Monday, November 23, 2015

Phẫu thuật bằng dao Gamma

Dao Gamma (Gamma Knife Surgery, Stereotactic Radiosurgery)
●    Stereotactic radiosurgery: phẫu thuật bằng quang tuyến theo hướng dẫn 3 chiều (stereo: 3 chiều, tri-dimensional, radio=quang tuyến, vô tuyến, surgery=phẫu thuật, giải phẫu)
●    Tuy gọi là dao, đây không phải là một dụng cụ giải phẫu theo lối truyền thống, nghĩa là không cắt da, cắt xương sọ để đi vào vùng não bộ cần phá huỷ hay cắt bỏ.
●    Tia gamma: Tia gamma (kí hiệu là γ) là một loại bức xạ có tần số cực cao.
●    Tia gamma có bước sóng thấp nhất (wave length <10−12 meter) và tần số cao nhất (frequencies above 10 exahertz (or >1019 Hz)) trong số các sóng điện từ vì vậy nó mang nhiều năng lượng hơn. Tia gamma sinh ra từ quá trình phân rã (decay) các hạt nhân nguyên tử có trạng thái năng lượng cao; ở đây chất đồng vị phóng xạ được dùng để sinh tia gamma là chất Cobalt 60.
 
Những bệnh sau đây thường được phẫu thuật bằng tia gamma:

1.    U bướu hay các tổn thương não bộ (tumors or brain lesions);
2.    U thần kinh thính giác (acoustic neuroma);
3.    Thần kinh số V đau (làm đau vùng mặt, trigeminal neuralgia) do bị một u bướu trong sọ đè lên dây thần kinh V (trigeminal nerve);
4.    Những mạch máu nối động mạch và tĩnh mạch bất bình thường (arteriovenous malformations, AVM) ;
5.    Trong những trường hợp không dùng phẫu thuật thông thường để tiếp cận các u bướu (ví dụ di căn [metastasis] của ung thư phổi rải rác lên não bộ);
6.    Hay tình trạng chung bệnh nhân quá yếu không thể phẫu thuật bằng dao kéo được.

Nói chung, tia gamma tác dụng lên trên DNA (là chất liệu di truyền của tế bào bất thường của u bướu hay vùng cần bị phẫu thuật), làm cho tế bào không nhân lên được, u bướu bị teo lại, các mạch máu bất thường AVM tắc nghẽn và teo lại.
Tôi nghĩ trước khi giải phẫu, bác sĩ sẽ cho bệnh nhân biết trước những gì có thể xảy ra, chuẩn bị như thế nào và những biến chứng gì có thể xảy ra. Nói vắn tắt, sẽ có 4 giai đoạn:
1.    Chuẩn bị: Bệnh nhân được gắn vào đầu một cái khung titanium (titanium head frame placement), với các ốc bám chặt vào đầu, nên cần thuốc tê cho khỏi đau đớn, để làm cơ sở định vị trong công việc định chính xác vị trí của u bướu hay vùng bệnh cần giải phẫu.
2.    Bệnh nhân được làm MRI hay CT đầu (tumor or lesion location imaging).
3.    Các chuyên viên sẽ tính toán các chi tiết như liều lượng, vị trí của các tia gamma dùng cho phẫu thuật (radiation dose calculation).
4.    Sau đó bệnh nhân được đưa vào lòng máy dao gamma, được mang một cái nón [collimator helmet] có nhiều lỗ, để hướng các tia gamma vào một vị trí chính xác, hội tụ trên u bướu hay vùng thương tích cần giải phẫu.

Trước khi làm phẫu thuật, bệnh nhân có thể chuẩn bị những điểm sau đây:
1.    Cho bác sĩ biết nếu mình bị dị ứng (allergies) với những chất như cao su, latex, iod, thuốc tiêm, băng keo, v..v...
2.    Cho bs biết nếu mình bị bệnh dễ chảy máu.
3.    Nếu mình mang pacemaker (điều tiết nhịp tim), các implants tai, stent trong tim, mạch máu, máy bơm thuốc tự động.
4.    Nếu mình có thai hoặc có thể có thai.
5.    Cần nhịn đói 8 giờ trước khi làm phẫu thuật, thường người ta cho nhịn đói sau 12 giờ khuya đêm trước.
6.    Vẫn uống các thuốc thường lệ (như thuốc huyết áp, tiểu đường).
7.    Có thể gội đầu bằng một thuốc shampoo đặc biệt đưa trước cho bệnh nhân.
8.    Những nơi gắn ốc để mang khung titanium có thể cần được cạo tóc hoặc không cần.
9.    Một số nơi bác sĩ cho bệnh nhân thuốc an thần trước khi làm phẫu thuật, tuy nhiên bệnh nhân vẫn tỉnh táo trong suốt thời gian trong máy, và liên lạc với chuyên viên bên ngoài bằng intercom trong lúc họ theo dõi bệnh nhân trên video.

Phẫu thuật:
Kéo dài 1-60 phút tuỳ trường hợp (radiation treatment). Có thể kéo dài vài giờ. Thường thì chỉ làm một lần mà thôi (one session).
Xong bệnh nhân được gỡ khung khỏi đầu mình, theo dõi một thời gian ngắn, có thể về nhà trong ngày hoặc ngày sau.
Bệnh nhân được theo dõi bằng MRI, hay CT theo định kỳ ví dụ 6 tháng -12 tháng sau khi giải phẫu.
Sau khi hoàn tất phẫu thuật:
●    Sau một thời gian theo dõi ở bệnh viện, thường bệnh nhân được về nhà trong ngày, hoặc có thể ở một đêm trong bệnh viện. Nên có người lái xe cho mình về nhà sau khi phẫu thuật.
●    Sau đó thì, trừ trường hợp bác sĩ dặn trước, bệnh nhân thường được sinh hoạt như bình thường.
●    Bệnh nhân cần liên lạc với bác sĩ nếu nhức đầu nhiều quá, các chỗ gắn khung đầu chảy máu, chóng mặt, mờ mắt rất nhiều so với trước khi phẫu thuật, động kinh.
●    Một số bác sĩ nghĩ rằng tia gamma ảnh hưởng đến chất myelin là chất bọc và che chở các dây axon của tế bào thần kinh trong não bộ, do đó bệnh nhân có thể cảm thấy rất mỏi mệt và sau đó có thể thấy trí nhớ ngắn hạn (short term memory) cần dùng để tính toán, sinh hoạt thông thường (ví dụ hay quên, đãng trí, ví dụ quên đường phố mình mới đi qua, trước khi rẽ qua đường khác) có thể bị ảnh hưởng.

