Friday, December 9, 2016

Hai vấn đề y khoa cần biết

7 điều nên làm để giữ được trí nhớ
Không thể tìm thấy chìa khóa xe? Quên tờ ghi những món cần khi đi chợ? Không thể nhớ tên của huấn luyện viên bạn thích ở phòng tập thể dục? Bạn không phải là người duy nhất. Ai cũng có lúc quên. Tuy nhiên, không nên coi thường việc mất trí nhớ.
Mặc dù không có gì bảo đảm trong việc ngăn ngừa chứng mất trí nhớ hay bệnh lẩn, một số các hoạt động có thể giúp làm trí nhờ sắc bén hơn, thí dụ như bảy cách đơn giản dưới đây.

1. Giữ cho trí óc hoạt động
Cũng giống như hoạt động thể chất giúp cho cơ thể của bạn được mạnh khỏe, những hoạt động kích thích trí óc giúp cho bộ óc của bạn được minh mẫn - và có thể giúp giữ được trí nhớ. Hãy làm câu đố ô chữ. Chơi cờ. Đi một tuyến đường khác hơn thường ngày khi lái xe. Học chơi một loại nhạc cụ. Tình nguyện làm việc tại trường học hoặc các tổ chức cộng đồng địa phương.

2. Thường xuyên có những tiếp xúc xã hội
Tương tác với những người khác giúp tránh trầm cảm và căng thẳng, cả hai đều có thể góp phần vào việc làm mất trí nhớ. Hãy tạo cơ hội gặp gỡ người thân yêu, bạn bè và những người khác - đặc biệt là nếu bạn sống một mình.

3. Sắp đặt mọi thứ ngăn nắp
Bạn sẽ dễ quên nếu cuộc sống và nhà cửa của bạn bừa bãi. Hãy ghi lại các việc cần làm, các cuộc hẹn và các sự việc khác vào một cuốn sổ tay đặc biệt, cuốn lịch hoặc sổ kế hoạch điện tử. Bạn cũng có thể nói to lên mỗi mục trong khi ghi nó xuống để giúp giữ nó trong bộ nhớ của bạn. Giữ một danh sách những việc cần làm và gạch đi những mục đã hoàn thành. Dành một chỗ riêng cho ví, chìa khóa và những vật thiết yếu khác.
Hạn chế những thứ dễ làm chia trí và không làm nhiều việc cùng một lúc. Nếu bạn tập trung vào các thông tin mà bạn đang cố gắng để nhớ, bạn sẽ có nhiều khả năng nhớ lại nó sau này. Và nếu bạn nối kết những gì đang cố gắng để nhớ với một bài hát yêu thích hoặc một khái niệm quen thuộc thì bạn sẽ dễ nhớ hơn.
4. Ngủ ngon
Giấc ngủ đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp bạn giữ được trí nhớ. Hãy dành ưu tiên cho việc ngủ đủ giấc. Hầu hết các người lớn cần bảy đến chín giờ ngủ mỗi ngày.

5. Ăn uống lành mạnh
Ăn uống lành mạnh tốt cho não và cả tim của bạn. Ăn trái cây, rau và ngũ cốc. Chọn nguồn protein ít béo như cá, thịt nạc và gà không da. Cẩn thận về những thức uống. Uống quá nhiều rượu có thể dẫn đến nhầm lẫn và mất trí nhớ.

6. Hoạt động thể chất hàng ngày
Hoạt động thể chất làm tăng lưu lượng máu đến toàn bộ cơ thể, bao gồm cả bộ não. Điều này có thể giúp giữ cho bộ nhớ của bạn sắc nét.
Đối với người lớn khỏe mạnh, Bộ Y Tế khuyên nên có ít nhất 150 phút một tuần hoạt động hiếu khí (aerobic) vừa phải, chẳng hạn như đi bộ nhanh, hoặc 75 phút một tuần hoạt động hiếu khí mạnh mẽ, chẳng hạn như chạy bộ - trải đều cho cả tuần. Nếu bạn không có thời gian cho một buổi tập luyện đầy đủ, ráng tìm mỗi lần 10 phút đi bộ nhiều lần trong ngày.

7. Chăm sóc các bệnh mãn tính
Thực hiện theo các lời khuyên của bác sĩ về các bệnh mãn tính, chẳng hạn như trầm cảm, huyết áp cao, cholesterol cao, tiểu đường, và suy thận hoặc tuyến giáp có vấn đề. Càng chăm sóc bản thân tốt, bộ nhớ của bạn càng có nhiều khả năng được sắc bén. Ngoài ra, nên xem xét danh sách thuốc mà bạn đang uống với bác sĩ thường xuyên. Vài loại thuốc có thể ảnh hưởng đến trí nhớ.
Khi nào nên đi khám bác sĩ
Nếu bạn lo lắng về việc mất trí nhớ - đặc biệt là nếu mất trí nhớ ảnh hưởng đến khả năng hoàn thành các hoạt động thường ngày của bạn - hãy nói chuyện với bác sĩ. BS có thể sẽ làm một cuộc kiểm tra thể chất, cũng như kiểm tra bộ nhớ của bạn và các kỹ năng giải quyết vấn đề. Đôi khi còn cần thêm các xét nghiệm khác. Điều trị sẽ tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra việc giảm trí nhớ của bạn.
Chọn một nhiệt kế
Việc chọn nhiệt kế tốt nhất cho gia đình có thể làm bạn khó phân biệt. Dưới đây là những gì bạn cần biết về các nhiệt kế thường gặp nhất.
1. Nhiệt kế điện tử (digital):
Loại nhiệt kế này sử dụng các cảm biến nhiệt điện tử để ghi lại nhiệt độ cơ thể. Những nhiệt kế này có thể được đặt trong hậu môn, miệng hoặc nách.
Nhiệt độ ở nách thường ít chính xác nhất. Nhiệt độ hậu môn đúng nhất cho trẻ sơ sinh, đặc biệt là những em 3 tháng hoặc nhỏ hơn, cho đến trẻ em 3 tuổi. Đối với trẻ lớn và người lớn, nhiệt độ đọc ở miệng thường là chính xác - nhưng miệng phải đóng lại trong khi nhiệt kế đang được dùng.
Nếu muốn sử dụng nhiệt kế điện tử để lấy nhiệt độ ở cả miệng và hậu môn, bạn cần phải dùng hai nhiệt kế và gắn nhãn rõ ràng, một dùng ở miệng và một dùng ở hậu môn. Không sử dụng một nhiệt kế cho cả hai nơi.
Những điều thuận lợi của nhiệt kế digital:
- Hầu hết các nhiệt kế digital có thể ghi nhiệt độ ở miệng, nách hoặc hậu môn - thường chỉ trong một phút hoặc ít hơn.
- Nhiệt kế digital thích hợp cho trẻ mới vừa sinh, trẻ sơ sinh, trẻ em và người lớn.
Những khuyết điểm:
- Phụ huynh có thể lo lắng là làm em bé khó chịu khi lấy nhiệt độ của em ở hậu môn.
- Cần phải chờ 15 phút sau khi ăn hoặc uống để lấy nhiệt độ ở miệng. Nếu không, nhiệt độ của thức ăn hoặc thức uống có thể ảnh hưởng đến việc đọc nhiệt kế.
- Có thể khó khăn cho trẻ em - hoặc bất cứ ai thở qua miệng - để giữ miệng đóng đủ lâu để đo được nhiệt độ chính xác.
2. Nhiệt kế tai
Nhiệt kế này sử dụng tia hồng ngoại để đo nhiệt độ bên trong ống tai.
Những thuận lợi:
- Khi để đúng vị trí, nhiệt kế tai nhanh chóng và thường thoải mái cho trẻ em và người lớn.
- Nhiệt kế tai thích hợp cho trẻ sơ sinh lớn hơn 6 tháng tuổi, trẻ lớn và người lớn.
Những khuyết điểm:
- Nhiệt kế tai không được khuyên dùng cho trẻ sơ sinh.
- Ráy tai hoặc ống tai quá nhỏ và cong có thể làm bớt tính chính xác của nhiệt kế tai.
3.Nhiệt kế núm vú digital
Đứa bé chỉ cần nút núm vú nhiệt kế này cho đến khi nhiệt độ cao nhất được ghi nhận.
Những thuận lợi:
- Con bạn không nhận ra nó đang được đo nhiệt độ.
Những khuyết điểm:
- Nhiệt kế núm vú digital không được khuyên dùng cho trẻ sơ sinh.
- Để có kết quả chính xác nhất, đứa bé phải giữ núm vú trong miệng khoảng 3- 5 phút - điều khó khăn cho nhiều trẻ nhỏ.
- Nghiên cứu gần đây không cho thấy nhiệt kế này chính xác.
4. Nhiệt kế mạch thái dương
Nhiệt kế này - thường được bán như nhiệt kế trán - sử dụng một máy quét hồng ngoại để đo nhiệt độ của động mạch thái dương ở trán.
Những thuận lợi:
- Nhiệt kế mạch thái dương có thể ghi nhiệt độ một cách nhanh chóng và được chấp nhận dễ dàng.
- Nhiệt kế mạch thái dương thích hợp cho trẻ sơ sinh lớn hơn 3 tháng và cho trẻ lớn. Nghiên cứu mới cho thấy nhiệt kế động mạch thái dương cũng chính xác cho một trẻ mới sinh.
- Nghiên cứu gần đây cho thấy nhiệt kế động mạch thái dương là lựa chọn tốt nhất sau nhiệt kế digital hậu môn để đo nhiệt độ của một đứa trẻ.
Những khuyết điểm:
- Nhiệt kế động mạch thái dương đắt hơn các loại nhiệt kế khác.
Nhiệt kế thủy ngân sử dụng thủy ngân bọc trong thủy tinh để đo nhiệt độ cơ thể. Nhiệt kế thủy ngân không còn được khuyến khích bởi vì nó có thể bị vỡ làm thủy ngân độc hại chảy ra ngoài.
Nếu bạn có một nhiệt kế thủy ngân, không nên vứt nó vào thùng rác. Liên lạc với chương trình gom rác tại địa phương để xem họ có nơi thu gom rác nguy hại tại khu vực của bạn không.

