có cơ hội được chữa răng nhiều hơn nên trông bảnh bao hơn dân nước nghèo. Chữa răng sớm thật quan trọng vậy.
Triệu chứng
Rất dễ nhận thấy, nhất là khi sâu đã nhiều
- Đau răng
- Buốt răng
- Đau từ ít đến nhiều khi ăn uống những thứ ngọt, nóng hay lạnh
- Vẫn còn đau sau khi ngưng ăn hoặc uống
- Thấy lỗ răng sâu
- Đau khi cắn xuống
- Có mủ chảy ra từ chân răng.
Nguyên nhân
Trong miệng có chứa rất nhiều loại vi trùng. Vài loại này sống nhờ đồ ăn và uống có chứa chất đường hay chất tinh bột lên men được. Khi ta ăn xong, những chất này còn đọng lại trên răng và nếu không được chùi sạch, vi trùng sẽ biến chúng thành chất acid nhiều khi chỉ trong vòng 20 phút. Vi trùng, acid, những miếng đồ ăn nhỏ, và nước miếng sẽ quyện lại thành bựa răng, tức lớp dính dính trên răng. Chỉ cần rà lưỡi lên răng vài giờ sau khi ăn, chúng ta có thể cảm nhận được lớp bựa răng này đang đóng lại. Lớp bựa này dễ cảm thấy ở những răng bên trong, nhất là ngay đường tiếp giáp nướu. Chất acid trong lớp bựa này tấn công lớp men răng tạo thành một chỗ thủng nhỏ, đó chính là lỗ sâu răng. Khi lớp men răng bị ăn mòn, vi trùng và chất acid này sẽ chạm tới lớp dentin kế tiếp. Lớp này mềm hơn nên dễ bị phá hủy bởi chất acid, do đó lỗ sâu sẽ lớn ra rất nhanh.

Sau đó, vi trùng và acid sẽ tiếp tục ăn qua những lớp phía dưới của răng tới phần tủy bên trong, là phần chứa dây thần kinh và mạch máu. Tủy xương bị sưng lên. Phần xương nâng đỡ răng cũng bị ảnh hưởng.
Khi răng đã bị sâu đến mức này, bệnh nhân sẽ bị nhức răng rất nhiều, dễ nhạy cảm, cắn bị đau hay các triệu chứng khác. Cơ thể cũng có thể phản ứng bằng cách gửi nhiều bạch huyết cầu tới để chống lại nhiễm trùng và có thể biến vùng sâu răng thành một bọc mủ.