Xin nhớ tất cả các nhận xét trên chỉ có tính cách thông tin, độc giả cần được bác sĩ khám bệnh và được bác sĩ theo dõi.
Bs Hồ Văn Hiền

Chứng hôi miệng

Hôi miệng là một triệu chứng thường gặp, được định nghĩa như là sự hiện diện dai dẳng hay thường gặp của một mùi trong hơi thở làm khó chịu.
1.    Nguyên nhân:
Trái với thành kiến phổ thông, hơi thở không phản ảnh tình trạng tiêu hoá, nghĩa là việc thức ăn được tiêu hoá tốt hay không trong bao tử, trong ruột, hay một bệnh gì đó trong ống tiêu hoá.
Thực quản (esophagus) nối liền miệng với dạ dày được xẹp lép xuống trong tình trạng bình thường. Chỉ lúc ợ hơi thì khí trong dạ dày mới thoát ra ngoài và ảnh hưởng đến hơi thở.
85% nguyên nhân ở miệng: đa số các trường hợp hôi miệng do những thức ăn còn dính trong miệng bị các khuẩn gram âm yếm khí ( hay kỵ khí) (anaerobic gram negative bacteria), làm cho lên men (fermentation), tạo nên những hợp chất bay hơi như hydrogen sulfide và methyl mercaptan.
Nướu răng (gum, gingiva) bị bệnh, như trong trường hợp bệnh chu nha (periodontal disease), nướu bị loét hay các mô bị chết (hoại tử). Bệnh chu nha là bệnh nhiễm khuẩn mãn tính của nướu răng và xương bao bọc quanh chân răng; nếu không chữa, bệnh nặng có thể đi đến rụng răng.
Viêm nướu răng (gingivitis) do nướu răng phản ứng với plaque, là những chất dẻo và dính (“cao” răng) do vi khuẩn đọng lại, để lại trên mặt ngoài của răng. Dần dần, chất vôi calcium đọng thêm vào, biến thành đá răng (tartar hay calculus), cần được nha sĩ dùng dụng cụ lấy ra. Viêm nướu là bước đầu, sẽ tiến triển thành viêm chu nha (periodontitis).
Bệnh chu nha là một yếu tố cơ nguy làm tăng tỷ lệ bệnh tim mạch, bệnh sưng phổi (pneumonia), tình trạng có bầu sinh non (prematurity) sinh con nhẹ cân (low birth weight).
Nếu nướu răng lành mạnh, các vi khuẩn này có thể tồn tại trên mặt trên của đoạn lưỡi phía sau, về phía họng. Những yếu tố sau đây làm vi khuẩn nảy nở nhiều ơn: các tuyến nước miếng giảm sản xuẩt nước miếng, nước miếng không lưu thông tốt, ứ đọng, và nước miếng quá kiềm (alkaline). Bình thường pH nước miếng từ 6.37.5; thường hơi acid, nhưng lúc các tuyến nước miếng được kích thích lúc cần tiêu hoá nhiều thì đổi qua kiềm (pH8).
2.    Nguyên nhân hiếm gặp:
•    Ung thư mũi và họng (nasopharyngeal cancer),
•    Nhiễm trùng xoang (sinusitis), mũi;
•    Vật lạ (foreign bodies) trong mũi gây nhiễm trùng làm một mùi rất thối toát ra từ mũi em bé, có thể cộng thêm chảy máu và mủ từ mũi;
•    Một số người bị áp xe trong phổi do một vật lạ do bất cẩn họ hút vào cuống phổi (aspiration of foreign body), làm tắc nghẽn cuống phổi, vùng phổi bị cô lập, hay cuống;
•    Phổi dãn nở một cách bất bình thường (bronchiectasis) tạo nên một túi chứa nhớt, sẽ bị các vi khuẩn yếm khí (anaerobic bacteria) chiếm đóng và gây ra áp xe phổi.
3.    Một số chất trong thức ăn uống (tỏi, hành, rượu) có thể đi vào hơi thở để tạo nên một mùi thoang thoảng, có thể làm khó chịu nhưng thường không thối rõ rệt.
4.    Một số bệnh làm cho hơi thở có mùi: người tiểu đường nặng hơi thở như mùi trái cây, người suy gan (liver failure) có thể có mùi "chuột", mùi mốc (mousy, musty smell), hay mùi sulfur; người suy thận (renal failure) có thể có hơi thở mùi ammonia.
Định bệnh:
Bác sĩ thử ngửi mùi hơi thở bệnh nhân (sniff test). 48 giờ trước khi khám, bệnh nhân tránh ăn tỏi và hành, và 2 giờ trước khi khám, bệnh nhân không ăn, nhai, uống nước, súc miệng hay hút thuốc lá. Bệnh nhân thở ra bằng miệng về phía mũi bác sĩ ở khoảng cách 10cm, lần thứ nhì thở qua mũi, miệng ngậm lại. Nếu hơi thở qua miệng là hôi thối nhất, nguyên nhân có lẽ nằm ở miệng. Nếu hơi phà qua mũi là hôi nhất, nguyên nhân nghi ở mũi. Nếu thở bằng miệng và thở
bằng mũi hôi giống nhau, nguyên nhân nằm trong phổi, hoặc nguyên nhân là một bệnh ảnh hưởng toàn thân (systemic disease) (theo Merck Manual).
Nếu không tìm ra nguyên nhân, bác sĩ có thể dùng muỗng plastic cạo phía sau lưỡi bệnh nhân, đợi 5 giây đồng hồ, rồi ngửi cách 5cm.
Ngoài ra bác sĩ cần xem kỹ vùng răng miệng, nướu răng, mũi và xoang (sinuses).
Có khi bệnh nhân bị ám ảnh là hơi thở mình bị hôi, mặc dù người chung quanh không nhận thấy gì cả, và bác sĩ làm test như trên cũng không ngửi thấy (psychogenic halitosis= bệnh hôi miệng do nguồn gốc tâm lý).
Trị liệu:
1.    Đối với chứng khô miệng vì ít nước miếng, nhất là người già:
•    Bảo vệ sức khoẻ răng miệng: đánh răng mỗi lần 3 phút, ít nhất 2 lần mỗi ngày, có thể dùng máy đánh răng, dùng bàn chải tốt, đánh đúng hướng dọc theo kẽ răng. Dùng chỉ răng (floss) để thanh toán thức ăn giữa các kẽ răng, nhất là những răng cấm phía sau;
•    Có thể dùng máy bơm và xịt nước (water pick) mỗi lần sau khi ăn xong để rửa sạch các kẽ răng.Coi chừng tăm xỉa răng không đúng cách, quá nhiều, có thể làm hư nướu răng mà không lấy được các mảnh vụn thức ăn;
•    Khám nha sĩ để cạo cao răng định kỳ, trám các lỗ sâu răng và chữa bệnh chu nha nếu có;
•    Thuốc súc miệng để giảm plaque và giảm khuẩn (mouthwash), vd chlorhexidine (prescription in U.S.);
•    Giữ gìn răng giả đúng vệ sinh;
•    Nếu nghẹt mũi vì dị ứng, hay nếu thở bằng miệng ban đêm (vd. vì mập) cần để ý vì thở miệng làm miệng khô;
•    Sáng nên chải răng và ăn sáng nhẹ.
2.    Chúng ta có thể thử những biện pháp sau cho chứng khô miệng:
•    Nhờ bác sĩ gia đình xét lại toàn bộ tình hình, bác sĩ nha khoa xem lại sức khoẻ răng miệng;
•    Nhờ bác sĩ giúp tính lượng nước uống đầy đủ, bảo đảm dinh dưỡng tốt;
•    Xem trong các thuốc đang uống có những thuốc ảnh hưởng đến lượng nước miếng (thuốc trị dị ứng như Benadryl [diphenhydramine], thuốc ho);
•    Bỏ hoặc cai thuốc lá, rượu;
•    Dùng "nước miếng nhân tạo" (artificial saliva) xịt vào miệng; giúp miệng đỡ khô, như Biotène Moisturizing Mouth Spray; kẹo ngậm (lozenges) chống khô miệng, kích thích tiết nước miếng, kẹo có chứa chất xylitol là một loại đường lấy từ thực vật, không làm hư răng (vd XyliMelts for Dry Mouth).
Tóm lại nên chú trọng về vệ sinh và sức khoẻ răng và miệng nhiều hơn là dùng những thuốc tác dụng trên bộ phận tiêu hoá như dạ dày (những thuốc “thuốc trị đau bao tử” như ranitidine, omeprazole làm giảm bớt acid trong dạ dày), ruột và gan.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Monday, November 16, 2015

Khác biệt giữa Stroke và Heart Attack

Stroke tiếng Việt gọi là Đột Quỵ hoặcTai Biến Mạch Máu Não, còn Heart Attack là Cơn Đau Tim. Hai bệnh có một số điểm giống và khác nhau đôi khi cũng khó mà phân biệt.
 