Ợ hơi và nhịp tim

Ợ hơi
Trong hệ tiêu hoá luôn luôn hiện diện một lượng khí (gas) nào đó, từ dạ dày (stomach) xuống trực tràng (rectum) là đoạn cuối ruột già (colon). Khí này có thể là do chúng ta nuốt không khí lúc ăn uống, có thể do ăn quá nhanh, do trong thức uống có khí (như soda), hay do những thức ăn tạo nên gas, đặc biệt là những thức ăn còn lại trong ruột già, không được hấp thụ, bị các vi khuẩn trong ruột già làm lên men, và cơ chế này sinh ra khí. Một số thức ăn như hột mít, đậu, khoai lang có thể làm có nhiều khí trong ruột. Người gốc Đông Á, không quen uống sữa qua nhiều ngàn năm nên ruột họ thiếu chất men gọi là lactase dùng để tiêu hoá chất đường lactose trong sữa, hay những thức ăn chế biến từ sữa như phô ma, bơ, bánh kem... Họ có thể bị sình bụng, đau bụng, tiêu chảy sau khi ăn các món này. Người mắc chứng "ruột khó chịu" (IBS, irritable bowel syndrome) cũng cảm thấy sình hơi, hay muốn đi cầu. Một số bệnh viêm ruột có thể làm khí trong ống tiêu hoá nhiều hơn.
Cũng vì khí luôn luôn hiện diện trong hệ tiêu hoá mà từ lúc em bé chào đời cho đến người lớn, lúc chụp hình quang tuyến bụng, bác sĩ luôn luôn theo dõi các bóng đen của khí trong lòng dạ dày và ruột, là những bộ phận rỗng. Lượng khí này không được nhiều quá, nếu không nó sẽ làm căng dạ dày và ruột quá mức. Trường hợp ruột bị nghẽn, phần trên sẽ căng phồng lên và bệnh nhân sẽ ăn uống vào thì ói ra.
Bình thường, khí dư sẽ đi qua hai ngã: phía trên do ợ hơi (belching, burping, eructation) và phía dưới do trung tiện (passing gas, flatus). Riêng về trung tiện, người ta thấy trung bình người lớn làm việc này chừng 6-20 lần/ngày; chuyện này làm một cho một số người cả thẹn lo ngại và xấu hổ. Tuy nhiên, nói chung, trung tiện nhiều không có hệ quả gì quan trọng về y khoa.
Nói về chứng ợ hơi hay ợ chua, chua là vì trong dạ dày có a xít rất mạnh là HCl để tiêu hoá thức ăn. Tiếng Anh trong y khoa gọi là eructation, thông thường gọi là belching hay burping. Đối với người Tây phương, ợ hơi trước mặt người khác là đều tối kỵ, tuy nhiên, đối với một số người châu Á, ợ hơi hai ba lần sau khi ăn ngấu nghiến món ngon có thể là một cách chứng tỏ mình thưởng thức bữa ăn của gia chủ.
Người già ợ hơi nhiều hơn, có thể do tiêu hoá chậm hơn, ví dụ vì dạ dày co bóp ít hơn (gastroparesis), bệnh gan và túi mật, viêm tùy tạng (pancreatitis) bệnh khó tiểu ("dyspepsia"), loét dạ dày (gastric ulcer), tràn dịch thức ăn lên thực quản do cơ giữa dạ dày và thực quản đóng không kín (hiatal hernia). Hơi ợ có thể do sulfur trong thức ăn (trứng, thịt), hay do nhiễm trùng, có khi nhiễm trong phổi (ví dụ áp xe trong phổi).
Nhịp tim
Tim là một cái máy bơm máu cho chúng ta một cách tự động, từ lúc còn phôi thai trong bụng mẹ, lúc phôi thai (embryo) được chừng 4 tuần lễ, cho đến khi lìa đời. Tim đập đều đặn, ở người lớn chừng 80 lần/phút, có nghĩa là chưa tới 1 giây bóp một lần, một hệ thống tự động trong tâm nhĩ (atrium) gửi đi một kích thích bằng điện (electric impulse) tỏa ra khắp tim, làm tim co bóp lại, đem máu đen lên phổi (pulmonary arteries), và đem máu đỏ (giàu oxxy, qua aorta) đến các bộ phận trong cơ thể nuôi dưỡng chúng. Thời kỳ đó gọi là "thu tâm" (tim co lại, systole), trái với thời kỳ "trương tâm" (diastole) ở giữa 2 lần co bóp, lúc trái tim nghỉ, trong lúc chờ máu chảy vào đầy 2 bên tâm thất phải và trái. Nếu do một chuyện kích thích bất thường nào đó, tim bóp thêm một cái trật nhịp, thì lần bóp đó gọi là co bóp "ngoài thu tâm", ý nói ngoài thứ tự thu tâm theo thời gian đều đặn bình thường (extrasystole, premature contraction, PVC: premature ventricular contraction).
Sau mỗi extrasystole, tim nghỉ ngơi lâu hơn mọi khi, và co bóp theo sau đó mạnh hơn, làm người bệnh cảm giác như tim ngừng đập một lúc, rồi tim đập mạnh thình thịch, kèm theo cảm giác lo âu ("thót tim") mà tiếng Anh thường gọi là "palpitation", tạm dịch là "hồi hộp', hay "con tim thổn thức". Khác với lúc bình thường, chúng ta không để ý, không ý thức là trái tim mình đang đập, làm việc liên tục.
Hội Chứng Roemheld
Bây giờ bàn đến ợ hơi và tim co bóp ngoại thu tâm, chúng ta sẽ bàn về một liên hệ giữa trái tim và dạ dày hay hệ tiêu hoá nói chung (gastro-cardiac connection). Xin nhắc lại ở đây là trái tim nằm trong lồng ngực, giữa hai lá phổi, trên một màng cơ (bắp thịt) mỏng, gọi là hoành cách mô (diaphragm). Ngay phía dưới hoành cách mô, bên tay trái là dạ dày, bên giữa là ruột. nằm sát phía sau tim là thực quản, cái ống tiếp nhận thức ăn sau khi nuốt vào và đem vào dạ dày. Cho nên lúc chúng ta nuốt miếng gì quá lớn, tim ở phía trước thực quản có thể bị ảnh hưởng.
Lúc khí gas chứa đầy làm căng dạ dày ruột kế cận (cũng là lúc phải ợ hơi để giảm áp suất khí trong dạ dày), hoành cách mô có thể bị đẩy dồn về phía trên, làm tim bị đẩy qua thế khó làm việc hơn, và do đó tim phải tự đều chỉnh, bóp mạnh hơn để máu được đẩy đi mạnh hơn.
Một yếu tố thứ hai: liên hệ thần kinh. Thần kinh sọ số 10 (TKX) toả rộng nhiều nơi, kể cả tim và dạ dày ruột, do đó có tên "vagus nerve", (vagus= mờ ảo, không rõ ràng). TKX ảnh hưởng đến tim làm tim đập chậm lại, làm thức ăn qua dạ dày mau hơn, làm tiêu hoá nhanh hơn. Lúc dạ dày, ruột trong bụng căng, ví dụ sình hơi, dây TKX có thể bị chen ép, kích thích, làm kích thích trái tim làm cho nó đập chậm hơn, hạ áp huyết xuống thấp. Để tái lập quân bình, hệ thần kinh tụ dưỡng phản ứng lại, làm mạch máu co lại, làm tim bóp mạnh thêm, nhiều lúc vì phản xạ tự vệ này, tim có thể bị kích thích quá mức, mạch vành nuôi tim (coronary arteries) co lại quá nhiều là tim không đủ máu nuôi dưỡng (đau tim), làm tim bị đập loạn nhịp, mà một hình thức của loạn nhịp tim là các co bóp ngoại thu tâm chúng ta mô tả ở trên.
Ludwig Roemheld là một bác sĩ nội thương người Đức đầu thế kỷ thứ 20, cách đây gần 100 năm từng tả một hội chứng ở những người tim bình thường, không mắc bệnh tim, nhưng nguyên nhân nằm ở hệ tiêu hoá, nhất là dạ dày và ruột như mô tả ở trên. Được gọi là Hội Chứng Roemheld hay Gastrocardiac Syndrome, gồm:
- Đau giữa hay bên trái ngực
- Hồi hộp, tim có extrasystole
- Khó thở, hụt hơi
- Khó ngủ, chóng mặt.

Nên nhớ là hồi thập niên 1920's, chúng ta chưa có những phương tiện y khoa như bây giờ. Chưa có chụp hình ảnh ruột, tim, đo tim v.v... Hiện nay, các bác sĩ y khoa rất ít khi nhắc đến hội chứng Roemheld nữa. Tuy nhiên, một số khá đông bệnh nhân vẫn có những triệu chứng như đau vùng ngực, hồi hộp khó thở, palpitation, ngất xỉu mà đến bác sĩ tim nghiên cứu tìm tòi thì mọi thứ kết quả về tim vẫn bình thường. Một số bác sĩ sẽ giải thích bằng y khoa tâm thể (psychosomatic medicine), nghĩa là bệnh nhân có uẩn khúc về tâm lý và bệnh biểu lộ qua triệu chứng vật thể (đau tim...). Một số bs nghĩa rằng tim đập lộn xộn do rối loạn ở thực quản (nằm sau tim) như hiatal hernia (thoát vị do một phần trên dạ dày nằm trong lồng ngực, trên hoành cách mô), hay thực quản co thắt (esophageal spasm), những điều mà có thể chứng minh trên quang tuyến được (chụp thực quản, dạ dày bằng cản quang, Upper GI series).
Tuy nhiên, một số bệnh nhân vẫn còn bị bệnh sau khi khám tim và thử nghiệm nhiều nơi không có kết quả, cho đến khi chính họ hoặc bác sĩ để ý đến mối liên hệ giữa cách ăn uống và triệu chứng. Nhóm này vẫn tin hội chứng Roemheld là có thật. Thay đổi cách ăn uống, để ý tác dụng các món mình ăn có thể giúp cho nhóm người này tránh những triệu chứng khó chịu do ảnh hưởng của sự "khó tiêu" sình hơi gây ra:
- Giảm bớt các thức ăn khó tiêu, gây ra nhiều hơi sình bụng; thức ăn giàu chất xơ có thể giúp bớt bón nhưng có thể sinh hơi trong ruột, một số thức ăn giàu tinh bột, khó tiêu như khoai, sắn, cơm để nguội hâm lạ...i
- Tránh những thức ăn uống mà mình không hạp,
- Ví dụ các chất có sữa, bơ hay dùng viên thuốc có men lactase lúc phải ăn những thứ chế biến từ sữa
- Tránh các nước có khí (carbonated drinks)
- Đừng ăn no quá
- Giảm cân nếu quá mập
- Tập thể dục,đi lại, vận động nhiểu hơn.
- Dùng những thuốc không cần toa để giảm gas trong ruột như simethicone.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Friday, December 2, 2016

Ngón tay bóp cò bẩm sinh (Congenital trigger finger)

