Friday, January 29, 2016

Phình động mạch chủ (Aortic Aneurysm)

Bàn về một thuốc chữa bệnh tim RANEXA và bệnh giãn nở, phình động mạch chủ (aortic aneurysm).
Về thuốc, có một thuốc tên là RANEXA (tên generic là ranolazine) dùng để chữa chronic angina, là chứng đau tim kinh niên do máu đến nuôi bắp cơ tim không đủ.
Cơ chế tại sao thuốc ranolazine có tác dụng làm giảm đau tim chưa được biết rõ. Thuốc này không dùng cho chứng đau tim cấp tính, lúc mà bệnh nhân cần thuốc làm giãn nở mạch máu nuôi tim liền lúc đó, như nitroglycerin.
Biến chứng thường gặp nhất của Ranexa làm bệnh nhân bỏ thuốc là chóng mặt, buồn nôn, mệt mỏi, bón và nhức đầu. Bệnh nhân có thể bị tim đập quá chậm và thấy hồi hộp (palpitation). Tôi không thấy chỗ nào nói thuốc này gây ra giãn nở các động mạch lớn. Thuốc được biến dưỡng ở gan qua hệ thống men CYP3A; không được dùng chung với một số thuốc khác có thể ảnh hưởng hệ thống men CYP3A, như thuốc chống nấm ketoconazole, thuốc kháng sinh clarithromycin, thuốc chữa bệnh lao như rifampicin, thuốc chống co giật như phenobarbital, phenantoin, cabamaepin. Những người bị một chứng gọi là đoạn QT quá dài trên tâm điện đồ (prolonged QT syndrome), người bệnh gan, người có bầu hay cho con bú cần cho bác sĩ biết vì cần tránh thuốc này.
Phình động mạch chủ (aortic aneurysm):

Tim là một cái máy bơm tự động. Tim bên phải đem máu nghèo oxy (đã dùng rồi, máu đen đem về từ ngoại biên qua các tĩnh mạch) lên phổi để nhận oxy từ không khí được hít vào. Tim bên trái bơm máu chứa nhiều oxy ( máu đỏ, oxygenated blood) đi nuôi các bộ phận cơ thể (kể cả trái tim). Mạch máu lớn đi từ tim trái là động mạch chủ (aorta), hình dáng tựa như cán cây dù: phần nằm trong lồng ngực gọi là động mạch chủ ngực (thoracic aorta) từ đó xuất phát những nhánh động mạch đi lên cổ và đầu và hai cánh tay; có ba đoạn, một đoạn đi lên gọi là ascending aorta, đoạn cong, ngang gọi là aortic arch (hay transverse aortic arch, cung động mạch chủ ), đoạn đi xuống gọi là descending aorta. Khi động mạch chủ đi xuống phía bụng, thì chúng ta gọi là động mạch chủ bụng (abdominal aorta), từ đó đâm những nhánh nuôi các bộ phận quan trọng như ruột, gan, thận và chạy xuống hai chân. Lúc tuổi già thì vách động mạch cũng yếu đi, cũng như do tác dụng của áp huyết cao (hypertension), hay do xơ vữa động mạch (atherosclerosis, do quá nhiều mỡ trong máu), hay do bẩm sinh, di truyền, cấu trúc vách động mạch không bình thường (vd: Marfan Syndrome), động mạch chủ sẽ nở to, phình ra (đường kính tăng, dilation of the aorta), vách động mạch chẻ ra làm đôi (aortic dissection) tạo nên một "lòng, ruột giả" (false lumen) càng lúc càng lớn và nghẹt lòng của mạch máu và đe doạ bể, và với thời gian, đến một mức giãn nở nào đó. (Tương tự như một ruột bánh xe đạp có thể phình to và đe doạ bể, vỡ ra nếu:
●    Bánh xe quá cũ,
●    Cao su bị hư hại,
●    Hay từ lúc ở nhà máy chế biến cao su được sản xuất với nguyên liệu xấu.)