Tiến trình sâu răng như kể trên có thể xẩy ra trong một thời gian dài. Răng vĩnh viễn thường chắc hơn răng sữa nên có thể “chống cự” lâu hơn, kéo dài 1 hay 2 năm. Nước miếng cũng có thể giúp bớt sâu răng bằng cách rửa sạch vi trùng và acid. Nhưng một khi đã ăn sâu, tiến trình sâu răng càng nhanh hơn.
Răng bên trong như răng hàm và tiền hàm dễ bị sâu hơn vì chúng có nhiều rãnh trên thân răng khiến thức ăn dư dễ bám vào hơn. Chúng cũng khó được chùi sạch. Bựa răng do đó dễ đóng lại giữa những răng này, làm chỗ tốt cho vi trùng trú ngụ, tạo ra acid làm hại men răng.
Yếu tố gây hại
1. Vài loại thức ăn uống: Những thức ăn có nhiều chất đường và chất tinh bột dễ gây ra sâu răng vì chúng dính vào răng rất lâu: sữa, mật ong, đường, nước ngọt có gas, nho khô, bánh cake, kẹo cứng, trái cây khô, bánh cookies, ngũ cốc khô, bánh mì, khoai tây chiên. . . Ngược lại, một vài loại thức ăn thường bị cho là dễ gây sâu răng lại không sao, thí dụ như kẹo dẻo (candy bars), jelly beans, kẹo caramel. . . vì chúng dễ bị nước miếng rửa sạch.
2. Hay ăn uống vặt: Nếu chúng ta ăn uống vặt thường xuyên, chất acid sẽ có nhiều thì giờ làm hư hại răng hơn. Vì thế, không nên cho các em bé bú bình khi đi ngủ vì những chất sữa, nước trái cây. . . sẽ dính ở răng lâu và dễ làm sâu răng. Có thể cho em bé uống chút ít nước sau khi bú sữa để làm giảm chất sữa dính ở răng.
3. Không chải răng: Nếu ta không làm sạch răng sau khi ăn, bựa răng sẽ dính chặt khiến dễ bị sâu răng.
4. Uống nước chai thay vì nước máy: Trong nước máy, cơ quan y tế đã cho nhiều chất flouride để giúp giảm sâu răng. Nhưng hiện nay, người ta có thói quen uống nước chai quá nhiều khiến số lượng flouride vào người bị giảm. Đây cũng là một nguyên nhân khiến ta dễ bị sâu răng Ngước lại, nếu ta uống nước chai có cho thêm flouride, lại uống nước máy có flouride, ta sẽ lâm vào tình trạng dư flouride, cũng nguy hại không kém.
Do đó nên hỏi ý kiến bác sĩ hay nha sĩ và đọc kỹ nhãn hiệu chai nước.
5. Tuổi cao: Ở tuổi cao, răng càng mòn và dễ hư hay bị sâu. Người cao tuổi cũng dễ bị hư vùng chân răng.
6. Nướu hở: Nuớu răng rút lại, phần chân răng bị nhô ra nhiều dễ khiến cho bựa đóng vào chân răng. Chân răng thông thường được phủ bởi một lớp cementum, lớp này bị mất đi khi chân răng bị hở ra, khiến dễ bị sâu răng hơn vì lớp dentin bên dưới mềm hơn dễ bị phá hủy.
7. Miệng khô: Nước miếng giữ nhiệm vụ quan trọng trong việc bảo vệ răng vì nó quét sạch đồ ăn và bựa trên răng. Những chất khoáng trong nước miếng cũng giúp “vá” lại những chỗ hư. Nước miếng còn ngăn chận vi trùng sinh sôi nảy nở và trung hòa chất acid gây ra hư răng.
8. Chỗ trám lỏng lẻo hay gồ ghề: Những chỗ hở từ những miếng trám răng lâu ngày là chỗ để bựa răng thiết lập và làm hư răng.
9. Bệnh về ăn uống: Những bệnh như không ăn được (anorexia) hoặc ăn rồi ói ra (bulimia) sẽ làm răng bị mòn đi do nước bao tử có chứa nhiều chất acid dính ở răng khi bệnh nhân ói. Những người này còn có thể không tạo ra được nước miếng hoặc nhấm nháp nước soda suốt ngày khiến răng lúc nào cũng có một lớp đường bám ở đó.
10. Bị đau bao tử: Bệnh ợ nóng (heart burn) cũng làm chất acid trào lên miệng gây hư răng.
11. Lây qua gần gũi: Vi trùng có thể từ miệng người này lan qua người khác khi hôn nhau hoặc khi ăn uống chung.
12. Chữa ung thư bằng xạ trị: Chiếu quang tuyến vào vùng đầu cổ có thể gây sâu răng vì làm giảm lượng nước miếng tạo ta.
Khi nào nên gặp nha sĩ?