Các ngón bàn tay chúng ta được điều khiển bởi những cơ bắp nằm trên cẳng tay (forearm), cùng với một số cơ nhỏ hơn của bàn tay. Lúc chúng ta co ngón tay lại, vận động những cơ co ngón tay (flexor digitorum) hay cơ co ngón cái (flexor pollicis longus). Phía lưng bàn tay và cổ tay, có những cơ phụ trách kéo các ngón tay ngược lại, làm chúng duỗi ra (extensor digitorum, extensor pollicis).
Từ bắp cơ nằm trên cẳng tay, những dây gân chạy xuống lòng bàn tay. Qua khỏi lòng bàn tay, gân các cơ duỗi ngón (flexor tendons) chui trong một đường hầm, trên là mô sợi dưới là xương (fibro-osseous tunnel), rồi bám vào các khúc xuơng ngón tay, như một sợi dây chạy qua nhiều con ròng rọc (pulley), làm chuyễn hướng lực cơ co rút phía trên cẳng tay, đổi thành cử động các ngón tay co vào theo đường cung, như lúc chúng ta vẫy tay ngoắc ai đến gần.
Những sợi gân này chạy lui tới trơn tru. Nếu trong hành trình này, ở một nơi nào đó sợi gân cơ flexor quá to, hay đường hầm xương và xơ (fibro-osseous tunnel) eo hẹp làm con ròng rọc (pulley) quá chật, sợi gân bị kẹt (locked), ngón tay không duỗi ra hoàn toàn được, và khi cơ duỗi cố gắng kéo ngón tay thẳng ra, ngón tay bật trở ra (“the finger straightens with a snap”) , như lúc cò súng sau khi bóp vào, bật nhả ra cho nên được gọi là “trigger finger”, "ngón tay cò súng ". Có thể phải cần dùng bàn tay kia phụ vào, khắc phục chỗ gân bị kẹt, kéo mạnh hơn, mới kéo ngón tay thẳng ra được. Các khảo cứu bằng siêu âm ở trẻ em cho thấy đường kính sợi gân quá to so với đường kính đường hầm xương và xơ nó đi qua, và không ghi nhận hiện tượng viêm (khác với bệnhngười lớn).
Trong chứng ngón tay bóp cò bẩm sinh, thường nhất ở ngón tay cái. Chừng 300 trẻ mới có một trường hợp, hoặc hiếm hơn nữa và triệu chứng xuất hiện trong năm đầu. Bé không duỗi ngón tay ra được, và ở dưới gốc ngón tay, có thể sờ thấy được một cái hạt nhỏ gọi là hạt Atta (Atta nodule). Thường các ngón không phải ngón cái tự phục hồi dễ hơn. Trên 30% trường hợp tự nó sẽ khỏi. Một nhóm khác cũng từ Hàn quốc (Moon và cộng sự), chờ đếm 7.700 trẻ sơ sinh để xem tỷ lệ xảy ra lúc mới đẻ là bao nhiêu thì không ghi nhận được ca nào cả. Như vậy có lẽ hầu hết bệnhxuất hiện một thời gian sau khi bé đã chào đời, bệnhcác ngón tay cái xuất hiện trễ hơn các ngón kia. Họ nghiên cứu 35 ngón tay cái bị bịnh, thì 12 ngón tự khỏi (1/3) và 23 ngón phải giải phẫu.
Những khảo cứu gần đây còn lạc quan hơn nữa. Trong một công bố gần đây của Hàn quốc (Baek), người ta theo dõi 71 ngón tay cái của 53 bệnhnhân (nhiều trẻ bị hai tay) bệnhtrong 2 năm mà không chữa trị gì cả. Kết quả cho thấy 45 ngón tay (63%) trở nên bình thường. Trong 26 trẻ chưa hết hẳn, 22 trẻ có tiến bộ rõ rệt. Nói chung, trên 60 ngón tay tự khỏi sau 24 tháng, và đa số ca còn lại tiếp tục cải thiện với thời gian. Nên nhớ trigger finger trẻ em hoàn toàn khác bệnhở người lớn.
Nếu cần, bs có thể quyết định giải phẫu, lúc bệnh nhân 1-3 tuổi. Bác sĩ rạch một đường nhỏ ở gốc ngón tay, giải phóng sợi gân ở chỗ hẹp nơi con ròng rọc. Ngón tay được bất động chừng 1 tuần, sau đó sinh hoạt bỉnh thường. Ít khi bệnhtái lại. Kỹ thuật và khả năng bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật tay quan trọng, để tránh hư hại các dây thần kinh kế cận.Theo Wheeless'Textbook of Orthopedics, nếu đến 12 tháng tuổi mà bệnhkhông thuyên giảm, cần cân nhắc đến chuyện nên giải phẫu hay không.Tuy nhiên nên hoãn đến lúc em bé 2 tuổi, nhưng đừng đợi quá 3 tuổi vì cơ nguy ngón tay bị co rút.Thường cần gây mê để giải phẫu. Biến chứng chính là tổn thương các dây thần kinh (digital radial nerve) đi gần sợi gân cơ co ngón tay (flexor tendon). Theo dõi lâu dài, chứng trigger finger không tái lại, tuy nhiên chừng 1/5-1/6 bị giới hạn cử động các khớp của ngón tay.
Ở người lớn trigger finger liên hệ đến những điều kiện khác như bệnhxương khớp, thoái hoá khớp, bệnhco rút gân bàn tay (Dupuytren contracture), chấn thương và cần trị liệu mạnh mẽ hơn (như bất động, đắp đá, chích thuốc corticoid, giải phẫu nếu cần).
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Lichen phẳng và Hội chứng rát miệng/lưỡi

I. Lichen planus
Lichen gốc Hy lạp và La tinh có nghĩa là mốc, nấm mọc lan ra chung quanh trên cây olive (từ "lick= liếm" cũng có từ gốc này). Từ lichen trong y khoa dùng để chỉ những mẩn ngoài da nổi cộm lên có mặt phẳng (flat papules). (đọc là “lai-kơn” ở Mỹ [/ˈlɑɪ·kən/], “li-shơn” [ /ˈlɪtʃ.ən/ ] theo giọng Anh)
Lichen planus (planus=phẳng) chỉ một bệnh riêng biệt ngoài da. Các vết nổi cộm, nhẵn, bóng, tím đỏ, thường không có vẩy, ngứa hay đau, thường từng chùm, vùng cổ tay (phía lòng bàn tay), cổ chân, phía dưới lưng; có thể mọc ở miệng và bộ phận sinh dục, có những đường vân trắng phía trên, giống như dentelle (lacy white lines, hay Wickham striae). Phụ nữ bị bệnh miệng (oral lichen planus) nhiều hơn nam giới. Lichen planus có thể liên hệ tới một số thuốc chữa áp huyết cao (thiazide, ACE inhibitors), thuốc chống viêm không phải corticoid (NSAIDS), hay liên hệ tới bệnh viêm gan C.
Lichen planus trong miệng có thể là những vệt trắng, có vân, thường trong má, hay có thể là lở miệng, viêm nướu răng, sưng đỏ.
Lichen planus không phải do nhiễm trùng, nên không lây (not contagious). Không phải ung thư. Không phải bệnh di truyền.
Chuyển biến tự nhiên: bệnh lichen planus mãn tính (chronic), nhưng có khuynh hướng tự giới hạn. Đa số hết bệnh sau 1- 2 năm, có thể chỉ sau vài tháng, mà không cần chữa trị. 1/5 bệnh nhân sẽ bị bệnh thêm một lần nữa. Một số ít tái đi tái lại nhiều lần (recurrences). Bệnh trong miệng có thể dai dẳng hơn.
Chữa trị:
Chữa triệu chứng nếu cần để giảm đau và sưng. Đa số không có triệu chứng hay ít triệu chứng, không cần chữa (tuy nhiên cần định bệnh chính xác là lichen planus chứ không phải bệnh quan trọng hơn như ung thư, nấm, vv)
1. Các thuốc thoa da có corticoid mạnh (vd betamethasone, clobetasone); topical calcineurin inhibitors, vd tacrolimus (Protopic) và pimecrolimus (Elidel). Kem Corticoid, calcineurin inhibitors cũng dùng cho lichen planus ở trong miệng.
2. Nên giữ vệ sinh miệng như đánh răng, floss chân răng.
2. Các thuốc kháng histamine cho bớt ngứa, gãi.
3. Các trường hợp nặng có thể bác sĩ dùng corticoid uống (prednisone), hay thuốc tác dụng trên hệ miễn nhiễm (immunosuppressants, do nguồn gốc tự nhiễm của bệnh).
5. Trị liệu bằng ánh sáng cực tím (phototherapy with ultraviolet light).
II. “Hội chứng rát miệng/lưỡi” (burning mouth syndrome, glossodynia, glossopyrosis) hay "bệnh miệng phỏng", có nghĩa là bệnh nhân mỗi ngày có cảm giác như miệng mình bị phỏng, rát và đau, kéo dài hàng tháng và có thể lâu hơn nữa.
Chúng ta gọi đây là một hội chứng (syndrome) vì đây là một số hiện tượng đi với nhau, được bác sĩ ghi nhận nhưng vẫn không hiểu nguyên nhân chính xác và không có thử nghiệm hay phương tiện nào để định bệnh chính xác. Vì có thể bác sĩ khám và thử nghiệm không có gì bất thường, với triệu chứng có vẻ mơ hồ, bệnh nhân có thể bị bác sĩ chuyển từ bác sĩ này qua bác sĩ khác, hoặc bs nghi là bệnh tưởng tượng hay bệnh tâm thần.
Bệnh nhân phái nữ nhiều hơn là nam, nhất là phụ nữ sau thời kỳ tắt kinh (postmenopausal women). Bệnh nhân sáng ngủ dậy, thấy bình thường, sau đó thì lưỡi, có thể nơi khác trong miệng, bắt đầu đau đớn, càng lúc càng tăng và cho đến chiều tối. Có thể kèm theo các triệu chứng của bệnh lo âu (anxiety), trầm cảm (depression), tiểu đường loại 2 (type 2 diabetes), bệnh thiếu những vitamin (B1, B2, B6) hay chất dinh dưỡng (zinc), nhưng trong nhiều trường hợp thì dù chữa những bệnh kèm theo đó bệnh “phỏng miệng” hay “rát miệng” vẫn không khỏi.
Trị liệu chứng rát miệng/lưỡi:
1. Bác sĩ có thể tìm cách chữa “Hội chứng rát miệng” bằng thuốc trầm cảm (antidepressant, vd amitriptyline [Elavil]), uống thuốc an thần (vd benzodiazepine: clonazepam [Klonopin]), thuốc chống co giật (anticonvulsants, e.g. Carbamazepine [Tegretol], gabapentin, oxcarbazepine, có khả năng làm giảm các cơn đau do viêm dây thần kinh), vitamin.
Clonazepam dissolvable wafers: thuốc clonazepam (Klonopin) là một thuốc chống co giật và lo âu (anxiety disorders). Một khảo cứu dùng thuốc này tại chỗ (topical) cho 33 bệnh nhân và sau 1 tháng cũng như sau 6 tháng, chừng 2/3 (23/33) bệnh nhân dùng thuốc có thể giảm 50% triệu chứng, so với chừng 10% (4/33-2/33) những người dùng thuốc giả (placebo). Trong một khảo cứu khác, tác dụng clonazepam trong miệng được kết hợp với tác dụng toàn thân: 36 bệnh nhân cho viên thuốc tan trong miệng trước khi uống, 3 lần/ngày trong 6 tháng. 80% giảm đau (trên 50%) sau 6 tháng (Amos K.,Yeoh SC, Farah CS).