-Cả hai đều gây ra do sự gián đoạn cung cấp máu cho mỗi bộ phận là não và tim 
 
-Cả hai đều cần được cấp cứu tức thì vì hậu quả của bệnh tùy thuộc vào điều trị sớm hay muộn.
 
-Triệu chứng của hai bệnh đều khác nhau.
 
Nhận diện và nhớ được sự khác biệt về dấu hiệu báo động sự xuất hiện giữa hai bệnh đôi khi cũng gây bối rối cho nhiều người. Xin cùng tìm hiểu về hai bệnh này.
 
Trước hết, xin nhấn mạnh là các tế bào trong cơ thể hoạt động được đều nhờ chất dinh dưỡng và dưỡng khí do dòng máu cung cấp. Gián đoạn sự cung cấp này sẽ đưa tới rối loạn chức năng cho bộ phận đó rồi cho toàn cơ thể. 
 
Não bộ và tim là hai bộ phận chủ chốt của cơ thể và rất nhậy cảm với sự thiếu cung cấp nguồn nhiên liệu để hoạt động, dù sự gián đoạn chỉ trong vài phút đồng hồ.

Stroke là gì?
 
Stroke là một cơn yếu ớt bất chợt ở một phía của cơ thể gây ra do sự gián đoạn lưu hành máu tới một phần nào đó của não. 
 
Ngưng cung cấp máu có thể là do ở trên não có một cục máu làm tắc nghẽn ( 85%) hoặc do một mạch máu bị đứt rách. 
 
Không có máu, tế bào não chết liền nếu không được cấp cứu. 
 
Mỗi phút không điều trị đưa tới hủy hoại cho 1.9 triệu tế bào não, 7.5 miles sợi thần kinh và 14 tỷ điểm giao liên kết hợp thần kinh. 
 
Báo cáo y học của American Heart diễn tả sự tổn thương tế bào não khi không được điều trị với sự hóa già của cơ quan này như sau:
 
Cứ một giây không điều trị não già đi gần 8 giờ, mỗi phút không điều trị, não già gần 3 tuần lễ, chậm điều trị 1 giờ, não già đi 3.6 năm và nếu không chữa, não già đi 36 năm. Mà não đã hóa già hết hoạt động thì hậu quả tai hại sẽ vô lường, vĩnh viễn. 
 
Coi vậy thì cấp cứu điều trị Stroke quan hệ như thế nào.

Cho tới nay, đột quỵ được coi là đệ tam sát thủ đối với con người, sau bệnh tim và ung thư và là đệ nhất nguyên nhân gây ra tàn phế cơ thể, đệ nhị hung thủ gây tàn phế thần kinh, sau bệnh Alzheimer. 
 
Bên Hoa Kỳ, hàng năm có tới trên dưới 700,000 người bị stroke với gần 200,000 tử vong. 
 
Sống sót thì cứ một trong sáu người cần chăm sóc tại các cơ sở lâu dài; ba trong bốn người giảm khả năng làm việc. 
 
Kinh hoàng như vậy mà dường như nhiều người vẫn chưa biết rõ về bệnh cũng như chưa chịu áp dụng các phương thức phòng ngừa để bệnh không đến với mình. 
 
 
Những dấu hiệu báo trước
 
Dấu hiệu tùy thuộc nguyên nhân gây tai biến, vùng não và số lượng tế bào bị tổn thương. Điểm đặc biệt của dấu hiệu báo động là một số những “Đột Nhiên”. 
 
-Đột nhiên thấy yếu một bên cơ thể như mặt, tay hoặc chân là dấu hiệu sớm nhất và thông thường nhất; rồi:
-Đột nhiên thấy tê dại trên mặt, cánh tay hoặc chân ở một nửa thân người;
 
-Đột nhiên thấy bối rối, nói lơ lớ khó khăn hoặc không hiểu người khác nói gì;
 
-Đột nhiên có khó khăn nhìn bằng một hoặc cả hai con mắt;
 
-Đột nhiên chóng mặt, đi đứng không vững, mất thăng bằng;
 
-Đột nhiên thấy nhức đầu như búa bổ mà không rõ nguyên nhân.
 
Không phải tất cả các dấu hiệu này đều xẩy ra trong mỗi tai biến. Nhưng nếu thấy một vài trong những dấu hiệu đó là phải kêu cấp cứu, tới nhà thương ngay. Đây là trường hợp khẩn cấp, trễ phút nào nguy hiểm gia tăng với phút đó.
 
Y giới đưa ra trắc nghiệm gọi tắt là FAST để sớm phát hiện stroke:
 
F = Face: yêu cầu họ cười, coi xem một bên mặt có méo, môi xệ.
 
A =Arm: yêu cầu dơ 2 tay lên cao, coi xem một tay có yếu suội thõng xuống.
 
S =Speech: yêu cầu nhắc lại một câu nói, coi xem dọng nói có ngọng lớ, nhắc lại có đúng 
 
T=Time có nghĩa thời gian điều trị là quan trọng, cần hành động kêu 911 cấp cứu ngay. 
 
Nếu áp dụng trắc nghiệm này thì đôi khi người thường cũng dễ dàng thấy stroke đang xuất hiện.
 
Ngoài ra, tùy theo não trái hoặc phải bị tổn thương mà triệu chứng khác nhau đôi chút.
 
a-Đột quỵ ở não trái hay phải đều đưa tới suy yếu hoặc tê liệt của phần cơ thể phía đối diện cộng thêm mắt mở rộng hoặc môi xệ xuống;
 
b-Đột quỵ não trái gây ra rối loạn về ngôn ngữ ảnh hưởng tới việc phát ra và hiểu lời nói kể cả đọc và viết. Lý do là trung tâm kiểm soát ngôn ngữ thường nằm bên não trái. Nạn nhân cũng có rối loạn về trí nhớ, một chút rối loạn hành vi, chậm chạp và dè dặt hơn.
 
c-Tổn thương não phải: Ngoài tê liệt nửa thân phía trái, bệnh nhân còn bị mất trí nhớ, hành vi hấp tấp, không suy nghĩ, kém nhận xét về không gian, hay bị xúc động, buồn rầu và chỉ để ý tới sự việc xẩy ra mé phải cơ thể. Chẳng hạn bệnh nhân không thấy có người tới ở phía trái hoặc bỏ quên thực phẩm trên phần đĩa bên trái.

Điều trị 
 
Điều trị stroke tùy theo bị máu cục hoặc đứt động mạch.
 
Máu cục thì thuốc loãng máu như aspirin là ưu tiên rồi tới heparin…Aspirin cần được dùng trong vòng 3 giờ sau tai biến.
 
Còn stroke do đứt mạch máu thì cần giải phẫu để sửa chỗ đứt và giảm áp lực của máu tràn đè lên tế bào não. Aspirin không được dùng vì sẽ làm máu loãng, chẩy nhiều hơn.
 
Sau giai đoạn cấp cứu, bệnh nhân được tiếp tục điều trị tại Trung tâm Phục hồi Chức năng, để lấy lại các chức năng đã mất hoặc suy yếu gây ra do sự thiếu nuôi dưỡng tế bào não.
 