Nhiều khi ta đã bị sâu răng nhưng vết sâu còn bé chưa nhìn thấy bằng mắt thường được. Nếu chữa ngay từ lúc này sẽ ít bị đau và dễ chữa hơn. Do đó, ta nên gặp nha sĩ thường xuyên, hầu khám phá ra chỗ răng sâu khi còn rất sớm và chữa ngay. Đây là cách tốt nhất để đề phòng sâu và hư răng. Khi đã sâu khá nhiều, triệu chứng đầu tiên sẽ là đau răng. Khi đã bị đau răng hay đau trong miệng, ta nên đến gặp nha sĩ ngay.
Ngoài triệu chứng đau răng, ta còn nên gặp nha sĩ khi có những triệu chứng sau:
- Nướu răng bị đau, sưng đỏ
- Nướu răng bị chảy máu.
- Nướu răng bị kéo lên cao, lộ răng ra khiến răng có vẻ dài thêm.
- Khi nhấn vào nướu thấy có mủ chảy ra chung quanh răng.
- Miệng có vị đắng.
- Hơi thở hôi không biết rõ nguyên nhân
- Răng lung lay
- Có sự thay đổi của khớp cắn hàm trên và hàm dưới
- Răng giả cảm thấy khác
- Ăn ngọt, nóng hay lạnh bị buốt
- Có những chỗ đau trong răng khiến ta ngại chải vào chỗ đó
Một khi triệu chứng đã xuất hiện, răng chúng ta đã bị hư hại. Nên đến nha sĩ khám răng tổng quát và làm sạch răng dù ta không cảm thấy gì khác trong miệng. Hơn lúc nào hết, câu “phòng bệnh hơn chữa bệnh” áp dụng đối với răng là thích hợp nhất.
Khám và tìm bệnh
Nha sĩ thường tìm thấy chỗ sâu răng một cách dễ dàng. Họ sẽ hỏi xem ta có đau răng hay miệng không và dùng những dụng cụ nha khoa tìm chỗ sâu. Họ cũng có thể chụp quang tuyến X vì cách này cho thấy rõ ràng chỗ sâu. Có 3 loại sâu răng:
- Sâu ở bề mặt phẳng: vết sâu ở nơi mặt phẳng của răng, chỗ vi trùng dính lâu và chất acid có thể làm hư men răng. Thường là mặt hướng về phía má, gần đường nướu răng. Đây là loại sâu răng dễ ngừa và chữa, trừ khi là mặt phẳng giữa 2 răng.
- Sâu trên mặt có rãnh và chỗ lõm của mặt nhai: thường là của các răng bên trong. Loại sâu răng này thường tiến rất nhanh nếu chúng ta không chữa trị kịp thời hay săn sóc răng thật cẩn thận.
- Sâu ở chân răng: thường xẩy ra ở người lớn tuổi khi nướu răng bị tuột để hở chân răng.
Biến chứng
Nhiều người trong chúng ta hay cho rằng sâu răng không có gì quan trọng, ai mà chẳng sâu răng. Hơn nữa, răng sữa của các em mà sâu thì đâu có gì đáng kể vì trước sau gì thì chúng cũng thay răng khác. Tuy nhiên, sâu răng có thể gây ra nhiều biến chứng nặng và kéo dài, ngay cả nơi răng sữa.
Biến chứng gồm có:
- Đau răng
- Bọc mủ răng
- Mất răng
- Mẻ răng
- Không nhai được
- Nhiễm trùng nặng
Khi chúng ta bị đau răng dữ dội, ai cũng biết là khó mà tiếp tục công việc hằng ngày, đi học, đi làm. . . Răng đau còn khiến ta khó thể ăn, uống, nói chuyện. Mất răng có thể khiến ta bị mặc cảm. Nếu bị bọc mủ răng, ta có thể bị nhiễm trùng nặng, đôi khi nguy hiểm đến tính mạng nếu không được chữa kịp thời.
Nơi các em bé, răng sâu cũng có thể gây ra nhiễm trùng; ngoài ra, răng bị nhổ sớm có thể đưa đến việc răng vĩnh viễn bị mọc lệch lạc.
Chữa trị
Có nhiều cách:
- Chữa bằng chất flouride: Flouride là một khoáng chất có tác dụng ngừa sâu răng và giúp răng tự hàn gắn. Nếu răng mới bắt đầu sâu, chữa bằng flouride có thể giúp giữ lớp men răng. Khi chũa, nha sĩ sẽ dùng lượng flouride nhiều hơn là có trong kem đánh răng. Nha sĩ có thể quét một lớp flouride nước, gel hay foam lên mặt răng hoặc để chất này trong bộ nhựa phủ lên cả hàm răng. Mỗi lần chữa kéo dài khoảng vài phút. Nha sĩ có thể khuyên bạn chữa bằng flouride theo định kỳ.