2. Dùng tác dụng của chất capsaicin trong ớt (desensitization of afferent C fiber endings): súc miệng bằng hỗn hợp 1 phần ớt 2 phần nước, tăng dần đến mức 1 phần ớt+1 phần nước. Súc miệng nhiều lần trong ngày.
3. Một số bệnh nhân có thể bị hội chứng rát miệng vì dùng thuốc hạ áp huyết loại ACE inhibitor (vd lisinopril), ngưng thuốc sẽ khỏi.
Cơ chế gây "rát miệng”: ‘Hội chứng rát lưỡi’ có thể liên hệ đến cơ năng vị giác. Vị giác phần lớn do thần kinh số 7 (nhánh chorda tympani cho vùng phía trước lưỡi) và thần kinh số 9 (glossopharyngeal nerve, phụ trách phía sau lưỡi) và cảm giác đau ở vùng miệng do thần kinh số 5 (trigeminal nerve) phụ trách. Một sự mất quân bình giữa các dây thần kinh này có thể là một nguyên nhân gây ra hội chứng "rát lưỡi", nhưng đây chỉ là giả thuyết. Người ta nhận xét những người có khả năng "nếm" khác thường (supertasters) hay bị hội chứng rát miệng hơn người thường, có lẽ vì họ có nhiều taste buds hơn.
Tiến trình ‘Hội chứng rát lưỡi’:

Trung bình bệnh kéo dài chừng 3-4 năm, có người đến 12 năm.
Tiến trình tự nhiên chưa được nghiên cứu kỹ. Có khảo cứu cho thấy bệnh tự khỏi 5-7 năm.
Đau đớn, ảnh hưởng đến cuộc sống ("well being") và tinh thần người bệnh, không có biến chứng gì đặc biệt.
Nói tóm lại, vị thính giả cần đến bác sĩ gia đình để có một cái nhìn bao quát hơn. Bs hiện giờ là bs chuyên giải phẫu răng hàm mặt. Quan điểm của bs nội thương phân tích tình trạng bệnh lý tổng quát, cũng như bác sĩ thần kinh (neurologist) chuyên về các vấn đề đau nhức do viêm thần kinh (neuritis) có thể giúp ích cho vấn đề trị liệu. Cần xem bệnh rát lưỡi và bệnh lichen planus có phải là hai bệnh khác nhau không. Rát lưỡi kinh niên (glossodynia) có thể do hội chứng rát miệng/lưỡi, hay đau kinh niên trong miệng do viêm thần kinh ba nhánh (trigeminal nerve, 5th cranial nerve) là sợi dây thần kinh sọ số 5 chạy từ tai ra ba nhánh lên trán, vùng mũi và vùng hàm. Tegretol (carbamazepine) có thể được dùng để nhắm vào bệnh này. Bệnh lichen planus có thể là một vấn đề riêng rẽ, và nếu không gây khó chịu như đau đớn, lở loét có thể không cần chữa trị, tuy vệ sinh miệng là quan trọng và cần theo dõi.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Monday, October 31, 2016

Chứng rung tâm nhĩ

Rung tâm nhĩ là tim đập bất thường và nhanh, khiến máu không dễ dàng đến các phần của cơ thể. Khi tâm nhĩ rung, hai buồng tâm nhĩ (buồng trên của tim) đánh một cách hỗn loạn và không đều, không phối hợp với hai tâm thất (ngăn dưới của tim). Triệu chứng rung tâm nhĩ thường bao gồm đánh trống ngực, khó thở và yếu ớt.

Trái tim có bốn ngăn - hai ngăn trên gọi là tâm nhĩ và hai ngăn dưới là tâm thất. Trong ngăn trên bên phải của tim (tức tâm nhĩ phải) có một nhóm các tế bào gọi là nút xoang. Đây là máy tạo nhịp tim tự nhiên của trái tim. Nút xoang tạo ra lực đẩy bắt đầu mỗi nhịp đập của tim.

Thông thường, lực đẩy đi qua tâm nhĩ và sau đó qua đường kết nối giữa ngăn trên và ngăn dưới của tim, gọi là nút nhĩ thất (AV node). Khi tín hiệu đi từ nút xoang thông qua tâm nhĩ, các tâm nhĩ co thắt, bơm máu từ tâm nhĩ vào tâm thất bên dưới. Khi tín hiệu đi qua nút AV đến tâm thất, nó báo hiệu để tâm thất co thắt, bơm máu từ tim đến cơ thể của bạn.

Trong chứng rung tâm nhĩ, các tâm nhĩ nhận những tín hiệu điện hỗn loạn khiến chúng rung lên. Các nút AV liên tục nhận những lực đẩy cố gắng đi qua tâm thất làm các tâm thất cũng đập nhanh lên nhưng không nhanh như các tâm nhĩ. Kết quả là ta có một nhịp tim nhanh và không đều. Nhịp tim trong chứng rung tâm nhĩ có thể đập từ 100- 175 nhịp một phút. Bình thường, nhịp tim là từ 60 đến 100 nhịp một phút.
Các cơn rung nhĩ có thể xảy ra và hết đi, hoặc bệnh nhân có thể phát triển chứng rung tâm nhĩ thường xuyên, cần điều trị. Mặc dù rung tâm nhĩ thường không đe dọa tính mạng, nó làmột bệnh nghiêm trọng mà đôi khi cần phải điều trị khẩn cấp vì có thể dẫn đến nhiều biến chứng. Rung tâm nhĩ có thể dẫn đến việc bị cục máu đông ở tim rồi chạy đến các cơ quan khác khiến lưu lượng máu bị tắc nghẽn gây ra chứng thiếu máu cục bộ.
Điều trị rung nhĩ gồm có thuốc men và các can thiệp khác để cố gắng thay đổi hệ thống điện của tim.
Triệu chứng
Một số bệnh nhân bị rung tâm nhĩ không có triệu chứng và không nhận thức được tình trạng của mình cho đến khi nó được phát hiện trong một cuộc khám tổng quát. Những người bị rung tâm nhĩ có thể gặp có các dấu hiệu và triệu chứng như:
- Đánh trống ngực, tức cảm giác nhịp tim đập như chạy đua, không thoải mái, không đều. Hoặc cảm giác đảo lộn trong ngực
- Cảm thấy yếu ớt
- Giảm khả năng vận động
- Mệt mỏi
- Đầu nhẹ hẫng
- Chóng mặt
- Lẫn lộn
- Khó thở
- Đau ngực
Rung tâm nhĩ có thể xảy ra:
- Lâu lâu một lần, gọi là rung tâm nhĩ bộc phát. Triệu chứng đến và đi, kéo dài một vài phút đến vài giờ và sau đó tự ngừng hẳn.
- Dai dẳng. Nhịp tim không tự trở lại bình thường. Bệnh nhân sẽ cần phải được điều trị bằng sốc điện hoặc thuốc để phục hồi nhịp tim.-
- Vĩnh viễn: Nhịp tim không thể trở lại bình thường. Bệnh nhân bị rung tâm nhĩ vĩnh viễn, cần có thuốc để kiểm soát nhịp tim của bạn. Hầu hết các bệnh nhân bị rung tâm nhĩ vĩnh viễn cần uống thuốc loãng máu để ngăn ngừa cục máu đông.
Khi nào nên đi khám bệnh
Nếu có bất kỳ triệu chứng rung tâm nhĩ nào, bạn nên làm hẹn đi khám bệnh. Bác sĩ có thể cho làm điện tâm đồ để xác định triệu chứng của bạn có liên quan đến chứng rung tâm nhĩ hoặc một rối loạn nhịp tim khác không.
Nếu bạn bị đau ngực, nên tìm trợ giúp y tế khẩn cấp ngay lập tức. Đau ngực có thể là triệu chứng một cơn đột quỵ tim.
Nguyên nhân
Cấu trúc của tim bị hư hại hay bất thường là nguyên nhân thông thường nhất của chứng rung tâm nhĩ. Nguyên nhân rung tâm nhĩ gồm có:
- Cao huyết áp
- Cơn đột quỵ tim
- Bệnh động mạch vành
- Van tim bất thường
- Dị tật tim bẩm sinh
- Tuyến giáp hoạt động quá mức hoặc những bệnh về biền dưỡng khác
- Tiếp xúc với các chất kích thích như thuốc, caffeine hoặc thuốc lá, hoặc rượu
- Hội chứng yếu nút xoang (sick sinus syndrome) - máy tạo nhịp đập tự nhiên của tim hoạt động bất thường
- Bệnh về phổi
- Giải phẫu tim trước đó
- Nhiễm virus
- Căng thẳng do viêm phổi, giải phẫu hoặc các bệnh khác
Ngừng thở khi ngủ
Tuy nhiên, một số người bị rung tâm nhĩ không hề có bất kỳ khuyết tật hay hư hại gì của tim. Đây là một tình trạng gọi là rung tâm nhĩ đơn độc. Trong rung tâm nhĩ đơn độc, nguyên nhân thường là không rõ ràng, và các biến chứng nghiêm trọng rất hiếm khi xảy ra.
Tâm nhĩ lay động (atrial flutter)
Tâm nhĩ lay động tương tự như rung tâm nhĩ, nhưng nhịp tim có tổ chức hơn và ít hỗn độn hơn nhịp tim của rung tâm nhĩ. Đôi khi tâm nhĩ lay động có thể phát triển thành rung tâm nhĩ và ngược lại.
Các yếu tố nguy cơ, triệu chứng và nguyên nhân của chứng tâm nhĩ lay động thường tương tự như của rung tâm nhĩ. Ví dụ, stroke cũng là một mối quan tâm cho bệnh nhân chứng tâm nhĩ lay động. Và cũng như với rung tâm nhĩ, tâm nhĩ lay động thường không đe dọa tính mạng khi được điều trị đúng cách.
Yếu tố nguy cơ
Một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ phát triển chứng rung tâm nhĩ.
- Tuổi: Tuổi càng cao, càng có nhiều nguy cơ phát triển chứng rung tâm nhĩ.
- Bệnh tim mạch. Bất cứ ai có bệnh tim - chẳng hạn như vấn đề về van tim, bệnh tim bẩm sinh, suy tim sung huyết, bệnh động mạch vành, hoặc có tiền sử đột quỵ tim hoặc giải phẫu tim - có tăng nguy cơ rung nhĩ.
- Huyết áp cao. Huyết áp cao, đặc biệt là khi không được kiểm soát tốt bằng cách thay đổi lối sống hay thuốc men, có thể làm tăng nguy cơ bị rung tâm nhĩ.
- Các bệnh mãn tính khác, chẳng hạn như các vấn đề về tuyến giáp, ngưng thở khi ngủ, hội chứng biến dưỡng (metabolic syndrome), tiểu đường, bệnh thận mãn tính hoặc bệnh phổi, dễ có nguy cơ rung tâm nhĩ.
- Uống rượu. Đối với một số người, uống rượu có thể gây ra một đợt rung tâm nhĩ. Say rượu có thể có nguy cơ cao hơn.
- Béo phì. Những người béo phì có nguy cơ cao phát triển chứng rung tâm nhĩ.
- Tiền sử gia đình.
Biến chứng
Đôi khi rung tâm nhĩ có thể dẫn đến các biến chứng sau đây:
- Stroke. Trong rung tâm nhĩ, nhịp tim hỗn loạn có thể làm máu đọng lại trong tâm nhĩ và dễ bị đóng cục. Nếu một cục máu đông được thành hình, nó có thể tróc ra, chạy đến óc và chặn dòng chảy của máu, gây ra stroke.
Nguy cơ stroke trong rung tâm nhĩ phụ thuộc vào tuổi tác (nguy cơ cao hơn khi bạn có tuổi) và vào việc bệnh nhân có bị cao huyết áp, tiểu đường, tiền sử suy tim hoặc stroke trước đó, và các yếu tố khác. Một số thuốc, chẳng hạn như chất làm loãng máu, có thể làm giảm nguy cơ bị stroke và tổn hại đến các cơ quan khác gây ra bởi cục máu đông.
- Suy tim. Rung tâm nhĩ, đặc biệt là nếu không được chữa, có thể làm yếu tim và dẫn đến chứng suy tim - một tình trạng tim của bạn không thể bóp ra đủ máu để đáp ứng nhu cầu của cơ thể của bạn.
Định bệnh rung tâm nhĩ
Nếu bạn nghĩ rằng mình có thể bị rung tâm nhĩ, cần hẹn với bác sĩ gia đình của bạn để đi khám bệnh. Nếu rung tâm nhĩ được phát hiện sớm, điều trị sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn. Bạn cũng có thể được giới thiệu đến một bác sĩ tim mạch. Bác sĩ có thể làm những thử nghiệm sau để định bệnh:
- Điện tâm đồ (ECG) sử dụng một cảm biến nhỏ (điện cực) gắn liền với ngực và cánh tay của bạn để ghi lại tín hiệu điện khi chúng đi qua trái tim. Thử nghiệm này là một công cụ chính để chẩn đoán rung tâm nhĩ.
- Holter monitor. Thiết bị ECG di động này được đặt trong túi hoặc đeo trên thắt lưng hoặc dây đeo vai, ghi lại hoạt động của trái tim trong 24 giờ hoặc lâu hơn, cung cấp cho bác sĩ dữ kiện kéo dài về nhịp tim của bạn.
- Ghi sự kiện (event recorder). Thiết bị ECG di động này được thiết kế để xem xét hoạt động của tim trong một vài tuần đến vài tháng. Bệnh nhân kích hoạt chiếc máy khi có triệu chứng nhịp tim nhanh.
Khi cảm thấy triệu chứng, bệnh nhân nhấn nút kích hoạt, và một dải ECG của vài phút trước đó và và vài phút sau đó được ghi lại, cho phép bác sĩ xác định nhịp tim của bạn tại thời điểm có triệu chứng.
- Siêu âm tim. Sóng âm thanh được sử dụng, tạo ra một hình ảnh video của trái tim để xem xét cấu trúc của tim.
- Xét nghiệm máu xem bệnh nhân có bị các vấn đề về tuyến giáp hoặc các chất khác trong máu có thể dẫn đến chứng rung tâm nhĩ.
- Chụp X- ray phổi và tim của bạn, có thể tìm ra bệnh khác cũng có triệu chứng như của bạn.
Tự giúp để chữa rung tâm nhĩ
Chữa chứng rung tâm nhĩ gồm rất nhiều thuốc men hay giải phẫu phức tạp. Tuy nhiên, ngoài những phương pháp chữa trị này, bệnh nhân cũng cần phải thay đổi lối sống để cải thiện sức khỏe tổng quát của trái tim, đặc biệt là để ngăn ngừa hoặc điều trị các bệnh như huyết áp cao và bệnh tim. Bác sĩ có thể đề nghị một số thay đổi lối sống như sau:
- Ăn các loại thực phẩm tốt cho tim. Ăn uống lành mạnh là ăn ít muối và chất béo. Ăn nhiều trái cây, rau và ngũ cốc.
- Tập thể dục thường xuyên. Tập thể dục hàng ngày và tăng cường hoạt động thể chất của bạn.
- Bỏ hút thuốc lá. Nếu bạn hút thuốc và không thể tự bỏ, hãy nói chuyện với bác sĩ về các chiến lược hoặc chương trình cai hút thuốc.
- Duy trì một trọng lượng khỏe mạnh. Cân quá nặng làm tăng nguy cơ phát triển bệnh tim.
- Giữ huyết áp và mức cholesterol trong tầm kiểm soát. Thực hiện thay đổi lối sống và dùng thuốc để điều chỉnh huyết áp cao (hypertension) hoặc cholesterol cao.
- Uống rượu vừa phải. Nên chỉ uống một ly mỗi ngày cho phụ nữ ở mọi lứa tuổi và đàn ông lớn hơn 65 tuổi, và hai ly một ngày cho nam giới độ tuổi 65 và trẻ hơn.
- Theo dõi bệnh. Uống thuốc theo quy định và giữ các cuộc hẹn với bác sĩ. Cho bác sĩ biết nếu triệu chứng xấu đi.
- Hạn chế hoặc tránh caffeine và rượu
- Giảm stress. Căng thẳng nhiều và tức giận có thể gây ra vấn đề về nhịp tim
- Sử dụng thuốc mua tự do (over- the- counter) một cách thận trọng, vì một số thuốc trị cảm lạnh và ho có chứa chất kích thích có thể làm tim đập nhanh.