Tóm lại, Tai biến Động mạch não là một tai nạn trầm trọng, cần được cấp cứu tức thì để cứu vãn sự sinh tồn của tế bào thần kinh. Nhiều nhà chuyên môn coi tai biến này nguy hiểm như Cơn Suy Tim heart attack, và gọi là Brain Attack.

Tai biến có thể viếng thăm bất cứ ai, không kể tuổi tác, nam nữ, giầu nghèo. 

Heart Attack là gì?
 
Tim là bộ phận thiết yếu trong việc nuôi dưỡng toàn bộ tế bào trong cơ thể. Hằng ngày, tim liên tục làm việc suốt 24 giờ để bơm một khối lượng hơn 7000 lít máu. Để hoàn thành công việc này, tim cần oxy và chất dinh dưỡng do động mạch vành (Coronary Artery) cung cấp. 
 
Vì nhiều lý do khác nhau, mặt trong của động mạch vành bị các mảng chất béo bám vào, làm cho động mạch trở nên cứng và hẹp, máu lưu thông giảm đi. Một máu cục có thể thành hình và gây tắc nghẽn hoàn toàn sự lưu hành của máu. Tế bào tim không nhận được chất dinh dưỡng và oxy, sẽ bị hủy hoại Đó là sự nhồi máu cơ tim (myocardial infarction). Thời gian thiếu máu càng lâu thì sự hủy hoại của tế bào tim càng lan rộng và cơn đau tim càng trầm trọng hơn.
 
Đôi khi, cơn đau tim cũng xảy ra khi động mạch vành co thắt tạm thời làm cho lưu lượng máu tới tim giảm đi. Các cơn co thắt tạm thời này có thể gây ra do căng thẳng tâm thần, tiếp xúc với thời tiết lạnh, khói thuốc lá hoặc khi sử dụng vài loại thuốc như bạch phiến...

Tại Hoa Kỳ, mỗi năm có khoảng 1,5 triệu người bị Cơn Đau Tim với hậu quả là gần 500,000 trường hợp tử vong. Hơn một nửa số tử vong này xảy ra 1 giờ sau cơn đau và trước khi bệnh nhân tới bệnh viện. Ngoài ra đã bị Heart attack cũng thường đưa tới Stroke.
 
Cơn đau tim là một trường hợp khẩn cấp, cần được điều trị tức thì. Mỗi giây phút trì hoãn là giây phút dẫn tới “thập tử nhất sinh” cho người bệnh.
 
May mắn là cơn đau tim có thể điều trị được và các nguy cơ gây ra cơn đau tim có thể đối phó, thay đổi để phòng ngừa căn bệnh hiểm nghèo này. 
 
Những dấu hiệu báo trước Cơn ĐauTim
 
 Có một số dấu hiệu báo trước sự xuất hiện của cơn đau tim:
 
a-Cảm giác khó chịu, đau đè như có vật nặng ép trên ngực, kéo dài tới mấy phút rồi mất đi, nhưng có thể tái xuất hiện. 
 
Cơn đau có thể nhè nhẹ vừa phải tới đau không chịu được. 
 
b-Cảm giác đau từ ngực chạy lên vai, cổ hoặc lan ra cánh tay; đầu ngón tay cảm thấy tê tê.. 
 
c-Choáng váng, muốn xỉu, đổ mồ hôi, buồn nôn, khó thở.
 
d-Lo sợ, nóng nẩy, bồn chồn.
 
đ-Da xanh nhợt.
 
e-Nhịp tim nhanh, không đều.
 
Nếu cảm thấy một trong những dấu hiệu này thì phải kêu cấp cứu ngay. 
 
Nên lưu ý là phụ nữ có thể có các dấu hiệu khác hoặc không rõ ràng như nam giới. Họ có thể cảm thấy đau ở bụng, cho là bị ợ chua với da ẩm ướt hoặc mệt mỏi bất thường. Mà không ngờ là có thể đang bị heart attack.
 
Điều trị
 
Ngay khi cảm thấy có dấu hiệu bị cơn đau tim, bệnh nhân cần phải kêu số điện thoại cấp cứu để được đưa đi khám bệnh và điều trị càng sớm càng tốt. Điều trị sớm có thề ngăn ngừa hoặc giới hạn sự hư hao của tế bào tim và giảm được tử vong cho người bệnh.
 
Trên đường chuyên trở bệnh nhân tới bệnh viện, nhân viên cấp cứu đã có thể bắt đầu sự chữa trị với phương tiện sẵn có trong xe cấp cứu. Họ thường xuyên liên lạc trực tiếp với bác sĩ tại bệnh viện để thông báo tình trạng người bệnh và tham khảo ý kiến về cách thức đối phó với cơn đau tim. Họ có thể cho bệnh nhân thở oxy, dùng thuốc giảm đau tim nitroglycerin, morphine.Họ cũng sử dụng máy cấp cứu tim khi nhịp tim rối loạn, tạm ngưng..
Tới nhà thương, bệnh nhân được đưa vào phòng cấp cứu tim trang bị đầy đủ dụng cụ, và dược phẩm. Các bác sĩ sẽ hành động ngay để phục hồi sự lưu hành máu tới tim, giảm thiểu tổn thương cho các tế bào và liên tục theo dõi tình trạng bệnh. 
 
Thuốc gây tan cục huyết được dùng trong vòng 1 giờ kể từ khi bắt đầu có dấu hiệu của cơn đau tim.
 
Thuốc loại nitrate để giúp động mạch bớt co thắt và giảm cơn đau trước ngực.
 
Thuốc chống đông máu đề làm máu loãng, tránh đóng cục trong lòng động mạch. 
 
Thuốc viên aspirin để ngăn ngừa tiều cầu kết tụ với nhau...
 
Ngoài ra còn các dược phẩm giúp hạ huyết áp, giảm sức căng của động mạch, nhờ đó tim làm việc nhẹ nhàng hơn; thuốc điều hòa nhịp tim; thuốc an thần giảm đau. Bệnh nhân liên tục được hít thở oxy...
 
Thời gian điều trị tại bệnh việc tùy thuộc tình trạng nặng hay nhẹ của bệnh, sự đáp ứng với các phương thức chữa trị, thường thường là năm, sáu ngày nếu không có biến chứng. 
 
Trước khi xuất viện, bệnh nhân được hướng dẫn về cách thức chăm sóc và dùng thuốc, về chế độ dinh dưỡng, về nếp sống, về sự vận động cơ thể với chương trình vật lý trị liệu, phục hồi chức năng của tim. Bệnh nhân sẽ hiểu rõ nên vận động như thế nào để tăng cường sức mạnh của cơ thể mà không gây ra rủi ro cho trái tim, hiểu rõ về bệnh tim của mình và biết cách đối phó với các khó khăn trong đời sống hằng ngày để tránh cơn đau tim tái phát.
 
Kết luận
 
Dù là Cơn Đau Tim hoặc Đột Quỵ, cả hai bệnh đều là “thậm cấp chí nguy”, cần được điều trị tại bệnh viện tức thì.
 
Nhận biết và nhập tâm các dấu hiệu báo động sự xuất hiện của Đột Quỵ và Cơn Đau Tim là việc cần thiết để cứu vớt sự sống.
 
Kính chúc mọi sự bình an.
 