Những vùng nở to ra của động mạch chủ gọi là phình động mạch chủ ( aortic aneurysm, AA) thường xảy ra ở khúc bụng (AAA, abdominal aortic aneurysm), nhưng cũng có thể xảy ra trong ngực (thoracic aortic aneurysm), tuỳ theo mà chúng ta gọi tên mô tả loại aneurysm liên hệ.
Bác sĩ có thể cần những kỹ thuật hình ảnh như siêu âm (ví dụ đo siêu âm tim bằng nguồn siêu âm phát đi từ thực quản, transesophageal echocardiography), CT, MRI, thể hiện hình ảnh các mạch máu (angiography), MRA (magnetic resonance angiogram) để xác dịnh chẩn đoán về giãn nở động mạch chủ và cơ năng tim.
Bác sĩ quyết định trị liệu AA tuỳ theo kích thước của aneurysm và tốc độ tăng trưởng của nó.
1) Nếu aneurysm còn nhỏ, bệnh nhân có thể được dùng thuốc hạ huyết áp loại beta-blockers để giảm thiểu gánh nặng do áp suất gây lên vách động mạch.
●    Bác sĩ có thể cho bệnh nhân tập thể thao, dùng thuốc statin như atorvastatin (Lipitor) để hạ mỡ trong máu, ngưng hút thuốc lá, giảm cân nếu cần, ăn uống lành mạnh, giảm thịt đỏ, chất béo, v..v...
●    Một số khảo cứu trên chuột cho thấy thuốc valsartan, là một loại thuốc thông thường dùng để trị bệnh áp huyết cao, có tác dụng ngăn chặn sự tiến triển của AAA và ức chế sự thành hình của AAA. Thuốc này đang trong vòng thí nghiệm trên lâm sàng.(2)


Bác sĩ quyết định có cần mổ AA hay không tuỳ theo:
a)    Bệnh nhân có triệu chứng hay không
b)    Tiến triển: đường kính gia tăng đến mức báo động, lúc mà cơ nguy vách động mạch chủ có thể rách và động mạch chủ vỡ (rupture) ra chảy máu ào ạt đe dọa tính mạng. Cũng như máu đông, đóng cục trong động mạch làm trở ngại lưu thông, máu không đến nuôi đủ các bộ phận, có thể gây tổn hại cho các bộ phận tuỳ thuộc vào máu do động mạch chủ đem đến, ví dụ thận hay ruột.

Nói chung, để tham khảo, đo bằng CT, kính thước trong lòng động mạch ở người đàn ông trên 60 tuổi bình thường đường kính động mạch chủ ngực, đoạn đi lên không quá 4,26 cm, ở khúc bụng < 3 cm ( upper normal for male, age above 60 y, ascending thoracic aorta diameter <42.6 mm, abdominal aorta diameter < 30 mm).(1)
Chỉ định phẫu thuật ở đàn ông: đường kính AAA [ở khúc bụng]  5,5 cm trở lên, hay có triệu chứng, hay đường kính tăng quá nhanh là chỉ định phẫu thuật. Ở phụ nữ, tiêu chuẩn này có thể thấp hơn.
Đối với aneurysm ngực, thường có chỉ định mổ lúc đường kính 5,5-6cm.
Bác sĩ giải phẫu mạch máu (vascular surgeon) có thể thực hiện các phẫu thuật sau thuật:

a) Ít "xâm phạm" (minimally invasive), không cần mở bụng: Dùng stent-graft, như một cái ống được xếp lại, được nhét vào mạch máu ở háng, đến nơi aneurysm thì cho bung ra để gia cố cho đoạn mạch máu đã bị yếu từ phía trong lòng mạch máu, sau đó mạch máu sẽ lành lại chung quanh graft.
b) Những chỗ không dùng stent được (ví dụ như như ascending aorta): “interposition tube graft”: cắt bỏ đoạn mạch máu bị hư và thế vào một ống graft bằng sợi nhân tạo Dacron hay Gor-Tex, may các nhánh mạch máu vào ống này. Graft có thể tồn tại cả đời bệnh nhân. Có thể thay thế van động mạch (aortic valve) bị hư nếu cần, cùng một lúc với graft động mạch chủ.
Có thể cần phải mổ lớn hơn, những trường hợp aorta bị hư trong ngực cũng như trong phần bụng, phải thay thế bằng một ống ghép dài từ trên xuống dưới (thoracoabdominal aneurysm repair).
Sau khi mổ, bệnh nhân cần được theo dõi thường xuyên để tránh áp huyết lên quá cao, tránh stress trên động mạch chủ và theo dõi kích thước động mạch định kỳ bằng CT (với cản quang) hay MRA.

Screening:
Những người sau đây được khuyến cáo nên screen tìm giãn nở động mạch chủ:
a)    65-75 tuổi và từng hút thuốc lá
b)    Từ 60 tuổi trở lên và có cha mẹ hay anh em từng bị động mạch chủ bị giãn nở.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Wednesday, January 13, 2016

Hangover (Khó chịu sau khi uống rượu)

Những ngày lễ hội vừa qua là dịp để rất nhiều người quá chén. Và sau những cơn say choáng váng, buổi sáng hôm sau, nhiều người sẽ bị hangover, một danh từ rất khó dịch ra tiếng Việt.
Hangover là một nhóm triệu chứng khó chịu xảy ra sau khi uống quá nhiều rượu. Hangover cũng thường gây ra hiệu suất kém và xung đột tại nơi làm việc. Càng uống nhiều rượu càng dễ bị hangover vào ngày hôm sau. Nhưng không có con số nhất định cho biết bạn có thể uống bao nhiêu để được an toàn và tránh được hangover.
Các triệu chứng khó chịu thường bắt đầu khi rượu trong máu của bạn đã giảm xuống đáng kể và bằng hoặc gần bằng không. Chúng thường xảy ra vào buổi sáng sau một đêm uống rượu nặng. Tùy thuộc vào những gì và bao nhiêu đã uống, bạn có thể bị:
- Mệt mỏi và yếu
- Khát nước
- Nhức đầu và nhức mỏi bắp thịt
- Buồn nôn, nôn hoặc đau dạ dày
- Ngủ kém hoặc giảm
- Tăng nhạy cảm với ánh sáng và âm thanh
- Chóng mặt hay cảm giác quay cuồng
- Run rẩy
- Giảm khả năng tập trung
- Rối loạn tâm trạng như trầm cảm, lo lắng và khó chịu
- Nhịp tim nhanh