- Trám răng: Khi răng đã sâu quá hơn mức chỉ xoi mòn lớp men, nha sĩ thường chữa bằng cách trám răng, tức dùng chất đặc để trám vào chỗ răng đã bị hủy sau khi đã đào lấy chỗ hư này ra. Chất trám răng có thể là chất resin tiệp mầu răng, chất sứ, hoặc hỗn hợp nhiều chất. Chất trám “silver amalgam” gồm nhiều chất trong đó có một ít thủy ngân, vì thế một số người không thích dùng vì sợ bị nhiễm độc. Tuy nhiều nghiên cứu cho thấy chất trám này vẫn an toàn nhưng điều này hiện nay vẫn còn được bàn cãi.
- Bọc răng: Nếu chỗ sâu quá nặng hoặc răng bạn đã bị yếu, nha sĩ có thể khuyên bạn bọc thay vì trám răng. Chỗ sâu sẽ bị đục bỏ và phần răng còn lại sẽ được bọc kín bằng chất vàng, chất sứ hoặc sứ trộn với kim loại.
- Lấy tủy: Khi chỗ sâu rất nặng, ăn đến phần tủy răng, bạn sẽ cần được lấy tủy. Phần tủy răng sẽ được đục bỏ và răng được trám lại.
- Nhổ răng: Răng hư quá nhiều không còn cứu vãn được sẽ phải nhổ đi. Vì hàm răng có chỗ trống, các răng chung quanh có thể xê dịch khiến hàm bị lệch lạc. Nha sĩ có thể khuyên bạn cấy răng vào chỗ trống.
Phòng ngừa
Quan trọng nhất là phải săn sóc răng miệng hằng ngày.
- Đánh răng sau khi uống hay ăn: Đánh răng ít nhất 2 lần mỗi ngày, lý tưởng là sau mỗi bữa ăn. Nên dùng kem đánh răng có chất flouride. Cần làm sạch giữa kẽ răng bằng cách dùng chỉ kéo răng (floss). Nếu không đánh răng sau khi ăn uống, ít nhất là phải tráng miệng bằng nước lạnh.
- Súc miệng bằng nước thuốc có chất flouride có thể giúp ngừa sâu răng.
- Gặp nha sĩ thường xuyên: mỗi 6 tháng hay ít hơn nên gặp nha sĩ để được khám răng miệng và làm sạch răng.
- Gắn lên răng chất bọc bằng plastic(sealant): Thường chất này được gắn vào mặt nhai của những răng bên trong, nơi dễ bị sâu răng nhất. Chất gắn này sẽ bảo vệ lớp men răng khỏi bựa và acid. Có thể dùng cách này cho cả trẻ em và người lớn. Cơ quan CDC khuyên các em nhỏ tuổi đi học nên được bảo vệ răng bằng cách này. Chất gắn này có thể tốt cho nhiều năm trước khi phải thay thế.
- Uống nước máy: Nước này có chứa chất flouride tốt cho răng. Nếu bạn chỉ uống nước trong chai, răng bạn sẽ không được bảo vệ.
- Không ăn vặt hay uống nước ngọt quá nhiều: Lúc nào cũng ăn uống sẽ khiến răng bạn bị “tấn công” thường xuyên bằng chất acid.
- Ăn những thức ăn tốt cho răng: Những thức ăn như cheese, trái cây va rau tươi làm tăng lượng nước bọt. Trà, cà phê và kẹo gum không đường “quét” những mảnh thức ăn đọng trên răng. Những thức ăn uống nói trên, do đó, có lợi trong việc ngừa sâu răng. Ngược lại, những thức ăn dễ dính vào những rãnh trên răng như chips, kẹo, cookies sẽ làm ta dễ bị sâu răng hơn.
- Chà chất flouride lên răng (flouride treament): Nha sĩ có thể khuyên bạn làm flouride treatment nếu bạn không ăn uống vào người đủ chất flouride. Nha sĩ sẽ xát lên răng một lớp flouride trong vài phút. Bạn cũng có thể chải răng bằng kem có chất flouride hoặc súc miệng bằng thuốc chứa flouride.
- Dùng thuốc trụ sinh: Nếu bạn dễ bị sâu răng vì một lý do nào đó, nha sĩ có thể cho bạn dùng thuốc súc miệng có chất trụ sinh hay những chất khác để giúp giảm số lượng vi trùng trong miệng bạn.
Tự giúp khi đau răng
- Làm hẹn gặp nha sĩ ngay
- Làm sạch răng và tất cả những vùng trong miệng, ngay cả những chỗ đang bị đau
- Đánh răng bằng nước ấm
- Dùng kem đánh răng đặc biệt cho răng nhậy cảm
- Không ăn uống thức ăn nóng, lạnh hay ngọt.
- Uống thuốc giảm đau sau khi hỏi ý kiến nha sĩ
- Dùng thuốc tê chấm vào chỗ đau sau khi hỏi ý kiến nha sĩ.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Nơi nghỉ chân cuối đường: hospice