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Monday, November 9, 2015

Ghép thận và tuổi tác

Hiện nay, do đời sống càng ngày càng kéo dài, chừng một nửa số người đến giai đoạn cuối của bệnh thận (end stage renal disease, ESRD) và cần thay ghép thận hoặc lọc máu thường xuyên là trên 65 tuổi, một phần tư trên 75 tuổi. Cứ 200 người trên 75 tuổi thì một người mắc ESRD. Tuy nhiên, tại đa số các trung tâm, ghép thận cho người trên 75 tuổi rất hiếm. Cho nên quyết định già bao nhiêu thì còn ghép thận được một cách hợp tình hợp lý là một câu hỏi càng ngày càng phải đặt ra. Nói chung, so với người chờ đợi và được lọc máu, người được ghép thận trên 60 tuổi sống lâu hơn 2-4 năm, tuỳ theo thời gian chờ đợi được ghép thận, và phẩm chất cuộc sống của họ được tăng cường đáng kể.
Nói chung tuổi bệnh nhân càng lớn thì thì các bệnh khác có thể đi kèm theo ESRD sẽ nhiều hơn và trở ngại cho việc ghép thận, cũng như cơ may việc ghép thận có kết quả tốt sẽ có chiều hướng giảm đi, do đó người trên 65 tuổi ít hy vọng được lên danh sách ghép thận hơn người trẻ.
Ghép thận của người cho còn sống (live donor) kết quả tốt hơn là thận lấy từ xác chết. Tuổi của người cho (donor) thì càng trẻ càng tốt, và ảnh hưởng đến kết quả cuộc ghép thật nhiều hơn là tuổi của người nhận (recipient).
Bàn về yếu tố tuổi tác, theo Trung tâm Y khoa Đại học Maryland:
1)    Tuy không có giới hạn tuổi tác nhất định, số bệnh nhân trên 65 tuổi tương đối nhỏ. Biến chứng hậu phẫu cao hơn, thời gian nằm nhà thương lâu hơn, nhiễm trùng cũng như những rắc rối tim mạch gây tử vong cao hơn.
2)    Cần xét đến những bệnh kèm theo có thể gây những vấn đề ngoài những vấn đề do tuổi tác gây ra. Cần loại những bệnh nhân mà tình trạng sức khoẻ tổng quát đặt họ trong điều kiện bệnh tật quá nặng nề trong gia đoạn hậu phẫu, cũng như những người không hy vọng sống lâu quá 3 năm sau khi phẫu thuật.
3)    Những chứng sau đây có thể làm bệnh nhân ở tình trạng nguy hiểm sau phẫu thuật. Nếu họ từ 60-70 tuổi và mắc 2 chứng trở lên, hay nếu họ trên 70 tuổi mắc một chứng trở lên, có thể nên từ chối không ghép thận:
•    Bệnh tim làm cho bệnh nhân bị cơ nguy vừa hay cao bị tai biến tim trong thời gian chung quanh phẫu thuật (intermediate or high risk for adverse perioperative cardiac event).
•    Bệnh tiểu đường (diabetes) đã lâu ngày, có biến chứng.
•    Mập phì (BMI trên 35).
•    Hút thuốc lá trong vòng 6 tháng vừa qua.
•    Bệnh phổi tắc nghẽn khí quản mãn tính (chronic obstructive pulmonary disease, COPD).
•    Tai biến mạch máu não tái hồi (recurrent stroke) hoặc gần đây (trong vòng 1 năm).
•    Sự hỗ trợ từ gia đình, xã hội kém (inadequate social support).
•    Sức khoẻ tổng quát, tình trạng hoạt động chức năng kém (poor functional status).

Tuy nhiên, theo BS Stefan G. Tullius (BWH), có những khảo cứu cho thấy nếu người cho và người nhận lứa tuổi gần với nhau thì có thể kết quả sẽ tốt hơn (matching donor and recipient age improves outcome). Có nghĩa nếu người cho lớn tuổi, thay vì ưu tiên cho người nhận trẻ tuổi như thường lệ, ghép bộ phận đó cho người nhận có tuổi lớn hơn, già hơn có thể kết quả cuộc ghép sẽ tốt hơn. Người càng già thì hệ miễn nhiễm của họ yếu đi (reduced immune response), cơ thể của họ cố gắng 'trục xuất' (rejection) bộ phận lạ yếu ớt hơn, và đấy có thể là một lợi thế giúp cho cơ thể họ chấp nhận bộ phận được ghép vào, thuận tiện hơn là sự chấp nhận của cơ thể có hệ miễn nhiễm mạnh hơn của người nhận trẻ tuổi.
Một ví dụ tương tự với trường hợp bệnh nhân 78 tuổi đặt câu hỏi ở đây. Một phụ nữ người Mỹ gốc Nhật tên Toshiko được ghép thận lúc bà 80 tuổi, năm 2010, tại bệnh viện Brigham Women's Hospital (BWH, thuộc Đại Học Harvard, Boston, Massachusetts), sớm hơn dự định nhờ trái thận lấy từ một người già. Theo bài báo viết năm 2012, bà vẫn mạnh khoẻ, dùng ít thuốc hơn bệnh nhân trung bình (thuốc chống rejection, làm cơ thể giảm bớt cố gắng trục xuất bộ phận được ghép), và chỉ cần đi khám theo dõi 2 lần/năm. Nhờ đó bà có dịp đi hưởng nắng ấm tại Hawai, và đi về thăm ngôi đền Nhật nơi mà bà làm đám cưới với ông chồng lính Mỹ 60 năm trước. 
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Tuesday, November 3, 2015

Đau vai và tổn thương cơ "ống xoay" vai

Khớp vai chúng ta gồm đầu xương cánh tay (head of the humerus), nằm trong hốc lõm của xương bả vai (glenoid fossa of the scapula). Cử động bình thường, trơn tru cần có một nhóm cơ bao bọc chung quanh khớp xương vai, ổn định khớp, đồng thời cho phép các thành phần của khớp di chuyển (dynamic stabilizer) lúc khớp vai cử động, không cho cánh tay bị kéo lệch vế phía trên. Nhóm cơ này gọi là rotator cuff ("ống xoay").
Trường hợp sợi gân (tendon) các cơ trong nhóm này bị tổn thương do:
- Chấn thương mạnh, thường ở người trẻ (té, nâng vật rất nặng);
- Hoặc những chấn thương lập đi lập lại nhiều qua thời gian (như người thợ sơn phải đưa tay quá đầu làm việc), gân các cơ rotator cuff bị kẹt, vướng (impingement) vào các mấu xương của khớp vai, gân sưng, viêm mãn tính, làm cho đau, yếu đi, hoặc rách;
- Thoái hoá các gân, xương, thường ở người lớn tuổi hơn. Trong loại này, các sợi gân có thể sưng, đau do viêm gân (tendinitis). Viêm nặng có thể làm trở ngại cho dinh dưỡng của sợi gân (mất nguồn máu nuôi gân), làm cho gân có thể đứt một phần, hoặc đứt hẳn (partial or complete tear).

Người già trên 70 tuổi, hết 1/ 5 là có triệu chứng đau vai, đa số là do tổn thương ở gân rotator cuff. Giải phẫu tử thi cho thấy 26% người trên 60 bị rách một phần gân này (partial tears) và có đến 28% rách hoàn toàn gân này (full thickness tear).
Nếu căn cứ trên MRI cho mọi lứa tuổi, hết 34% có vết rách nào đó trong gân rotator cuff; có nghĩa là những vết rách này khá phổ biến, dù có triệu chứng hay không. Tuy nhiên ít khi gặp ở người dưới 40 tuổi.
Triệu chứng:
●    Đau ê ẩm, lúc đau lúc không (intermittent dull pain), đau mặt trên và mặt ngoài của vai.
●    Ban đêm bị đau vai thường do impingement (gân bị kẹt, vd mấu xương acromion của xương bả vai cọ lên gân (tendon) và túi đệm ( bursa) gây đau, lúc đưa cánh tay lên ngang tầm của vai).
●    Đau nhiều hơn lúc làm việc tay với lên khỏi đầu, hay dang tay ra trước (overhead or arm-length activities).
●    Bệnh nhân không vặn cánh tay hoàn toàn về phía mình được (incomplete internal rotation), và không đưa cánh tay lên, mở rộng nách ra được (no abduction of the shoulder).