BS Nguyễn Thị Nhuận

Nổi ban do thuốc

1. Nói về “drug rash” (tạm gọi là "nổi ban do thuốc", thường gặp nhất là ban liên hệ với thuốc trụ sinh (kháng sinh, antibiotic) như amoxicillin (hay "thuốc "bi" [penicillin] ngày xưa ở Việt nam), hay nhóm thuốc gọi là cephalosporin, trong đó có thuốc Keflex (hay cephalexin) được vị thính giả nêu tên. Tuy nhiên, nhiều thuốc khác cũng có thể gây ra drug rash. Thường thì nếu ngưng thuốc thủ phạm, rash sẽ biến đi.
Vấn đề nhiều khi khó giải quyết vì thường bệnh nhân bị nhiễm trùng hay nhiễm virus nào đó mới cần tới thuốc kháng sinh, cho nên lúc ban nổi lên, phải xem xét nhiều yếu tố bệnh học, vi trùng học, xem xét các đặc tính của cái rash mới quyết đoán được cái rash do thuốc hay do bệnh nhiễm gây ra. Đôi khi, do cả hai. Ví dụ người bị nhiễm virus Epstein Barr (bệnh mononucleosis làm sưng họng, sưng hạch sốt kéo dài) nếu uống thuốc amoxicillin có thể làm rash nổi lên, mặc dù họ không phản ứng với thuốc trong trường hợp khác.
Ban do thuốc thường được mô tả như giống ban đỏ (morbilliform), xảy ra ở thân mình trước tiên, sau đó lan ra tứ chi và cổ; cả hai bên phải trái đều có (bilateral), hình dạng đối xứng (symmetrical). Ban có thể phẳng (macular), hoặc hơi cộm lên (papular rash; như mề đay), màu hồng, đỏ, có khi có những hình đa dạng như vòng tròn (annular), hay chấm đỏ ở trung tâm, bao quanh bằng một vòng đỏ (targetoid). Lấy ngón tay đè lên ban thì nó sẽ mất màu đỏ, và trắng bệch ra (blanching), tuy nhiên có khi nó vẫn còn giữ màu tím.
Lần đầu tiên ban xảy ra, một loại lốm đốm màu đỏ hồng, đôi khi màu tím (purpuric), xảy ra chừng 1-2 tuần sau khi dùng thuốc. Có khi ban nổi lên đến 1 tuần sau khi đã dứt thuốc. Nếu bệnh nhân đã tiếp xúc với thuốc trước đây rồi, thì sớm hơn, chỉ sau khi bắt đầu dùng thuốc 1-3 ngày là ban đã nổi lên. Trường hợp bệnh nhân uống thuốc 4 tuần, ngưng được 2 tuần mà nếu rash mới nổi lên, nhất là chỉ nổi lên ở mặt, có lẽ rash đó không phải do thuốc gây ra.
Một số thuốc như kháng sinh tetracycline, thuốc sulfonamide (sulfamid), thuốc trị bệnh tâm thần, thuốc lợi tiểu có thể gây nổi ban, nám da không phải vì da dị ứng với thuốc mà do tác dụng thuốc làm da nhạy cảm với ánh sáng (photosensitivity).
2. Một người nổi ban ở mặt có thể do nhiều lý do khác nhau:
Một chất thoa da nào đó có thể gây viêm da sau khi tiếp xúc. Một số mỹ phẩm có thể làm da viêm (cosmetic dermatitis) vì nó gây khó chịu trực tiếp (irritant, nếu bác sĩ thử allergy testing sẽ không thấy dị ứng với chất đó), hoặc do nó gây một phản ứng dị ứng thật sự (allergic reaction). Những sản phẩm có chứa dầu thực vật, trích tinh từ thảo mộc (nhất là các nước hoa) có thể gây phản ứng lúc bệnh nhân thoa lên mặt và ra ngoài nắng tạo một hiệu ứng gọi là phototoxic reaction (phản ứng độc do ánh sáng). Chất furocoumarin (ví dụ psoralen) trong một số thực vật chanh, parsley, celery, carrot làm cho tế bào da nhạy cảm với tia cực tím sóng dài trong ánh nắng (UVA) và tạo nên bệnh viêm da gọi là phytophotodermatitis (viêm da do thực vật và ánh sáng). Dân Á châu hay trồng cây sung (fig tree) trong nhà, và đây cũng là một nguồn psoralen thường gặp, dễ gây viêm da do ánh sáng. Nơi nóng, ẩm ướt như hồ bơi có thể làm phản ứng dễ xảy ra hơn.
Da có thể bị đỏ, nổi bong bóng, sau đó bị sậm đi, đen nâu hàng tháng trời. Việc da những vùng này sậm đi sau khi lành cũng do cơ thể chúng ta rất "khôn ngoan" (smart), vì da từng bị tia cực tím làm hư hại, cơ thể phản ứng bằng cách tích tụ melanin làm cho sậm da lại để che chở khỏi tác dụng của tia cực tím.
Vết sậm da này có thể còn mãi. Trường hợp hiếm hơn, da hư hại và sinh thẹo lúc lành. Ở trẻ con, ví dụ trẻ dính nước chanh từ bàn tay người mẹ lúc mẹ đang nấu nướng nước chanh có thể bị sưng đỏ ở mặt sau khi ra nắng, với hình dạng bàn tay làm người ta lầm lẫn nghĩ đến bạo hành (tát tai, abuse) trẻ em.
Riêng về trường hợp phụ nữ bị nám mặt do phytophotodermatitis, quý bà có thể dùng mỹ phẩm làm da bớt nám đi, nhưng phải rất cẩn thận vì có thể gây ra phản ứng khác. Nên tham khảo với bác sĩ gia đình hay bác sĩ chuyên khoa da.
3. Một số bệnh nhân, thường là đàn ông trung niên trên 50 tuổi bị da nổi mẩn đỏ, ngứa, dày ra những vùng tiếp xúc với ánh sáng mặt trời hay ánh sáng nhân tạo, như mặt mũi, hai vành tai nhưng phía sau tai thì không, hai cánh tay. Họ nhạy cảm với ánh sáng (photosensitivity) và bệnh gọi là viêm da mạn tính do nhạy cảm với ánh sáng (chronic photosensitivity dermatitis). Có thể cần những thuốc corticoid hay giảm viêm. Thường, nếu đội nón vành rộng, tránh nắng lúc trưa, dùng kem chống nắng (sunscreen), mặc áo tay dài, mang găng tay lúc ra ngoài có thể làm giảm bệnh rất nhiều.
4. Có những rash nổi trên mặt do những lý do khác như mặt nám phụ nữ lúc có thai (chloasma), bệnh ngoài da có biểu hiện những vùng da khác (như lác/eczema, seborrhea, lang ben do nấm). Hoặc một số bệnh như lupus erythematosus (lan san hồng ban) ảnh hưởng đến mạch máu và những bộ phận khác, như thận, não bộ.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Thursday, October 27, 2016