Hospice là danh từ mới được dùng trong y khoa vài chục năm nay, khó tìm chữ Việt Nam để dịch. Định nghĩa ban đầu của nó: nhà nghỉ chân cho khách qua đường. Vâng, đây là nơi nghỉ ở cuối con đường đời, giai đoạn mà ai cũng phải trải qua mặc dù nói đến thì ai cũng không muốn nói. Chúng ta có thể tạm dịch hospice là sự chăm sóc dành cho những người không còn sống bao lâu nữa, mục đích là làm phần cuộc đời còn lại này dễ chịu đựng hơn, cũng như phần tâm linh được thanh thản hơn.
Nếu bạn hoặc người thân bị một căn bệnh “cuối cùng” đã hết cách chữa, đây là lúc nên tìm tới nơi nghỉ chân cuối đường tức “hospice”. Chúng ta nên tìm hiểu cách thức hoạt động của hospice và cách dùng hospice để có được sự thoải mái và hỗ trợ cần thiết cho mình hoặc người thân cũng như gia đình và bạn bè.
Chăm sóc cuối đời (hospice) là gì?
Chăm sóc hospice dành cho những người đang đi đến cuối đời. Dịch vụ chăm sóc người sắp chết này được cung cấp bởi một nhóm chuyên môn nhằm đem đến sự dễ chịu cho một người bị bệnh nan y bằng cách giảm đau và đáp ứng các nhu cầu vật chất, tâm lý, xã hội và tâm linh của họ. Để hỗ trợ gia đình người bệnh, hospice cũng cung cấp dịch vụ tư vấn, chăm sóc thay thế và trợ giúp thiết thực cho gia đình.