Định bệnh:
Lúc khám bệnh nhân, bác sĩ có thể thực hiện nhiều test lâm sàng khác nhau để đánh giá các phần gân xương của khớp vai. Một cái test đơn giản gọi là Apley scratch test để xem biên độ của khớp vai có bình thường không. Bệnh nhân đưa cánh tay ra phía sau đầu mình, cố gắng đụng hay sờ được phía trên của xương bả vai phía bên kia để thử biên độ abduction (dang ra) và internal rotation (quay vào) của khớp vai. Phần thứ hai: bệnh nhân thò cánh tay xuống dưới, về phía sau lưng và cố gắng đụng vào chóp dưới cùng của xương bả vai cùng bên. Nếu không làm được các động tác này, có nghĩa các cử động vai bị giới hạn (limited range of motion) và chỉ về một vấn đề của rotator cuff.
Bác sĩ có thể cho chụp hình ảnh (MRI, CT scan) để định bệnh chính xác hơn.
Trị liệu:
1)    Vật lý trị liệu
2)    Luyện tập cử động khớp (exercises) (1)
3)    Đắp nước đá lạnh (ice)
4)    Thuốc giảm đau, giảm viêm: nếu cần uống thuốc giảm đau như Acetaminophen (paracetamol, "Tylenol"); giảm viêm nhóm NSAID (nonsteroid antiinflammatory drugs) như Ibuprofen (vd Advil, Motrin), naprosyn (Aleve). Uống thuốc NSAID coi chừng xót ruột, nên uống sau khi ăn, những người loét bao tử, từng chảy máu bao tử, áp huyết cao (hypertension, bệnh gan, dễ chảy máu (bleeding disorder) nên tránh loại NSAID này.
5)    Tramadol (Ultram) là một thuốc giảm đau loại opioid (giống như thuốc morphine, thuốc phiện) cho những bệnh đau vừa vừa hay nặng (moderate to severe pain). Khả năng giảm đau bằng 1/10 morphine, ngang với codeine. Có thể gây nghiện, liều cao có thể gây co giật (seizures). Uống trọn viên thuốc, đừng bẻ nhỏ hoặc nghiền nát. Tuyệt đối tránh uống rượu và dùng những thuốc an thần lúc uống thuốc này. Ở Mỹ tramadol thuộc về loại bị cơ quan DEA xếp vào schedule IV, giống như codeine.
6)    Chích thuốc corticoid vô khớp
7)    Chữa bằng siêu âm, chạy điện (TENS: transcutaneous electrical nerve stimulation.

Do cách định bệnh còn chưa rõ ràng, thống nhất chưa có khảo cứu nào chứng minh khách quan phương pháp nào là trị liệu thật sự hữu hiệu và tốt nhất.
Những người hoạt động nhiều (active individuals), bị rách gân nhiều hoặc toàn phần, nếu sau 3-6 tháng trị liệu bảo thủ phục hồi (rehabilitation) mà không tiến triển, cần nghĩ đến phẫu thuật.

Cần nhấn mạnh vào sự phục hồi cơ năng, và nếu bệnh nhân với gân bị rách, có thể hoạt động bình thường trong cuộc sống hàng ngày mà không đau đớn, thì có thể không cần phẫu thuật.
Bác sĩ chuyên khoa xương khớp (orthopedics) chuyên về định bệnh và chữa trị loại bệnh này. Tuy nhiên, cùng một định bệnh (diagnosis), có thể hoàn cảnh người bệnh, sở thích người bệnh mỗi người mỗi khác. Bác sĩ nội thương chuyên về y khoa phục hồi (rehabilitation medicine) cũng có thể nhìn và giải quyết vấn đề dưới một góc cạnh khác với người chuyên giải phẫu.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Bệnh lupus

Một trong những bệnh làm cho các bác sĩ và những nhà nghiên cứu đau đầu nhất là bệnh “lupus”. Đây là một bệnh kinh niên rất nặng và phát tác ở nhiều cơ phận của thân thể như khớp xương, da, thận, máu, tim, phổi... Bệnh thường xẩy ra nhiều cho các bà, không hiểu vì sao. Tuy nhiên, với những tiến bộ của khoa học, bệnh nhân lupus hiện tại có thể có một cuộc sống khá tốt so với thời xưa.

Triệu chứng
Một trong những cái lạ của bệnh này là không trường hợp bệnh nào giống trường hợp nào. Triệu chứng có thể đến từ từ hay bất thình lình, có thể nặng hay rất nhẹ, có thể thoáng qua rồi hết hoặc kéo dài vĩnh viễn. Tuy nhiên đa số mang bệnh nhẹ và bị những cơn bệnh nặng phát tác với triệu chứng nặng rồi lại hết đi một thời gian.