U bạch mạch

"U bạch mạch" là tên gọi tiếng Việt của "lymphangioma". Lymph là “bạch huyết” hay "lâm ba" (đừng lầm lẫn với "huyết trắng" của phụ nữ, chỉ lúc phụ nữ có chất dịch trắng hay đục ở âm đạo). Lymph là một chất dịch tinh lọc (ultrafiltration) từ máu, đi ra ngoài huyết quản (blood vessels) thấm vào các mô, nên không có hồng cầu (red blood cells), nên màu trong/trắng (clear fluid), có khi đục do mỡ trong ruột, chứa các tế bào lâm ba (lymphocytes), phụ trách nhận diện các yếu tố như vi trùng, các chất lạ tấn công vào cơ thể.
Lymph được lưu thông trong các mạch dành riêng, vì không có tế bào máu đỏ nên gọi là ”mạch bạch huyết” hay "bạch mạch" (mạch trắng , lymph channel) dẫn vào các tĩnh mạch lớn. Khi một nhóm các mạch lâm ba này dãn nở ra một cách bất bình thường thành một khối u, chúng ta có "lymphangioma", còn gọi là capillary lymphangioma (u mao quản/hay mao mạch), hoặc nếu các nang lớn hơn thì gọi là cavernous lymphangioma (u có hang ; cavernous = hang), hay cystic hygroma (cystic = nang; vì u có một hoặc nhiều nang và hygro = ẩm ướt). U bạch mạch thường thấy nhất ở vùng đấu cổ (70%), thân mình (20%) và ít khi gặp hơn, ở tứ chi.
Hiện nay, chữa bằng xạ trị (irradiation) hay chất corticosteroid (dùng cho các u mạch máu) không hiệu nghiệm.
Thuốc propranolol (dùng trị bệnh cao áp huyết) và dùng có kết quả trong các trường hợp u mạch máu (hemangioma), đang được thí nghiệm trên các u bạch mạch trong những trường hợp không trị được bằng các phương pháp khác.
Các chất thuốc gây xơ hoá (sclerosing agents) như doxycycline (một kháng sinh) hay OK-432 (“Picibanil”, một chuyển hoá chất của vi khuẩn streptococcus) được chích vào u bạch mạch để huỷ các mô bạch mạch và thay thế bằng mô thẹo/xơ. Tuy nhiên, đối với các u hang hay nang to, các thuốc chích làm xơ có thể không hiệu nghiệm lắm và bác sĩ có thể quyết định giải phẫu nếu cần và nếu thực hiện được.
Giải phẫu cắt bỏ (complete excision) có thể khó thực hiện vì u bạch mạch (lymphangioma) có thể lan qua các bộ phận khác, và khả năng u tái xuất hiện sau khi giải phẫu cao (high rate of recurrence).
Có thể chúng ta cũng nên xét những điểm sau, tuỳ theo từng trường hợp:
1. Đây là một dị dạng của mạch lâm ba (lymphatic malformation), không phải là u bướu (tumor) và không thoái hoá gây ung thư.
2. Cha mẹ lo lắng nhiều vì con mình có một vấn đề sức khoẻ cần giải quyết, tuy nhiên nên hỏi kỹ với bác sĩ và nếu không có gì gấp rút (ví dụ như dị dạng lymphangioma trong ngực bụng lớn nhanh, chèn ép một bộ phận trong ngực, bụng) thì có thể nên quan sát một thời gian, nhất là nên theo lời hướng dẫn của bác sĩ điều trị.
3. Cần luôn luôn hỏi bác sĩ thủ thuật nào đó có lợi gì, nhiều hay ít, có hại gì, biến chứng gì có thể xảy ra, trước khi quyết định chấp thuận hay đòi hỏi một loại trị liệu nào đó cho bệnh nhân, nhất là cho em bé 1 tuổi, vì trong những trường hợp lymphangioma vùng đùi, có thể thời gian còn dài. Ví dụ có thể trong tương lai gần, có những phương pháp mới hơn được chứng minh là an toàn (ví dụ propanolol, theo Ozeki, Fukao & Kondo), hay nếu để em bé lớn hơn thì phẫu thuật ít gặp vấn đề hơn, hay có thể em bé tăng trưởng nhưng lymphangioma mặc dù không teo đi hoàn toàn, thì vẫn không tăng thể tích và không gây vấn đề gì.

Xin nhắc lại là các thông tin nêu đều hoàn toàn có tính cách và mục đích thông tin. Phụ huynh cần theo đúng hướng dẫn của bác sĩ của con mình. Nếu cần, nên hỏi ý kiến thứ hai (second opinion) từ một bác sĩ khác, ví dụ bác sĩ giải phẫu chuyên về trẻ em (pediatric surgeon).
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Wednesday, October 19, 2016

Nghệ, curcumin và nano-curcumin

Nghệ, tiếng Anh là turmeric, xuất phát từ Ấn Ðộ, từng được dùng nhiều ngàn năm nay trong y học cổ truyền Ấn Ðộ (Ayurvedic medicine) và là thực phẩm, gia vị phổ biến cũng như phương thuốc cổ truyền mà ở Việt Nam ai cũng biết, nhất là sau 30 tháng 4 năm 1975, do hoàn cảnh y tế khó khăn, chúng ta dùng viên nghệ trong đủ mọi thứ trường hợp bệnh tiêu hoá vì không có thuốc gì khác hữu hiệu hơn.
Không riêng gì Việt Nam, mà hầu như nước nào cũng muốn đề cao khả năng trị bệnh của những phương thuốc cổ truyền của mình, hay những chất có dược tính trong thực phẩm của mình, ví dụ trà của Á Đông; gừng, tiêu, ớt và ngay cả rượu cũng được đề cao với không ít lòng tự ái dân tộc. Tuy nhiên, chứng minh cho cơ quan phụ trách thực phẩm và thuốc Mỹ (FDA) rằng một dược chất nào đó có thể dùng chữa một bệnh nào đó an toàn và hữu hiệu trên con người thật đòi hỏi rất nhiều khảo cứu lâu dài và tốn kém. Không riêng Việt Nam, giới khoa học thế giới đang nghiên cứu nhiều về các đặc tính dược học của nghệ và các trích tinh từ nghệ, nhất là chất curcumin mà chúng ta sẽ bàn sau.
Tuy nhiên, đối với Mỹ, nghệ hay curcumin chỉ được Cơ quan Thực phẩm và Thuốc (FDA) coi như là “health food”, thực phẩm có tác dụng trên sức khoẻ, có thể dùng như một phụ trợ dinh dưỡng, chứ không công nhận như là một thuốc men dùng với mục đích chữa bệnh. Ngoài ra, nghiên cứu về dược tính của các cây thuốc nhiều khi cũng phức tạp, gây tranh cãi vì được thực hiện ở các nước Á châu, có thể bị các quyền lợi kinh tế ảnh hưởng. Năm 2012, một nhà nghiên cứu nổi tiếng của trung tâm M.D. Anderson, Texas, Mỹ khảo cứu nhiều về khả năng chống ung thư của curcumin và những chất thực vật khác bị tố cáo là gian lận trong công bố của mình. Bài của ông về curcumin từng được các tác giả khác trích dẫn nhiều lần trong 700 bài báo khoa học.
Những nhận xét sau đây chỉ có tính cách thông tin và không có mục đích hướng dẫn trị bệnh.
Nếu chúng ta đọc các bài viết về củ nghệ, chúng ta sẽ thấy người ta gán cho nó nhiều khả năng chống bệnh. Những bệnh được y học ngoài dòng chính (“y khoa lề trái”, gọi là “alternative medicine “) ở Mỹ dùng nghệ để chữa, căn cứ trên truyền thống hay khả năng tiềm ẩn chứng minh trong phòng thí nghiệm (chưa được chứng minh trong y khoa thực chứng) có thể gồm có: khó tiêu, đau bụng, chảy máu, tiêu chảy, sình bụng, ăn không ngon, sạn túi mật, vàng da, nhức đầu, cảm ho, đau nhức cơ và mô xơ mãn tính (fibromyalgia), bệnh cùi (bệnh Hansen), tắt kinh, ung thư (theo Medscape). Tuy nhiên, danh sách dài và không chính xác như vậy cho chúng ta cảm tưởng chung chung rằng công dụng lâm sàng của nghệ hiện nay chưa được xác định và đo lường rõ rệt đếm mức có thể dùng như một thuốc đặc trị cho một bệnh hay loại bệnh chính xác nào đó.
Theo Medscape, tác dụng duy nhất được chứng minh hữu hiệu là trong bệnh "dyspepsia", hay "khó tiêu", mà bệnh này thì cũng không được định nghĩa rõ ràng lắm.
Khi nói đến nghệ, chúng ta nói đến bột nghệ màu vàng (turmeric) lấy từ củ của cây Curcuma longa, có hoa, lá to dùng để gói bánh, xuất phát ở Ấn Độ. Nghệ được phát hiện trong những dụng cụ nấu ăn từ 4.000 năm trước. Cà-ry (curry) làm bằng bột nghệ, và chất có hoạt tính trong nghệ là curcumin, có tác dụng chống oxy hoá (antioxidant) và chống viêm. Tuy nhiên, có rất ít curcumin trong bột nghệ (chừng 3% hoặc ít hơn), và trong bột cà ry lại càng ít curcumin hơn nữa. Cho nên nếu chúng ta ăn cà-ry và hy vọng nhờ vào tác dụng của curcumin trong bột nghệ thì tác dụng ích lợi, nếu có, sẽ không bao nhiêu.
Về dược học của nghệ, vấn đề lớn là curcumin tan trong mỡ (fat soluble), không tan trong nước, rất khó hấp thụ từ đường ruột để vào máu chúng ta và từ đó tác dụng đến các bộ phận cơ thể. Phần lớn curcumin được uống/ăn (40-85%) bị thải ra ngoài phân vì cơ thể không hấp thụ được. Ví dụ ăn nghệ nấu trong mỡ (dầu đậu phụng, dầu mè, nước dừa, bơ), nấu chung với tiêu, nhờ chất piperine trong tiêu có thể tăng hấp thụ của chất curcumin đến 20 lần. Nấu nghệ trong nước sôi như pha trà cũng tăng hấp thụ chất curcumin. Đấy là những điều kiện thường thấy trong cách nấu nướng cà ry và tiêu thụ nghệ của vùng Nam Á hay Đông Nam Á chúng ta.
Công nghệ nano là công nghệ làm việc ở mức rất nhỏ của các vật thể, biến đổi vật thể ở mức nguyên tử hoặc phân tử, ở mức dưới 100 nanometer. Nanometer (nm) là đơn vị chiều dài bằng một phần tỷ (1/1.000.000.000) của một mét. Ví dụ nếu so sánh một nanometer bằng cỡ một hòn bi thì một mét là một trái cầu to bằng trái đất của chúng ta.
Viện Hàn Lâm Khoa Học Việt Nam có bài viết (10/2013) nói về nghệ nano. “Nano curcumin”, sản xuất ở Việt Nam, trong đó phân tử curcumin được chuyên chở trong những “hạt mi-xen polyme kích thước nano tan trong H2O”, được hấp thụ 40 lần tốt hơn curcumin thường. Cũng như Tân Hoa Xã của Trung quốc có đưa tin tiếng Anh trích nguồn từ báo Thanh Niên là Việt Nam trở thành một trong 10 nước trên thế giới sản xuất được nghệ nano. Tôi không tìm thấy tin này trong các nguồn khác.
Nói chung, áp dụng kỹ thuật nano cho chất curcumin nghệ bằng cách liên kết phân tử curcumin với một chất nào khác (nanocarriers, vd polymeric micellar nanoparticles) có mục đích là curcumin bền vững hơn khi đi qua hệ tiêu hoá, làm curcumin tan trong nước, gia tăng khả năng hấp thụ của curcumin để đi vào máu và các mô của cơ thể (increased bioavailability). Tuy nhiên, kỹ thuật nano áp dụng vào y khoa nói chung là một lãnh vực rất phức tạp, bao gồm nhiều cách tiếp cận, chiến lược khác nhau. Đối với người dùng, có lẽ chúng ta chỉ biết là có thể dùng viên nghệ nano thì hấp thụ được nhiều hơn curcumin, ngoài ra, cần hấp thụ đến lượng bao nhiêu mới tốt, thuốc đi về bộ phận nào nào, mục đích chữa bệnh gì hay ngăn ngừa bệnh gì, có tác dụng phụ gì không so với thuốc nghệ thường, cần hỏi nhà sản xuất thuốc hay các y bác sĩ, dược sĩ bán thuốc liên hệ.
Curcumin chỉ là một chất trong mấy chục chất có tác dụng kháng oxy hóa, kháng sinh, chống ung thư, hay giảm viêm có thể tìm thấy trong nghệ. Cho nên chỉ dùng curcumin thôi chưa chắc đã gặt hái hết các lợi thế của nghệ thiên nhiên.
Trên trang web bán hàng Amazon, một chai 120 viên (250 mg) nano curcumin Mỹ bán giá 50 đôla (dùng cho 120 ngày). Theo thông tin trên chai thì kích thước của thuốc họ là 45nm để có thể đi lọt qua các kênh sinh học trong cơ thể rộng 200nm (“biological channels), so với 250nm của curminin trong viên nghệ thường, mà giá chừng 15-30 đôla/chai. Để so sánh một loại nano curcumin làm tại VN bán 4 hộp dùng cho 30 ngày giá 1.120.000 đồng VN.
Nghệ hay curcumin đang được nghiên cứu và trong ngành “y khoa lề trái”, gọi là “alternative medicine" ở Mỹ được một số người dùng như là mộtbiện pháp bổ túc (supplement) trong các lĩnh vực sau (xin nhắc lại là FDA không công nhận việc dùng nghệ như là thuốc chữa bệnh):
- Cùng chung với hoá trị liệu (chemotherapy) trong các bệnh ung thư.
- Bệnh tiểu đường (diabetes).
- Bệnh trầm cảm (depression) bệnh Alzheimer. Có người dùng chung với thuốc trị trầm cảm như Prozac.
- Bệnh da vẩy nến (psoriasis).
- Giúp lành vết thương.
- Giảm đau khớp do tác dụng giảm viêm.
Về việc dùng bột/viên nghệ nói chung, nên hỏi bác sĩ của mình trước khi dùng liều cao, nên để ý đến các tác dụng phụ sau đây có thể xảy ra:
- Người có thai. Curcumin kích thích tử cung co bóp, có thể sinh non.
- Curcumin có thể là thụ thai khó khăn hơn.
- Người bệnh gan, sạn mật. Curcumin kích thích túi, ống mật.
- Curcumin có thể làm những người đang dùng thuốc "loãng máu" như aspirin, clopidogrel (Plavix) dễ chảy máu hơn. Người uống thuốc NSAIDS như ibuprofen, aspirin để trị sưng khớp, giảm viêm có thể còn dễ bị chảy máu nhiều hơn với curcumin.
- Người bệnh tiểu đường đang dùng thuốc hạ đường máu: curcumin có thể làm đường máu quá thấp (hypoglycemia) làm ngất xỉu.
- Người đang uống thuốc làm giảm acid bao tử (vd proton pump inhibitor: omeprazole), curcumin có thể làm acid dạ dày được sản xuất nhiều hơn.
- Ngoài ra nhiều thuốc có tương tác với curcumin, cũng như chất piperine của tiêu được kèm theo nghệ cho dễ hấp thụ có thể tương tác với một số thuốc như phenytoin (chống co giật), theophylline, propanolol (hạ huyết áp).
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.