Không giống như các chăm sóc y tế khác, hospice không nhắm đến việc chữa bệnh. Mục tiêu của hospice là đem đến phẩm chất đời sống cao nhất có thể cho thời gian còn lại của bệnh nhân.

Hospice dành cho một người bị bệnh nan y dự kiến sẽ chỉ sống sáu tháng hoặc ít hơn. Điều này không có nghĩa là chăm sóc này chỉ kéo dài sáu tháng. Hospice vẫn có thể được cung cấp sau đó khi bác sĩ và nhóm chăm sóc xác nhận rằng tình trạng của bệnh nhân sẽ không kéo dài được.

Chăm sóc hospice không chỉ dành cho những người có bệnh ung thư mà còn có thể cho người có bệnh tim mạch, mất trí nhớ, suy thận hoặc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính.

Hospice đã được chứng minh là làm cho những người có bệnh nan y thấy đỡ hơn và sống lâu hơn. Ghi danh vào hospice sớm có thể giúp bạn hoặc người thân có mối quan hệ tốt với các nhân viên hospice, là những người có thể giúp chuẩn bị cho các nhu cầu cuối cùng của đời người.

Hầu hết các dịch vụ chăm sóc người sắp chết được cung cấp tại nhà - với một thành viên trong gia đình đứng ra làm người chăm sóc chính. Tuy nhiên, hospice cũng có tại các bệnh viện, nhà điều dưỡng, nhà lão và các cơ sở chuyên môn về hospice.

Bất kể hospice được cung cấp tại đâu, đôi khi bệnh nhân cũng cần được nhập viện, nếu một triệu chứng bệnh không thể được giải quyết bởi nhân viên hospice trong khung cảnh gia đình.

Nếu bệnh nhân nhận chăm sóc hospice tại nhà, nhân viên hospice sẽ thăm viếng thường xuyên để cung cấp các dịch vụ. Nhân viên hospice thường trực 24 giờ một ngày, bảy ngày một tuần.
Đội ngũ chăm sóc hospice gồm những ai?
Một đội ngũ chăm sóc cuối đời thường gồm có:
Bác sĩ. Bác sĩ riêng của người bệnh và một bác sĩ hospice hoặc giám đốc y tế sẽ giám sát việc chăm sóc.
Y tá. Y tá sẽ đến nhà để cung cấp dịch vụ chăm sóc. Y tá cũng có trách nhiệm phối hợp công việc của đội ngũ chăm sóc.

Nhân viên y tế phục vụ tại nhà. Những nhân viên này cung cấp những chăm sóc hằng ngày như thay quần áo, tắm rửa và ăn uống.

Tư vấn tâm linh. Linh mục, sư thầy hoặc những người cố vấn tâm linh khác có thể hướng dẫn tâm tinh cho cả gia đình.

Nhân viên xã hội. Nhân viên xã hội cung cấp tư vấn và hỗ trợ. Họ có thể giới thiệu bệnh nhân và gia đình đến các hệ thống hỗ trợ khác.

Dược sĩ. Dược sĩ giám sát việc dùng thuốc và góp ý về những cách hiệu quả nhất để giảm các triệu chứng.
Các thiện nguyện viên. Những thiện nguyện viên đã được huấn luyện về hospice cung cấp các dịch vụ tùy thuộc vào nhu cầu của người bệnh và gia đình, như làm bạn hoặc săn sóc bệnh nhân thay thế cho người nhà để họ được nghỉ ngơi, giúp đỡ với việc chuyên chở hoặc các nhu cầu thiết thực khác.
Các chuyên gia khác, thí dụ như chuyên viên về tiếng nói, thể chất và nghề nghiệp trị liệu, nếu cần thiết.
Tư vấn cho sự mất mát. Những người này cung cấp hỗ trợ và hướng dẫn sau cái chết của người thân được chăm sóc hospice.
Chi phí cho hospice
Medicare, Medicaid, Bộ Cựu Chiến Binh và bảo hiểm tư nhân có thể trả tiền cho việc chăm sóc hospice. Mỗi chương trình có chính sách riêng về việc thanh toán cho sự chăm sóc, nhưng dịch vụ thường được dựa trên nhu cầu chứ không phải khả năng chi trả. Nên hỏi về cách thanh toán trước khi lựa chọn một chương trình hospice.
Để tìm hiểu về các chương trình hospice, nên nói chuyện với các bác sĩ, y tá, nhân viên xã hội hoặc nhân viên tư vấn, hoặc liên lạc với văn phòng địa phương hay tiểu bang về tuổi già. Cũng có thể hỏi bạn bè hoặc hàng xóm. Tổ chức National Hospice and Palliative Care Organization có một danh sách các tổ chức hospice đăng trên mạng.
Đánh giá một chương trình hospice
Để đánh giá một chương trình hospice, nên đặt câu hỏi về các dịch vụ cung cấp. Ví dụ:
Chương trình có được Medicare chứng nhận không? Chương trình có được xem xét và cấp phép bằng cách khác không? Chương trình có được công nhận bởi The Joint Commission không?
Đội ngũ chăm sóc gồm những ai? Huấn luyện và xem xét như thế nào? Người giám đốc y tế có bằng chứng nhận về hospice không?
Chương trình vì lợi nhuận hay không lợi nhuận?
Chương trình có một dược sĩ tốt để giúp điều chỉnh thuốc?
Những dịch vụ nào được cung cấp cho người bị bệnh nan y? Cách làm giảm đau và các triệu chứng khác?
Sau giờ làm việc có người trực để giải quyết vấn đề không?
Mất bao lâu mới được chấp nhận vào chương trình?
Những dịch vụ nào được cung cấp cho gia đình người bệnh? Có những dịch vụ thay thế cho người chăm sóc không? Chương trình có những dịch vụ an ủi người thân sau khi người bệnh chết?
Chương trình có các thiện nguyện viên không?
Nếu hoàn cảnh thay đổi, dịch vụ có thể được cung cấp ở một nơi khác không? Chương trình có hợp đồng với các nhà dưỡng lão địa phương? Có hcương trình tại nàh không?