Khi nào nên gặp bác sĩ
Hangover sau khi chỉ uống rượu một đêm sẽ tự chấm dứt sau một khoảng thời gian. Nên nói chuyện với bác sĩ nếu bạn đang lo ngại rằng uống rượu nhiều và thường xuyên có thể dẫn đến việc bị hành khi ngưng uống, hoặc khi hangovers thường xuyên ảnh hưởng đến phẩm chất cuộc sống của bạn, bao gồm cả các mối quan hệ cá nhân hoặc hiệu suất tại nơi làm việc. Hiện nay, việc điều trị lạm dụng rượu rất thông thường, có ở khắp nơi.
Khi nào là trường hợp khẩn cấp
Ngộ độc rượu : Triệu chứng hangover nghiêm trọng hơn đi kèm với uống nhiều rượu có thể là triệu chứng của bệnh ngộ độc rượu - một trường hợp khẩn cấp có thể đe dọa tính mạng. Gọi 911 hoặc số khẩn cấp địa phương nếu một người nào đã uống cho thấy những dấu hiệu như sau:
- Lẫn lộn
- Nôn
- Động kinh
- Thở rất chậm (ít hơn tám hơi thở một phút)
- Thở không đều (ngưng một khoảng thời gian hơn 10 giây giữa 2 hơi thở)
- Da nhuốm màu xanh hoặc da nhợt nhạt
- Nhiệt độ cơ thể thấp (hạ thân nhiệt)
- Không tỉnh táo được
- Bất tỉnh, không thể đánh thức dậy được
Một người mê man hoặc không thể đánh thức được sẽ có nguy cơ tử vong. Nếu bạn nghi ngờ rằng một người nào đó ngộ độc rượu – ngay cả khi không nhìn thấy các dấu hiệu và triệu chứng, nên tìm kiếm sự chăm sóc y tế cho họ ngay lập tức.
Nhiều yếu tố có thể góp phần vào hangovers
Hangovers xảy ra do uống quá nhiều rượu. Có người chỉ uống một ly thức uống có cồn là đủ bị khó chịu trong khi một số người khác có thể uống rượu nhiều và không bao giờ bị hangover. Những yếu tố sau có thể gây ra hangover:
- Rượu làm cơ thể tiết ra nhiều nước tiểu khiến nạn nhân phải đi tiểu nhiều. Đi tiểu nhiều hơn bình thường có thể dẫn đến mất nước – triệu chứng là khát nước, chóng mặt và choáng váng.
- Rượu khiến hệ thống miễn dịch gây ra một phản ứng viêm khiến nó có thể kích hoạt các khu phụ trách những triệu chứng về thể chất, chẳng hạn như không có khả năng tập trung, các vấn đề về bộ nhớ, giảm sự thèm ăn và mất quan tâm trong các hoạt động bình thường.
- Rượu gây kích thích niêm mạc dạ dày, tăng sản xuất acid dạ dày và chậm tiêu. Bất kỳ một trong các yếu tố này đều có thể gây ra đau bụng, buồn nôn hoặc nôn.
- Rượu có thể làm hạ mực đường trong máu khiến gây ra mệt mỏi, suy nhược, run rẩy, rối loạn tâm trạng và thậm chí co giật.
- Rượu làm các mạch máu mở rộng, có thể dẫn đến đau đầu.
- Rượu có thể làm buồn ngủ, nhưng không ngủ ngon được khiến nạn nhân chệnh choạng và mệt mỏi.
- Nước uống có cồn chứa các thành phần được gọi là congeners là chất cung cấp hương vị, có thể đóng góp vào việc gây hangovers. Congeners được tìm thấy nhiều trong các loại rượu mầu đậm như brandy và whisky hơn rượu mầu sáng như vodka và gin.
Nước uống có nhiều congener gồm có: Bourbon , Scotch, Tequila, Brandy, các loại bia sẫm màu và bia có độ cồn cao, rượu vang đỏ