Monday, October 3, 2016

Đau thần kinh hông (sciatica)

Để cho dễ hiểu và dễ nhớ, cái tên la tinh sciatica này chỉ có nghĩa là đau do dây thần kinh hông [sciatic nerve] bị chèn ép, tổn thương ở vùng lưng, làm cho ta có cảm giác đau trên lộ trình của nó, dọc theo mông, phía sau đùi và cẳng chân. Chừng 13-40% người chúng ta từng bị sciatica trong đời.
Bây giờ chúng ta vào chi tiết hơn:
Sở dĩ chúng ta điều khiển được một số cơ, chúng ta có được những cảm giác ở đùi, cẳng, chân là do có những sợi dây thần kinh:
1. Đi từ ngoài (ví dụ xa nhất là đầu ngón chân, rồi đến cẳng, đùi) đem những tín hiệu vào tủy xương sống (spinal cord) rồi đi ngược lên bộ óc chúng ta, báo chúng ta biết: ví dụ chân đạp gai (đau), chân chạm ống khói xe gắn máy (nóng, phỏng), hay cho ta biết có gì đè (pressure) lên bàn chân.
2. Đồng thời óc gởi ra những tín hiệu đến các bắp cơ để thi hành những mệnh lệnh như nhón gót (dorsiflexion, L4), nhất bờ ngoài bàn chân (foot eversion, L5), duỗi ngón cái (S1).
Những sợi thần kinh này được tập hợp thành một dây thần kinh lớn tên là thần kinh hông lớn (sciatic nerve). Dây thần kinh này đi từ xương sống lưng đoạn ngang thắt lưng (lumbar, L4,5, S1), qua những lỗ nằm giữa các đốt xương sống thắt lưng.
Nếu bây giờ, những đốt xương sống đó bị bệnh, như đĩa đệm nằm giữa các đốt sống bị hư hại, lồi ra (herniation of an intervertebral disc, slipped disc); ống xương sống nơi chứa tuỷ sống quá hẹp (spinal stenosis); một đốt xương sống trược trên đốt dưới và xê dịch ra phía trước (spondylolisthesis); chấn thương (té trực tiếp làm hư hại các rễ thần kinh, hoặc gãy xương làm các mảnh xương đè trên rễ thần kinh); u bướu tuỷ sống; như vậy dây thần kinh sciatica bị đè lên trên lộ trình (đường đi) của nó, thì dây thần kinh này sẽ phát ra những tín hiệu báo cáo sai cho não bộ là có cái gì làm cho vùng phụ trách của nó (đùi, cẳng hoặc bàn chân) bị đau, bị tê, hoặc bị nóng buốt. Cho nên người bệnh sẽ "thấy"/có cảm giác mình đau ở chân, cẳng hay đùi trong lúc mà, trên thực tế nguyên nhân nằm tận vùng xương sống lưng hoặc trong vùng xương chậu (ví dụ đau xương sống lưng, bướu trong vùng xương chậu). Các bắp cơ liên hệ tới dây thần kinh này sẽ ít nhiều bị yếu đi.
3. Sau khi chui ra khỏi cột sống, sợi thần kinh sciatic nerve đi ngang qua hoặc đi xuyên qua một cơ bắp dài,hình trái lê nên được gọi là piriformis muscle, nằm sâu trong mông, mà đầu lớn đi từ xương thiêng, qua vùng xương chậu và đi xuống bám vào đầu xương đùi.Chứng này gọi là hội chứng piriformis.
Trong một số nhỏ bệnh sciatica, dây thần kinh sciatic bị bắp cơ này chèn ép, thường là lúc ngồi ghế xe, lúc chạy, bệnh nhân thấy ê, tê, đau nhiều ở mông,và cơn đau có thể chạy xuống phía dưới làm đau dọc theo sau cẳng chân. Định bệnh này khó. Chứng này gọi là hội chứng piriformis; có thể gây ra do chấn thương ở vùng mông,
Mấy chục năm nay, mỗi khi đau sciatica thì người ta gắn "tội" cho một cái đĩa đệm nằm không đúng chỗ (herniated disc) và can thiệp (phẫu thuật) trên vùng xương sống bị nghi ngờ đó. Tuy nhiên, gần đây, người ta khám phá một số trường hợp phẫu thuật trên xương sống không hiệu quả vì nguyên nhân thật sự nằm chỗ khác, ví dụ như trong hội chứng cơ piriformis. Chụp hình X quang đơn giản có thể không đủ để phát hiện các điểm bất bình thường của cột sống (như đĩa đệm bị rách),có thể cần các phương pháp hình ảnh khác nhất là MRI (cọng hưởng từ trường). Đối với những trường hợp như piriformis syndrome, có thể cần đến phương pháp mới gọi là Magnetic Resonance Neurography (MRN) để chụp hình dây thần kinh bằng cọng hưởng từ trường và xem nó hư hại chỗ nào. Phương pháp này có thể không được bảo hiểm trả tiền ở Mỹ vì quá mới.
4. Nói tóm lại, bệnh sciatica chỉ cho ta biết thần kinh sciatic bị tổn thương, và nguyên do có thể nhiều nguồn gốc khác nhau. Cột sống vùng lưng có những dấu hiệu thoái hóa (spondylosis) rất thường gặp trên XR của người có tuổi mạnh khoẻ không có triệu chứng xương khớp (không đau lưng, đau chân), 80% người trên tuổi có dấu hiệu thoái hóa cột sống trên quang tuyến nhưng không có nghĩa là cần phải chữa cho họ và sự hiện diện của các thay đổi này đi đôi với sciatica chưa chắc đã có nghĩa rằng nguồn gốc của cơn đau thần kinh nằm tại các bất thường trên xương sống mà chúng ta thấy.
Người bệnh có thể đau nhiều hơn:
- lúc ban đêm
- lúc đi nhiều, ngồi nhiều
- cúi xuống quá nhiều, bật người ra phía sau (bending backward)
- ho, nhảy mũi mạnh, rặn nhiều lúc đi cầu
Một số nguyên nhân khác nhau như thoát vị đĩa đệm (disc hernia), lệch đốt xương sống (spondylolisthesis), đau khớp háng, u bướu, cơ bắp chèn ép dây thần kinh đều có thể gây ra bệnh sciatica hoặc triệu chứng tương tự.
Tóm lại, nếu chữa trị thông thường bằng nghỉ ngơi, uống thuốc giảm đau, tập vật lý trị liệu mà không thấy kết quả, bệnh nhân cần đi khám lại bs gia đình để theo dõi, định bệnh lại, phối hợp điều trị và theo dõi bệnh tình.Có thể cần đên các bác sĩ chuyên khoa, và có thể cần chích thuốc vào sống lưng (thuốc corticoid chích vào khoảng trống chung quanh màng cứng tuỷ sống [epidural injection of corticosteroid], có thể giúp giảm nhưng ngắn hạn, không giảm khả năng phải giải quyết bằng phẫu thuật), hoặc giải phẫu nếu cần.
Chuyện bệnh có chữa hết hay không, nói chung đa số có dự liệu tốt, tuy nhiên tuỳ thuộc nguyên nhân gây ra, cũng như tuỳ hoàn cảnh tâm tính bệnh nhân vì có những người dễ bị đau mãn tính hay có những trường hợp bệnh nhân trong tiềm thức hưởng lợi từ tình trạng bệnh tật của mình. Châm cứu được một số người dùng vì không tuỳ thuộc vào thuốc; căn cứ trên y lý đông phương nên cần bác sĩ đông y hướng dẫn. Yoga có thể có ích đặc biệt trong hội chứng cơ piriformis gây ra sciatica vì có thể làm giãn cơ này. Tuy nhiên, những tư thế gập người ra phía trước, hay giãn các cơ phía sau đùi (hamstring muscles stretching) có thể là thần kinh sciatic khó chịu thêm. Tập các bắp cơ bụng và phía dưới lưng có khả năng giữ tonus các cơ bắp tốt hơn. Tuy nhiên, dùng tạ nặng bao nhiêu, tư thế tập lưng, bụng như thế nào cần chuyên viên vật lý trị liệu hướng dẫn, tránh những tư thế quá đáng, hoạt động làm đau nhiều thêm.
Bác sĩ Hồ văn Hiền.