Các chi phí hospice có được trả bằng bảo hiểm hay các nguồn khác, chẳng hạn như Medicare, không?
Nên nhớ rằng hospice nhấn mạnh vào sự chăm sóc hơn là chữa bệnh. Mục đích là để cung cấp sự thoải mái trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc sống.
Chăm sóc cuối đời
Chăm sóc cho một người thân đang chờ chết không dễ dàng chút nào. Ngay cả khi bạn biết rằng kết thúc đang đến gần, bạn có thể không cảm thấy sẵn sàng. Hiểu được những gì sẽ đến - và những gì bạn có thể làm để tăng sự thoải mái của người thân yêu - có thể giúp bạn đối phó dễ dàng hơn.
Người thân của bạn có thể lựa chọn sự chăm sóc cho những ngày cuối cùng của cuộc sống. Các chọn lựa này có thể gồm:

Chăm sóc tại nhà. Rất nhiều người chọn chết tại nhà mình hoặc tại nhà của một thành viên trong gia đình. Bạn có thể đảm nhận vai trò của người chăm sóc hoặc thuê các dịch vụ chăm sóc tại nhà. Chăm sóc hospice - dịch vụ giúp bảo đảm phẩm chất cao nhất của cuộc sống cho thời gian còn lại - có thể được cung cấp tại nhà.
Chăm sóc bệnh nhân nội trú. Một số người có thể muốn sự chăm sóc toàn thời gian tại một nhà dưỡng lão, bệnh viện hay nhà hospice. Chăm sóc hospice cũng có thể được cung cấp ở các môi trường kể trên.

Khi thảo luận về các chọn lựa với người thân của bạn, hãy xem xét về sở thích của mình cũng như nhu cầu vật chất, tình cảm và tâm lý xã hội đặc biệt. Tính xem có được bao nhiêu sự trợ giúp từ gia đình và bạn bè. Để được giúp chọn chăm sóc tốt nhất, nên nói chuyện với đội ngũ chăm sóc sức khỏe người bệnh hoặc một nhân viên xã hội. Bạn có thể yêu cầu được giới thiệu đến các chuyên gia chăm sóc hospice.

Người bệnh có thể nói về tâm linh hoặc ý nghĩa của cuộc sống. Đừng ép họ nói về những vấn đề này nhưng nếu nó được họ đề cập tới, nên khuyến khích người bệnh nói ra để khám phá và giải quyết cảm xúc của mình. Bạn có thể hỏi người bệnh những câu hỏi mở về niềm tin và kinh nghiệm của mình hoặc những khoảnh khắc ý nghĩa nhất của họ. Bạn có thể mời một vị lãnh đạo tinh thần đến thăm và nói chuyện với người bệnh.
Bạn có thể giúp người bệnh nói ra mong muốn cuối cùng của họ tới gia đình và bạn bè. Khuyến khích người bệnh chia sẻ cảm xúc của mình, lời cám ơn và tha thứ, và cho người thân cơ hội để nói lời tạm biệt. Điều này có thể kích thích thảo luận về những suy nghĩ quan trọng chư từng nói ra, có thể có ý nghĩa cho tất cả mọi người.