Tuy nhiên, dù đồ uống có màu sáng hơn có thể ít gây ra hangover, uống quá nhiều đồ uống có cồn của bất kỳ màu sắc nào vẫn sẽ làm cho bạn cảm thấy rất khó chịu vào sáng hôm sau.
- Bất cứ ai uống rượu đều có thể bị hangover nhưng một số người nhạy cảm dễ bị hangovers hơn những người khác. Một biến thể di truyền ảnh hưởng đến cách rượu được chuyển hóa có thể làm cho một số người bị đỏ mặt, ra mồ hôi hoặc bị bệnh sau khi uống rượu, ngay cả một lượng rượu nhỏ.
Các yếu tố khác có thể gây ra hangover hoặc làm nặng hơn bao gồm:
- Uống lúc bụng trống. Không có thức ăn trong dạ dày của bạn sẽ làm tăng tốc độ hấp thụ rượu vào cơ thể.
- Đang sử dụng các loại thuốc khác, chẳng hạn như nicotine. Hút thuốc kết hợp với uống rượu sẽ làm gia tăng nguy cơ bị hangover.
- Không ngủ được hoặc ngủ không đủ lâu sau khi uống. Một số nhà nghiên cứu tin rằng một số triệu chứng hangover là do, ít nhất là một phần, việc ngủ ít và không sâu thường thấy sau một đêm uống rượu.
- Bệnh sử gia đình của chứng nghiện rượu. Có thân nhân bị chứng nghiện rượu có thể cho thấy có vấn đề trong cách cơ thể của bạn chuyển hóa rượu.
Khi bạn bị hangover, bạn có thể gặp vấn đề với trí nhớ, tập trung, và việc dùng tay, đưa đến các vấn đề trong khi làm việc, chẳng hạn như:
- Vắng mặt
- Khó hoàn thành nhiệm vụ
- Xung đột với đồng nghiệp
- Ngủ khi làm việc
- Chấn thương nơi làm việc
Chữa hangover
Thời gian là phương thuốc duy nhất chắc chắn để trị hangover. Trong khi đó, đây là một vài điều bạn có thể làm để giúp mình cảm thấy tốt hơn:
- Uống nước. Uống từng hớp nước hoặc nước trái cây để tránh mất nước. Không dùng rượu để chữa hangover.
- Ăn bữa ăn nhẹ. Thức ăn nhạt chẳng hạn như bánh mì nướng và bánh quy giòn, có thể làm tăng lượng đường trong máu của bạn và làm bao tử êm lại. Súp có thể giúp thay thế muối và kali bị mất.
- Uống thuốc giảm đau. Một liều bình thường thuốc giảm đau mua tự do over-the-counter có thể làm dịu cơn đau đầu của bạn. Nhưng aspirin có thể gây khó chịu dạ dày của bạn. Và nếu bạn thường xuyên uống rượu quá mức, acetaminophen (Tylenol) có thể gây tổn thương gan nghiêm trọng ngay cả ở liều trước đây được cho là an toàn.
- Ngủ. Nếu ngủ đủ lâu, khi thức dậy, cơn hangover có thể biến mất.
Các loại thuốc dược thảo đã được đề nghị đề chữa hangovers rất nhiều, nhưng các nghiên cứu chưa chứng minh khả năng này của thuốc dược thảo. Nên nói chuyện với bác sĩ của bạn trước khi thử bất kỳ loại thuốc dược thảo nào. Hãy nhớ rằng “thiên nhiên” không có nghĩa là an toàn. Bác sĩ có thể giúp bạn hiểu những rủi ro và lợi ích có thể trước khi bạn thử một loại dược thảo nào đó.

Phòng ngừa
Mặc dù vài loại thuốc over-the-counter đã được dùng để ngăn chặn hangovers,, cách bảo đảm duy nhất để ngăn chặn hangover là không uống rượu. Nếu bạn chọn uống, hãy uống vừa phải. Càng ít uống chất có cồn thì càng ít có khả năng bạn bị hangover.
Những cách sau đây có thể giúp:
- Ăn trước khi uống. Rượu được hấp thu nhanh hơn nếu dạ dày bạn trống rỗng. Nên ăn một cái gì đó trước khi uống rượu.
- Uống chậm lạ. Tự giới hạn một thức uống hoặc ít hơn mỗi giờ.
- Chọn một cách cẩn thận. Đồ uống có ít congeners - chẳng hạn như các loại bia và rượu sáng màu - ít có khả năng gây ra hangovers hơn là đồ uống có nhiều congeners - như brandy, whisky, bia đen và rượu vang đỏ.
-Uống nước giữa những lần uống rượu. Uống một cốc đầy nước sau mỗi ly rượu sẽ giúp bạn đỡ mất nước. Nó cũng sẽ giúp bạn uống ít rượu.
-Biết giới hạn của mình. Quyết định trước sẽ uống bao nhiêu. Đừng để bị áp lực phải uống.
Một số người dùng các thuốc giảm đau như aspirin hoặc ibuprofen (Advil, Motrin IB, để ngăn chặn các triệu chứng hangover. Nhưng hãy hỏi bác sĩ của bạn xem điều này có an toàn cho bạn không, và những liều lượng tốt nhất cho bạn. Các loại thuốc này có thể tương tác với các thuốc khác và acetaminophen (Tylenol) có thể gây tổn thương gan nếu uống quá nhiều rượu.

BS Nguyễn Thị Nhuận