Lọc máu và vô niệu (Dialysis and anuria)

Mỗi người có hai trái thận (kidneys), to chừng bằng nắm tay (11-14 cm x 6 cm x 4cm) nằm phía sau của xoang bụng, hình hạt đậu (bean-shaped), lõm vào ở phía trong, đối diện với nhau, thận bên phải thấp hơn bên trái vì phải nhường chỗ cho lá gan nằm trên. Thận có nhiều cơ năng khác nhau:
1. Bài tiết nước và các chất hòa tan trong nước như creatinine, urea, những chất đem từ ngoài cơ thể, nay cần được phế thải, ví dụ một số thuốc.
2. Giữ quân bình các lượng nước trong cơ thể, các chất điện giải (electrolytes, vd Na+, K+, Ca++, bicarbonate HCO3- ) chứa trong đó, và giữ quân bình pH (không acid quá mà cũng không kiềm quá).
3. Vai trò nội tiết (tiết hormone vào máu, endocrine function): điều hòa lượng vitamin D trong cơ thể, lượng hồng cầu được sản xuất trong tủy xương (qua erythropoietin), áp huyết, lượng muối natri trong cơ thể (renin>angiotensin>aldosterone axis).
Trước hết, tiểu cầu (glomerulus) là gì? Chúng ta hãy nghĩ đến mỗi trái thận được kết tạo bởi nhiều đơn vị nhỏ li ti gọi là nephron. Mỗi thận có chừng 800,000-1,5 triệu nephrons, và lượng này giảm đi lúc chúng ta già, mỗi nephron dài chừng 3-5 cm. Mỗi nephron hình dạng như một con rắn: đầu con rắn há miệng ra hình như cái chén (nang Bowman, Bowman's capsule, glomerular capsule). Trong “miệng con rắn” ngậm một cái nút nhỏ gồm những mao mạch (capillaries) đem máu từ động mạch thận (renal artery), nút này gọi là tiểu cầu thận (glomerulus). Nước và những chất tan trong nước đi từ máu trong tiểu cầu, lọc qua nang Bowman, và chảy về phần tiểu cầu kế tiếp. Các nephron này tạo cơ hội cho cơ thể thải ra những chất không cần thiết, cần phế thải trong một lượng nước tiểu nhiều hay ít tùy theo cơ thể trong tình trạng thiếu nước (cần bảo vệ nước, ít nước tiểu, chỉ đủ mang chất phế thải ra ngoài), hay dư nước (nước tiểu loãng hơn, cần đẩy nước nhiều hơn ra khỏi cơ thể).
Lúc nói tới cơ năng thận (kidney function, renal function), thường bác sĩ nói tới glomerular filtration rate (GFR), tạm dịch “tỷ lệ lọc ở tiểu cầu” (“độ lọc cầu thận”).
Người ta dùng mức creatinine trong plasma để ước tính, gọi là estimated GFR (hay eGFR), với những công thức khác nhau, trong đó các biến số được tính thêm vào như tuổi, giới tính, màu da (da đen hay da trắng), lượng albumin trong plasma, lượng urea trong plasma, (bình thường 90-120 ml/mn, tính theo người trung bình, có diện tích cơ thể 1,73m2)
Tùy theo số eGFR, bệnh thận mãn tính (chronic renal disease) được xếp theo giai đoạn (stage):
Stages
● I) trên 90 ml/mn: cơ năng thận (CTN) bình thường (nhưng CNT bình thường không có nghĩa là thận không có bệnh). Bác sĩ quan sát bệnh nhân, kiểm soát áp huyết.
● II) 60-89 ml/mn CNT giảm nhẹ. Bác sĩ quan sát bệnh nhân, kiểm soát áp huyết, các yếu tố cơ nguy tim mạch khác.
● III) 30-59 ml/mn CNT giảm vừa.
● IV) 15-29 ml/mn CNT giảm nặng (severely reduced). Bs chuẩn bị cho giai đoạn cuối (end stage renal disease).
● V) CNT giảm rất nặng (very severely reduced), giai đoạn cuối (end stage renal disease), cần ghép thận (renal transplant), hay lọc máu (dialysis).

Dialysis (dia=xuyên qua, lysis= tách ra, chia ra), chúng ta thường gọi là "lọc máu", là một phương pháp thay thế hoặc phụ trợ cho cơ năng thận của người bệnh lúc thận không còn đủ sức thực hiện vai trò "lọc" của mình, nghĩa là:
1) Thải ra ngoài (qua nước tiểu) các chất cơ thể không cần như urea (là chất biến dưỡng của các chất đạm), các chất thuốc men cần thải ra ngả nước tiểu (waste removal)
2) Giữ quân bình về nước và các chất điện giải (fluid and electrolyte balance). Muối natri dư thừa làm giữ theo quá nhiều nước trong cơ thể (fluid retention) là một nguyên nhân quan trọng gây chứng cao áp huyết (hypertension) ở bệnh nhân bị suy cơ năng thận.

Riêng về cơ năng nội tiết của thận, máy lọc máu không thay thế được.
Trong máy lọc máu (dialysis machine), máu từ người bệnh được cho chạy vào những ống nhỏ li ti của máy (dialyzer, tương tự như những tiểu cầu trong thận), trong những ống đó, máu chảy tiếp giáp với dung dịch của máy lọc (dialyzate) chảy ngược dòng. Hai bên máu và dung dịch dializate không trộn lẫn với nhau mà lại được được tiếp cận với nhau qua một màng ngăn bán-thẩm-thấu (semi-permeable membrane), có nghĩa là chỉ những phân tử có tầm vóc nhỏ mới đi qua được, còn những tế bào như hồng cầu, bạch cầu của máu thì không qua bên kia được.

Có hai cơ chế khác nhau. Một cơ chế gọi là diffusion (khuyếch tán) cho phép các chất có quá nhiều trong máu người bệnh cần được thải bớt ra ngoài cơ thể, hiện diện trong máu ở nồng độ cao (ví dụ potassium, phosphorus,urea) di chuyển từ máu qua dung dịch của máy lọc nơi đó không có chất đó (vd urea) hoặc chứa chất đó ở mức bình thường (ví dụ potassium, calcium). Cơ chế thứ hai là ultrafiltration ("siêu lọc"), giúp lấy bớt lượng nước dư trong cơ thể người bệnh di chuyển qua dịch của máy lọc máu và sẽ được thải ra ngoài, do áp suất trong dung dịch này âm (negative pressure). Sau đó thì máu đã được lọc xong được trả lại cho cơ thể người bệnh.
Như vậy, chúng ta thấy máy lọc máu đem một lượng nước nào đó cùng với một số chất thải ra khỏi cơ thể, thay vì nước và chất thải phải được thải ra dưới hình thức nước tiểu. Máy có thể lấy ra vài lít nước từ cơ thể người bệnh trong mỗi buổi 4 tiếng đồng hồ lọc máu cho người bệnh, thường là 3 lần một tuần theo quy định của Medicare là cơ quan trả tiền chi phí cho bệnh nhân già ở Mỹ. Lượng nước và chất thải cần lấy ra căn cứ trên tính toán của bác sĩ phụ trách lọc máu, mục đích là giữ cân nặng của bệnh nhân sau khi dialysis ở mức gọi là "dry weight" (“trọng lượng khô”, trọng lượng mà nếu cơ năng thận bình thường, người bệnh không dư nước, sẽ cân nặng ở mức đó). Thường mức "trọng lượng khô" bác sĩ nhắm tới thấp hơn trọng lượng bình thường lúc thận còn mạnh khoẻ, để bù vào khoảng giữa các buổi lọc máu, lúc lượng nước dư có thể tích tụ lại và làm áp huyết tăng. Tuy nhiên, chỉ tiêu "trọng lượng khô" sau khi lọc máu, nếu thấp quá, có thể làm người bệnh mệt mỏi quá đáng hay áp huyết quá thấp (hypotension). Tùy theo khả năng còn dư lại của thận, tùy theo loại bệnh thận, tùy theo nước còn dư thừa trong cơ thể hay không, thận của bệnh nhân có thể tiết ra một lượng nước tiểu nào đó. Tuy nhiên, thường sau 6 tháng lọc máu, đa số bệnh nhân bị bệnh thận giai đoạn cuối (stage 5) không còn sản xuất nước tiểu nữa, tình trạng này thường gọi là vô-niệu (anuria).
Tất nhiên, trên đây chỉ là một số kiến thức tổng quát. Nói chung, thân nhân cần hỏi các y tá hay bác sĩ săn sóc cho mình vì họ ở trong chuyên khoa đó và hiểu rõ những gì họ làm. Nếu có nghi vấn, hay chưa hiểu rõ, cần hỏi lại cho kỹ.
Chúc bệnh nhân may mắn.
BS Hồ Văn Hiền