Người bệnh cũng có thể muốn để lại một di sản - chẳng hạn như việc tạo ra một bản ghi âm về cuộc sống của mình hoặc viết thư cho những người thân yêu, đặc biệt là liên quan đến những sự kiện quan trọng trong tương lai.

Thật khó để dự đoán chính xác khi nào người bệnh sẽ chết. Tuy nhiên, khi cái chết gần đến, người bệnh có thể biểu lộ các dấu hiệu và triệu chứng cho thấy họ đã đến cuối đời, thí dụ:
Bồn chồn và kích động. Người bệnh có thể thường xuyên thay đổi vị trí.
Khép kín, thu lại. Người bệnh có thể muốn thu rút lại, không còn quan tâm đến bạn bè hoặc các hoạt động yêu thích.

Buồn ngủ. Người bệnh có thể thấy buồn ngủ, ngủ nhiều hơn hoặc có giấc ngủ không liên tục.
Mất cảm giác ngon miệng. Người bệnh có thể ăn và uống ít hơn bình thường.
Dừng hoặc thay đổi hơi thở. Điều này có thể xảy ra khi người bệnh đang ngủ hay thức.
Mặc dù bạn không thể thay đổi những gì đang xảy ra với người bệnh, bạn có thể giúp họ dễ chịu nhất có thể - với sự hỗ trợ của các chuyên gia chăm sóc hospice.
Sau đây là những cách giúp người bệnh cảm thấy dễ chịu hơn:
Nếu:

- Người bệnh không còn ăn hoặc uống: Giữ miệng ẩm với mẩu nước đá hoặc một miếng bọt biển ướt. Bôi dầu trơn lên môi để bớt khô.
- Khó thở: Đặt đầu về một bên, kê chiếc gối dưới đầu. Oxy hoặc máy tạo độ ẩm phun sương mát (cool humidifier) cũng có thể giúp làm dễ chịup. Hỏi nhân viên y tế xem có thể cho thuốc để bớt khó thở.
- Không kiểm soát tiêu tiểu: Dùng miếng đệm hoặc một ống thông để giữ cho người bệnh khô và sạch sẽ.
- Không nói được: Nói chuyện với người bệnh bằng một giọng nhẹ nhàng.

- Bị kích động hay bối rối: Hãy bình tĩnh và yên tâm. Nhắc nhở cho người bệnh biết họ là ai và đang ở đâu. Hỏi nhân viên y tế để được giúp đỡ nếu người bệnh quá sức kích động.

- Có vẻ đau đớn: Hỏi nhân viên y tế để điều chỉnh thuốc.
Người bệnh có thể trải qua một thời gian ngắn đột tăng năng lượng và trở nên tỉnh táo như bình thường. Đây là một phần thường có của cái chết đang đến. Nếu điều này xảy ra, nên tận dụng thời gian tỉnh thức còn lại của người thân và nói lời tạm biệt cuối cùng.

Đối với nhiều gia đình, luôn có mặt và cầu nguyện bên giường bệnh của người thân là một cách để thể hiện sự hỗ trợ và tình thương yêu. Nếu bạn quyết định có mặt, nên tiếp tục nói chuyện với họ. Nếu bạn nghĩ rằng người bệnh muốn chia sẻ thời gian này với những người khác, nên mời các thành viên gia đình hoặc bạn bè thân thiết đến để tỏ lộ sự hỗ trợ. Bày tỏ tình yêu của bạn đến người bệnh, nhưng cũng cho người bệnh biết rằng họ có thể ra đi thanh thản.

BS Nguyễn Thị Nhuận