Triệu chứng bệnh xẩy ra tùy theo lúc ấy cơ phận nào đang bị hại. Nói chung, bệnh lupus có những triệu chứng:
-Mệt mỏi
-Sốt
-Xuống hay lên cân
-Khớp xương đau, cứng, sưng lên
-Nổi vết đỏ như hình cánh bướm trên mặt, che hai má và sống mũi
-Nổi vết trên da khi ra nắng
-Lở trong miệng
-Rụng tóc
-Ngón tay và ngón chân trắng hay xanh tái khi lạnh hay khi bị stress
-Thở dốc
-Đau ngực
-Mắt bị khô
-Dễ bị bầm
-Bồn chồn lo lắng
-Trầm cảm
-Giảm trí nhớ
Khi nào nên gặp bác sĩ?
Như vậy, khi bạn mọc những vết trên da, sốt kéo dài, nhức mỏi và mệt kinh niên, bạn nên gặp bác sĩ để được định bệnh.
Nếu bạn đã được định bệnh lupus, bạn cần gặp bác sĩ định kỳ để theo dõi bệnh trạng thường xuyên. Mỗi khi có triệu chứng gì mới, bạn cũng cần gặp bác sĩ.
Nguyên nhân
Lupus là một bệnh tự miễn nhiễm (autoimmune) tức là thay vì tấn công những vật lạ xâm nhập vào như vi trùng hay siêu vi trùng, hệ miễn nhiễm của bạn lại tấn công những cơ phận lành mạnh của cơ thể bạn, gây ra hư hoại cho khớp xương, da, thận, tim, phổi, mạch máu và óc. Hiện nay người ta vẫn chưa hiểu được tại sao hệ miễn nhiễm lại phản ứng như vậy và gây ra nhiều chứng bệnh tự miễn nhiễm mà lupus là một. Có thể nguyên nhân là di truyền và môi trường cộng lại. Những nhà khảo cứu cho rằng bạn có thể bị di truyền khả năng bị bệnh lupus chứ không phải chính bệnh ấy. Khi bị di truyền khả năng bị lupus, bệnh nhân sẽ phát bệnh khi gặp phải những yếu tố khác trong môi trường, thí dụ như thuốc men hay siêu vi nào đó.
Các loại bệnh lupus
Có 4 loại bệnh lupus, mỗi loại có cách chữa và dự đoán bệnh (prognosis) khác nhau.
1.Bệnh lupus toàn thân: xẩy ra hầu như trên tất cả các phần thân thể. Thường nhất là da, khớp xương, phổi, thận và máu.
2.Bệnh lupus da: chỉ xẩy ra trên da. Bệnh nhân bị nổi vết hình tròn trên da mặt, cổ, đầu. Một số bệnh nhân lupus da sau đó bị bệnh toàn thân nhưng thường không thể đoán trước ai sẽ tiến tới bệnh toàn thân.
3.Bệnh lupus của trẻ sơ sinh: hiếm và chỉ xẩy ra ở trẻ sơ sinh. Người mẹ có một số kháng thể liên quan tới bệnh tự miễn nhiễm và truyền qua cho thai nhi dù mẹ không bị bệnh. Kháng thể này có thể gây ra bệnh lupus trẻ sơ sinh. Em bé có thể nổi vết trên da trong những tuần sau khi em được sinh ra. Bệnh có thể kéo dài vài tháng trước khi biến mất. Bệnh nặng hơn có thể gây ra thất nhịp tim.
Ai dễ bị bệnh?
-Đàn bà dễ bị lupus hơn đàn ông.
-Bệnh thường xẩy ra nhất ở khoảng tuổi 15 tới 40 tuy rằng tuổi nào cũng có thể bị bệnh.
-Người da đen, Mễ và Á châu dễ bị bệnh hơn.
-Ra nắng có thể khởi lên bệnh lupus da hoặc những phản ứng nội tạng nơi một số người. Tại sao thì chưa được biết rõ tuy các nhà nghiên cứu nghĩ rằng ánh sáng mặt trời có thể làm các tế bào da tiết ra một số chất đạm kết hợp với những kháng thể có sẵn trong người gây ra những phản ứng viêm. Những tế bào da cũng chết sớm hơn nơi người bệnh lupus, gây ra thêm nhiều phản ứng viêm.
-Một số thuốc có thể gây ra bệnh lupus như thuốc chống bệnh điên chlorpromazine, thuốc trị bệnh cao máu hydralazine, thuốc ngừa lao isoniazid, thuốc tim procainenamide. Người ta bị bệnh lupus sau khi uống những thuốc này lâu năm. Tuy nhiên chỉ một số phần trăm nhỏ uống những thuốc này mắc bệnh.
-Nhiễm siêu vi Epstein-Barr. Hầu như ai cũng đã từng mắc bệnh siêu vi E. Barr. Siêu vi này gây ra những bệnh nhẹ như sốt, đau cổ. Sau khi bệnh hết, con siêu vi này vẫn còn nằm trong những tế bào của hệ miễn nhiễm cho đến khi khởi lên lại và làm tăng nguy cơ bị bệnh lupus.
-Bị nhiễm hóa chất. Một số hóa chất như thủy ngân và silica có thể gây ra bệnh lupus cho những công nhân làm trong nhà máy sử dụng những chất này. Hút thuốc cũng có thể làm tăng nguy cơ bị lupus.
Biến chứng
Bệnh lupus phát ra ở nhiều nơi trên thân thể người bệnh
-Thận: bệnh lupus gây ra bệnh thận rất nặng và suy thận là một trong những nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất cho bệnh nhân lupusGần ba phần tư bệnh nhân lupus sẽ bị bệnh thận trong 2 năm đầu sau khi định bệnh. Tuy nhiên có nhiều thuốc để chữa bệnh này. Triệu chứng của bệnh thận gồm có ngứa ngáy toàn thân, đau ngực, buồn nôn, ói mửa, sưng phù chân, lên cân.
-Hệ thần kinh: triệu chứng gồm có nhức đầu, chóng mặt, thay đổi tính tình, bị ảo giác và làm kinh. 80% bệnh nhân lupus thần kinh có thể bị lú lẫn, trí nhớ sút giảm và khó khăn khi diễn tả ý tưởng.
-Máu và mạch máu: Bệnh nhân lupus có thể bị thiếu máu, dễ chảy máu và máu khó đông. Họ cũng có thể bị viêm mạch máu, nguyên nhân của 7% các trường hợp tử vong.
-Phổi: Bệnh nhân lupus dễ bị viêm màng bọc phổi khiến bị đau nhức khi thở. Bệnh nhân cũng dễ bị sưng phổi. Đa số bệnh nhân phổi có thể được định bệnh nhờ những thử nghiệm. Biến chứng phổi ít khi nặng và thường không có dấu hiệu báo trước.
-Tim: Bệnh nhân lupus có thể bị viêm cơ tim, viêm động mạch vành tim hay màng bọc tim. Họ cũng dễ bị các bệnh tim mạch và dễ bị đột quỵ tim. Gần 40% bệnh nhân lupus bị bệnh cứng động mạch sớm trước tuổi so với tỉ lệ chỉ 15% cho người không bị lupus. Giữ cho huyết áp và mực cholesterol không tăng cao, không hút thuốc và vận động thân thể thường xuyên là những cách giúp giảm nguy cơ bệnh tim.
-Bệnh nhiễm trùng: Bệnh nhân lupus rất dễ bị nhiễm trùng vì cả bệnh lẫn thuốc chữa đều ảnh hưởng đến hệ miễn nhiễm. Đã vậy, nhiễm trùng còn làm cho bệnh phát tác nặng lên khiến càng dễ bị nhiễm trùng thêm. Những bệnh nhiễm trùng thông thường nhất cho bệnh nhân lupus gồm có nhiễm trùng đường tiểu, những bệnh hô hấp thông thường như cảm, bệnh nhiễm vi nấm, nhiễm vi trùng salmonella, siêu vi herpes, và bệnh giời leo. Những bệnh nhiễm trùng nặng hơn như sung phổi gây khoảng 1/3 số tử vong.
-Ung thư: Bệnh nhân lupus dễ bị ung thư, nhiều nhất là ung thư hạch bạch huyết loại non-Hodgkin và ung thư phổi. Thuốc làm giảm miễn nhiễm, đôi khi dùng để chữa bệnh lupus, cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư.
-Mô tế bào xương bị chết: Gây ra do bệnh hay do thuốc steroid dùng chữa bệnh lupus. Máu đến nuôi xương bị giảm xuống khiến có những lỗ hổng trong xương và cuối cùng là xương bị gãy. Khớp xương háng dễ bị nhất. Khoảng 1 trong 10 bệnh nhân lupus bị biến chứng này.
-Biến chứng khi mang thai: Bệnh nhân lupus dễ bị sẩy thai. Họ cũng bị bệnh nặng lên khi mang thai, dễ bị tăng huyết áp và sinh non. Bác sĩ thường khuyên bệnh nhân lupus chờ cho đến khi bệnh giảm hẳn ít nhất là được 1 năm trước khi tính chuyện có thai.
Định bệnh
Định bệnh lupus rất khó vì triệu chứng ở mỗi người đều khác nhau, lại có thể thay đổi theo thời gian và nhiều khi giống với triệu chứng những bệnh khác. Do đó nhiều khi lúc đầu bác sĩ không nghĩ là bệnh lupus cho dến khi triệu chứng trở nên rõ rệt. Ngay cả lúc này, định bệnh cũng khó vì đa số bệnh nhân lupus bị bệnh lúc nặng lúc nhẹ, có lúc lại hoàn toàn khỏe mạnh.
Hội Phong Thấp Hoa Kỳ đã đưa ra những tiêu chuẩn định bệnh lupus. Trong bảng danh sách triệu chứng bệnh sau, nếu bệnh nhân có 4/11 triệu chứng thì nhiều phần là họ đang bị lupus. Đôi khi bác sĩ cũng có thể nghi ngờ bạn bị lupus dù bạn có ít hơn 4 triệu chứng. Những tiêu chuẩn định bệnh của Hội Phong Thấp gồm có:

-Nổi đỏ trên mặt, hình như con bướm vắt ngang hai gò má và sống mũi.
-Nổi mẩn đỏ như vảy cá
-Nổi mẩn đỏ sau khi ra nắng
-Lở miệng nhưng không đau
-Sưng và đau ở hai khớp xương hay nhiều hơn
-Sưng màng bọc phổi hay tim
-Bệnh thận
-Bệnh hệ thần kinh, thí dụ như làm kinh hay bị điên
-Các tế bào máu như hồng huyết cầu, tiểu cầu hay bạch huyết cầu bị giảm đi
-Thử nghiệm antinuclear antibody dương tính
-Các thử nghiệm về bệnh tự miễn nhiễm khác cũng dương tính
Chữa trị
Cách chữa trị tùy theo lúc ấy triệu chứng gì xuất hiện. Bệnh nhân nên bàn luận với bác sĩ về các triệu chứng của mình cũng như các thuốc men và cách chữa trị. Khi triệu chứng giảm xuống hay mất đi, bệnh nhân cũng cần bàn luận với bác sĩ về chuyện thay đổi chữa trị.
1.Những thuốc thường dùng chữa lupus:
Những thuốc này dùng chữa bệnh nhẹ hay nặng vừa phải. Nếu bệnh nặng hơn, có thể phải dùng những thứ thuốc khác.
-Thuốc chống viêm không phải là steroids (non steroidal anti-inflammatory) hay NSAIDs như Advil, Naproxen... Những thuốc này bán tự do nhưng bệnh nhân cần hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng vì những phản ứng phụ rất nặng xẩy ra cho người bệnh lupus.
-Thuốc chữa sốt rét: Tuy 2 bệnh không liên quan gì với nhau nhưng người ta đã thấy tác dụng tốt của thuốc chữa sốt rét trên bệnh nhân lupus. Thuốc này cũng có những phản ứng phụ tai hại
-Thuốc corticosteroid: Những thuốc này chống lại nhưng phản ứng viêm của bệnh lupus nhưng dùng lâu ngày sẽ đưa đến những tác dụng tai hại như lên cân, dễ bị bầm, xương bị rỗng, cao huyết áp, tiểu đường, và dễ bị nhiễm trùng. Bác sĩ sẽ phải cố gắng dùng liều nhỏ nhất có thể chữa được bệnh để giảm thiểu tai hại.
2. Chữa theo triệu chứng
-Sưng và đau khớp xương: Lúc đầu thường được chữa bằng NSAIDs nhưng nếu không bớt, có thể phải dùng thuốc sốt rét hay thuốc corticosteroids.
-Mẩn đỏ trên da: Ánh nắng mặt trời có thể gây ra mẩn đỏ nhưng đôi khi ngay cả đèn nê ông cũng có thể làm bệnh nhân nổi đỏ. Mẩn đỏ được chữa bằng thuốc bôi có chất steroids hoặc thuốc uống giống trên.
-Mệt mỏi: Chữa theo nguyên nhân, có thể là do khó ngủ, trầm cảm hay đau nhức. Nếu không có nguyên nhân gì rõ rệt, bác sĩ có thể dùng thuốc như trên.
-Sưng chung quanh tim và phổi: Cũng chữa bằng những thuốc trên.
3. Chữa bệnh nặng nguy đến tính mạng
Bệnh lupus trở nặng làm nguy tính mạng khi gây bệnh thận, sưng trong các mạch máu hoặc bệnh hệ thần kinh, cần được chữa mạnh mẽ hơn bằng liều cao thuốc corticosteroids hay thuốc chống miễn nhiễm hoặc dùng cả hai một lúc để làm bớt liều lượng, bớt tác dụng phụ. Ngay cả khi dùng thuốc với liều cao, bệnh nhân vẫn có thể bị bại thận cần phải đi lọc hay thay thận. Hiện người ta đang nghiên cứu nhiều loại thuốc mới nhưng phải cần có thời gian thử nghiệm.
4. Chữa bằng ngoại khoa (alternative medicine)
Ngoài những cách chữa trên, nếu bệnh nhân không thấy thuyên giảm hoặc nếu muốn, bệnh nhân có thể theo chữa những phương pháp khác. Có thể bàn luận với bác sĩ để tìm hiểu xem các phương pháp mình muốn dùng có ảnh hưởng đến các thuốc đang uống hay có gì tai hại không vì phần nhiều các cách chữa ngoại khoa chưa được kiểm chứng rõ rệt. Những cách chữa này thường gồm có uống dầu cá hay flaxseed.
Tự giúp
Bệnh nhân lupus có thể sống một cuộc sống tương đối thoải mái nếu chịu theo những cách tự giúp sau đây:

-Nghỉ ngơi đầy đủ: bệnh nhân lupus thường bị mệt mỏi thường xuyên, khác với cái mệt mỏi của người không bệnh. Họ nên ngủ đầy đủ hoặc nghỉ ngơi thêm trong ngày. Người thân và bạn bè nên để cho họ ngủ nghỉ đủ.

-Tránh mặt trời: Luôn mặc quần áo kín, đội nón, áo tay dài, quần dài và bôi kem chống nắng chỉ số ít nhất là 15, mỗi lần ra khỏi nhà, dù chỉ là ít phút. Phải bảo vệ cả tai, da đầu và lưng bàn tay. Lúc mặt trời nóng nhất là từ 10 giờ sáng tới 4 giờ chiều nên tránh ra khỏi nhà. Ngay cả đèn huỳnh quang trong nhà cũng có thể gây ra cơn bệnh, họ cũng phải mặc đồ kín và bôi kem chống nắng trong nhà hoặc dùng thiết bị chắn tia UV từ các đèn này.

- Vận động thân thể: Tập thể dục giúp bệnh nhân mau lành bệnh khi bị cơn bệnh nặng, giúp giảm nguy cơ đột quị tim, chống trầm cảm và cảm thấy vui khỏe hơn. Vận động thân thể theo sức chịu đựng của mình, ít nhất 30 phút mỗi ngày chia ra làm nhiều lần. Nếu thấy mệt quá thì có thể nghỉ.
-Không hút thuốc vì thuốc lá có thể làm tăng tai hại của bệnh lupus trên tim mạch.

- Ăn uống lành mạnh tức nhiều trái cây, rau và ngũ cốc nguyên hạt. Đôi khi bệnh nhân phải ăn kiêng nếu bị cao huyết áp, hư thận hay bệnh đường tiêu hóa. Tránh những thức ăn có vẻ làm triệu chứng bệnh tăng lên.

-Tránh bị trầm cảm hay lo lắng quá độ và mặc cảm bằng cách tìm hiểu kỹ về bệnh của mình trong sách vở hay internet. Viết xuống giấy những thắc mắc để hỏi bác sĩ trong những lần đi khám bệnh. Càng hiểu biết nhiều về bệnh, bạn càng tự tin trong việc chọn lựa những cách chữa trị cho mình. Cũng nên nói chuyện nhiều với bạn bè người thân để họ cũng hiểu rõ về bệnh lupus. Họ có thể hiểu sai về mình vì đôi khi bệnh nhân lupus trông rất khỏe mạnh. Dành thì giờ cho chính mình để tập cho bớt stress. Bệnh nhân có thể đọc sách, thiền, nghe nhạc hoặc viết lách. Tìm những hoạt động êm ả hợp với mình. Bệnh nhân cũng nên gia nhập các nhóm hỗ trợ người bệnh lupus đề tiếp xúc với những người đồng bệnh và chia sẻ cảm xúc cũng như những tin tức mới về bệnh.

BS Nguyễn Thị Nhuận